Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Biện pháp quản lý đội ngũ nhà giáocán bộ quản lý giáo dục ở cơ sở giáo dục...

Tài liệu Biện pháp quản lý đội ngũ nhà giáocán bộ quản lý giáo dục ở cơ sở giáo dục

.DOCX
33
383
128

Mô tả:

Biện pháp quản lý đội ngũ nhà giáo cán bộ quản lý giáo dục ở cơ sở giáo dục.docx
Đề bài: Từ lý luận và thực tiễn hãy đề xuất các biện pháp quản lý đội ngũ nhà giáo/cán bộ quản lý giáo dục ở cơ sở giáo dục hoặc địa phương anh chị công tác. BÀI LÀM PHẦN 1 : CÔNG TÁC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC 1. Thực trang,mục đích đổi mới nền giáo dục và điều kiện đảm bảo sự thành công trong công tác.  Thực trạng Công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục không thể chỉ giao và là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục. Đây là sự nghiệp lớn lao của cả Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục có những bước phát triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập: - Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục; chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa thực sự là quốc sách hàng đầu. - Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên. - Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy “nghề” vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống… 1 - Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông, mất cân đối. - Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới, là nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực khác của đất nước. - Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và năng lực của một bộ phận còn thấp. - Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định hướng liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa xác định rõ phương châm. - Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa học giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục còn nhiều bất cập. - Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu những quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được ban hành rồi nhưng chỉ đạo tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệu quả); một số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội. Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không thể giải quyết khắc phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ, bề mặt nhất thời, thiếu chiến lược và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và hệ thống, chưa đạt tới chiều sâu bản chất của vấn đề. Để giải quyết được căn bản những vấn đề đặt ra, những người lãnh đạo quản lý, những nhà khoa học, những người làm giáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy đủ, khách quan, như các văn kiện của Đảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn những gì nêu trên báo chí và những báo cáo tổng kết thành tích.  Mục đích Quan điểm: 2 Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hô ̣i. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp. Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vê ̣ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng. Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo. Chủ đô ̣ng phát huy mă ̣t tích cực, hạn chế mă ̣t tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. 3 Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Mục tiêu tổng quát Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Mục tiêu cụ thể: Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020. Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục. Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng 4 kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc chín năm từ sau năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương. Đối với giáo dục nghề nghiêp, ̣ tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiê ̣m nghề nghiê ̣p. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiê ̣p với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế. Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình đô ̣ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó có mô ̣t số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề; bảo đảm xóa mù chữ bền vững. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học và giáo dục từ xa. Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài, có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn 5 hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với quê hương, đồng thời xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước. Điều kiện đảm bảo thành công: Có thể nói rằng quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc trong giai đoạn mới. Bởi vì, sức mạnh của một dân tộc, năng lực cạnh tranh của một quốc gia đang chuyển mạnh từ nguồn lực tài nguyên, vốn, lao động sang tri thức, trí tuệ, nguồn nhân lực chất lượng cao - là năng lực tổng hợp của những thế hệ người làm chủ thể vững vàng, tin cậy, đầy bản lĩnh của một dân tộc. Và đó phải là sản phẩm của một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại. Nhưng đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục không phải là một quá trình đơn giản, dễ dàng; không phải chỉ vì nền giáo dục đang có nhiều yếu kém, bất cập, thiếu nguồn lực đầu tư, mà còn bởi nhiều vấn đề mới đang còn không ít nhận thức khác nhau, cần có những nghiên cứu sâu để tìm ra lời giải có căn cứ cả về lý luận khoa học và thực tiễn. Hơn nữa giáo dục là một hệ thống xã hội lớn, khá phức tạp với nhiều chủ thể tham gia và liên quan, vận hành liên tục, năm này gắn với năm khác, bậc nọ gắn với bậc kia, không thể dừng lại một cách dứt đoạn, làm lại từ đầu cả hệ thống cùng một lúc. Quá trình đổi mới này cũng không thể là công việc của một năm, 5 năm, mà là công việc của 10 năm và có thể lâu hơn. Do đó, quá trình đổi mới này phải được triển khai thống nhất, đồng bộ, có bước đi phù hợp với những ưu tiên xác định, trên cơ sở gắn nghiên cứu khoa học với thử nghiệm, với tổng kết thực tiễn, với tổ chức triển khai rộng trên thực tế, rút kinh nghiệm và điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện, để không cho phép xảy ra những sai lầm nghiêm trọng. 6 Tất cả những vấn đề quan trọng liên quan đến quá trình đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục phải được nghiên cứu một cách thấu đáo, khoa học, khách quan và có hệ thống. Do tầm quan trọng, quy mô, tính chất và nội dung rộng lớn đó, nên công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục không thể chỉ giao và là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục. Đây là sự nghiệp lớn lao của cả Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Vì vậy cần có một Ban Chỉ đạo Trung ương (hay Ban Chỉ đạo Quốc gia) về đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục, với sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Nhà nước, với sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học, quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp và những người am hiểu sâu sắc về giáo dục…, trong đó ngành giáo dục là nòng cốt. Vấn đề quan trọng đầu tiên là phải tổ chức nghiên cứu xây dựng cho được một Đề án tổng thể về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục cho giai đoạn 10 năm 2011 - 2020. Đề án phải nêu lên được quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, khung nội dung và các nhiệm vụ chủ yếu, lộ trình nghiên cứu và triển khai thực hiện, nguồn lực để thực hiện… Sau khi Đề án được phê duyệt mới chỉ đạo triển khai cụ thể các nội dung, nhiệm vụ; điều này không có nghĩa là không thực hiện ngay các sửa đổi, điều chỉnh cụ thể, cần thiết khi đã có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn. Vì đây là nhiệm vụ quan trọng, rộng lớn và lâu dài nên cần có Bộ phận thường trực chuyên trách gồm những người am hiểu sâu lý luận khoa học giáo dục và thực tiễn giáo dục, rất tâm huyết, giúp việc Ban Chỉ đạo Quốc gia. Việc thành lập và sự chỉ đạo sâu sát, thường xuyên của Ban Chỉ đạo Quốc gia về đổi mới giáo dục là một trong những yếu tố quyết định đảm bảo cho sự nghiệp này thành công./. 2. Thực trạng đổi mới nền giáo dục của một số quốc gia trên thế giới, Hàn Quốc Mục tiêu chính của cuộc cải cách giáo dục ở Hàn Quốc hiện nay là nhằm xây dựng một nền giáo dục mở, tạo cơ hội cho mọi người được học tập suốt đời để họ có thể trở thành những con người mới có đủ tri thức, năng lực, đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội thông tin và toàn cầu hoá. 7 Để đạt được những mục tiêu đó, phương hướng của cải cách giáo dục được xác định là: Chuyển nền giáo dục lấy trung tâm là thầy sang một nền giáo dục mới có trung tâm là trò; Từ giáo dục đồng bộ sang giáo dục đa dạng hóa, đặc trưng hóa; Quản lý giáo dục trên cơ sở quy chế và mệnh lệnh sang quản lý giáo dục trên nền tảng tự giác và trách nhiệm; Từ giáo dục bắt buộc sang giáo dục tự do, bình đẳng và cân đối; Từ giáo dục truyền thống với bảng đen phấn trắng sang giáo dục mở thông qua mạng thông tin số hoá; Hướng tới xây dựng một nền giáo dục chất lượng cao, đạt trình độ các nước phát triển trong một thời gian ngắn nhất. Về tổng thể, cuộc cải cách giáo dục hiện nay của Hàn Quốc được triển khai trên một số phương diện chủ yếu là: Đổi mới nhận thức về giáo dục Cải cách hệ thống giáo dục Cải cách chương trình giáo dục Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục Huy động các nguồn lực tài chính và lực lượng tham gia. Góc nhìn từ Hàn Quốc Hàn Quốc không có nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng phát triển được như ngày hôm nay một phần là nhờ biết tận dụng nguồn chất xám của đội ngũ trí thức Hàn Quốc được đào tạo bài bản ở nước ngoài trở về đóng góp cho đất nước. Bên cạnh đó, những chính sách về đổi mới giáo dục đại học kèm theo các chương trình phát triển nhân lực trình độ cao trong khoa học, công nghệ, công nghiệp đã đóng vai trò then chốt trong việc phát triển nền kinh tế. Điều làm nên thành công của Hàn Quốc chính là sự đồng thuận và quyết tâm cao của Chính phủ và người dân Hàn Quốc, trong đó có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ Hàn 8 kiều được đào tạo bài bản ở tất cả các nước tiên tiến quay trở về nước tham gia vào phát triển đất nước. Chính những con người này cùng với hỗ trợ chính sách đặc biệt của Chính phủ và phối hợp, đồng thuận của các cơ quan chức năng, đã đưa Hàn Quốc trở thành một nước phát triển như hiện nay, dựa trên nền tảng sự phát triển vượt bậc về khoa học và công nghệ cao trong thời gian ngắn. *Nhận xét và hướng phát triển cho nền giáo dục nước ta hiện nay: Thứ nhất, Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội tăng tỷ lệ phần trăm dành cho giáo dục lên mức 5% GDP vì hiện nay tỷ lệ này quá thấp (nhỏ hơn 1% GDP). Mặt khác, trao quyền tự chủ cho các trường đại học có thể coi là một trong các biện pháp hữu hiệu để phát triển giáo dục đại học. Trường nào không có khả năng đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của quốc gia sẽ tự dần phải thay đổi hoặc tự đào thải. Thứ hai, giao quyền phong giáo sư và phó giáo sư cho các trường theo mô hình giống như các nước phát triển đã và đang làm. Giáo sư và phó giáo sư dựa trên những công bố trên tập san khoa học quốc tế, bằng phát minh sáng chế (patent), hoặc các thành tích nghiên cứu khoa học khác đã đạt được. Các trường đại học phải đóng vai trò là nhà nghiên cứu tiên phong, các giảng viên trong trường phải nghiên cứu và có các xuất bản khoa học chất lượng trình độ quốc tế. Thứ ba, giao trách nhiệm và trao niềm tin cho đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài. Tạo các cơ hội để cho họ cống hiến và chứng minh khả năng trên quê hương mình. Thứ tư, tuyển chọn và tài trợ cho những người có chuyên môn phù hợp với những việc mà xã hội và đất nước đang cần đến. Việc tài trợ cho đội ngũ này cần ở mức đủ để họ tập trung vào nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ (thí dụ như họ được làm việc với điều kiện nghiên cứu tốt, có phụ cấp cao gấp vài lần mức lương cơ bản hiện nay). Ngược lại, họ phải đáp ứng yêu cầu công việc là phải hợp tác được với nhau thành những nhóm nghiên cứu mạnh, nhận những nhiệm vụ cụ thể và chịu những trách nhiệm cam kết với nhà nước. 9 Thứ năm, các chính sách về khoa học và giáo dục cần đề cao giá trị của các nghiên cứu khoa học có chất lượng (dựa trên số lượng bài báo công bố trên các tạp chí quốc tế khoa học chuyên ngành, và chỉ số trích dẫn của bài báo). Thứ sáu, cần cải tiến mạnh mẽ cách xây dựng, tuyển chọn và đánh giá các chương trình, đề tài khoa học công nghệ. Bắt buộc các công ty lớn ở Việt Nam phải có phòng nghiên cứu và phát triển, tăng cường việc phối hợp với các trường đại học trong nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, hàm lượng chất xám cao, tạo giá trị cho việc phát triển nền kinh tế. Thứ bảy, tăng số lượng các trường đại học quốc tế hoặc hợp tác quốc tế để đào tạo nhân lực trình độ quốc tế ngay tại Việt Nam; Tập trung nâng cao mười trường đại học trọng điểm của Việt Nam theo chiến lược mười năm để nâng cao xếp hạng của những trường này theo xếp hạng quốc tế (đặt mục tiêu lọt vào top 200 thế giới). Việt Nam cần thành lập chương trình có tính chiến lược như chương trình Brain Korea 21 của Hàn Quốc đã thực hiện, định hướng và liên kết giữa giáo dục đại học và các nhà nghiên cứu trẻ, nguồn nhân lực trình độ cao trong việc phát triển khoa học, công nghệ, tăng trưởng vượt bậc cho nền kinh tế quốc gia. 10 PHẦN 2: LÝ LUẬN THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO/CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở CƠ SỞ CÔNG TÁC 1. Lý luận thực tiễn về công tác quản lý nguồn nhân lực giáo dục và thực trạng tại cơ sở công tác Ở Việt Nam ngay từ thời xưa, ông cha ta đã rất coi trọng vai trò người thầy giáo “không thầy đố mày làm nên”, không có thầy sẽ không có giáo dục. Điều đó nhắc nhở mọi người phải quan tâm mọi mặt đến giáo dục, đến đội ngũ giáo viên. Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Bước sang thế kỷ XXI, thế giới đã có những biến đổi sâu sắc về Kinh tế - xã hội cùng với những thành tựu của công nghệ thông tin. Để xây dựng một nền móng vững chắc đáp ứng những biến đổi đó, giải pháp có ý nghĩa quyết định và cơ bản nhất của mọi quốc gia là tăng cường đầu tư cho nguồn lực con người. Với việc thực hiện nhiệm vụ cơ bản của xã hội, đội ngũ lao động kế cận giàu tiềm năng, sự nghiệp giáo dục – đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng đang đứng trước những yêu cầu mới. Giáo dục phải tạo nên những sản phẩm đào tạo thích nghi cao với thị trường lao động có phẩm chất, năng lực, chủ động và sáng tạo. Vì thế, chất lượng giáo dục đang là một đòi hỏi cấp thiết mang tính toàn cầu. Trong thời đại ngày nay bất cứ một lĩnh vực hoạt động nào của xã hội cũng cần đến hoạt động quản lý, quản lý được xem là một khoa học, một nghệ thuật cũng được xem là công nghệ điều hành phối hợp và sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và tinh thần của một tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra. Chính vì vậy mà Đảng ta đã đề ra mục tiêu chiếm lược phát triển kinh tế xã hội giáo dục là: “Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, nhân lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị 11 trường định hướng XHCN được hình thành cơ bản, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.”. Trong lĩnh vực giáo dục, quản lý giáo dục có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lương & hiệu quả giáo dục. Trong chiếm lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 công tác quản lý giáo dục được xem là khâu đột phá trong việc đề ra các mục tiêu và giải pháp phát triển giáo dục nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt. Muốn đạt được các mục tiêu cần hết sức xem trọng công tác quản lý phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 40 về việc chỉ đạo "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục". Chỉ thị nêu rõ: "Phát triển GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNHHĐH đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người". Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng. Cùng với sự đi lên của tổ chức xã hội, khoa học quản lý ngày càng phát triển mạnh mẽ và có ý nghĩa quyết định trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Từ các lĩnh vực kinh tế, quản lý hành chính Nhà nước, tới các lĩnh vực văn hóa - xã hội… đều khai thác hiệu quả các thành tựu của khoa học quản lý. Ứng với mỗi lĩnh vực, công tác quản lý đều đã phát triển thành một khoa học quản lý với những đặc thù riêng. Khoa học quản lý giáo dục đã hình thành và phát triển khá sớm, trở thành yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Về mặt lịch sử, khoa học quản lý giáo dục ra đời và phát triển sau khoa học quản lý kinh tế, vì vậy nó sử dụng được những thành tựu tiến bộ của khoa học quản lý. Trên thế giới tồn tại hai xu hướng phát triển về khoa học quản lý giáo dục. Xu hướng thứ nhất là thực hiện quá trình quản lý giáo dục trên cơ sở của quản lý kinh tế, coi quản lý cơ sở giáo dục như một loại “Xí nghiệp đặc biệt” . Xu hướng thứ hai, quá trình quản lý giáo dục bắt nguồn từ lý luận quản lý xã hội, xã hội được chia thành ba lĩnh vực là “chính trị - xã hội”, “văn hóa - tư tưởng” và “kinh tế”, quản lý xã hội là quản lý ba lĩnh vực đó và như vậy, quản lý giáo dục nằm trong lĩnh 12 vực quản lý văn hóa - tư tưởng . Quản lý giáo dục, theo nghĩa rộng là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội, quá trình đó bao gồm các hoạt động có tính giáo dục của bộ máy Nhà nước, của các tổ chức xã hội, của hệ thống giáo dục quốc dân, của gia đình… Quản lý giáo dục, theo nghĩa hẹp bao gồm : quản lý hệ thống giáo dục là quản lý các hoạt động giáo dục đào tạo diễn ra trong các đơn vị hành chính (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc) và quản lý nhà trường. “Một quy luật của tiến bộ xã hội là thế hệ đi sau phải lĩnh hội cả những kinh nghiệm xã hội mà các thế hệ đi trước đã tích lũy và truyền lại, đồng thời phải làm phong phú thêm những kinh nghiệm đó” . Thực hiện quy luật này là chức năng của giáo dục nói chung và quản lý giáo dục nói riêng. QLGD có hai chức năng là : “ổn định duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội” và “đổi mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu tiến bộ kinh tế xã hội”. Như vậy, “QIGD là hoạt động điều hành các nhà trường để giáo dục, vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế” .Với các chức năng trên quản lý giáo dục có vị trí cao nhất trong việc tạo điều kiện XHH cá nhân, hình thành và phát triển nhân cách, nhằm giúp con người đảm nhận và gánh vác được những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đánh giá về thành tựu của giáo dục, Đảng ta khẳng định: "Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng đông đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đội ngũ này đã đáp ứng quan trọng vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ CNHHĐH, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có những hạn chế, bất cập: số lượng giáo viên vừa thiếu lại vừa thừa. Cơ cấu giáo viên mất cân đối giữa các môn học, các vùng, miền. Chất lượng chuyên môn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và phát triển xã hội. Phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới. Một bộ phận nhà giáo thiếu 13 gương mẫu trong đạo đức, lối sống, nhân cách. Chất lượng giáo dục còn thấp, học sinh, sinh viên ra trường chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của xã hội…. Bản chất và chức năng của quản lý. - Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của quản lý đến tập thể người bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Trong giáo dục nhà trường đó là tác động của người quản lý đến toàn thể giáo viên, học sinh và các lực lượng khac nhau nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu của giáo dục. - Chủ thể quản lý: cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức - Khách thể quản lý: những con người cụ thể, quan hệ giữa những con người, giữa những nhóm người khác nhau - Công cụ quản lý: là phương thức tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý: mệnh lệnh, quyết định, chính sách, luật lệ… - Phương pháp quản lý: có thể do nhà quản lý áp đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý + Trong quản lý giáo dục thì: - Chủ thể quản lý: bộ máy quản lý các cấp - Khách thể quản lý: là hệ thống quản lý giáo dục (trường học, trung tâm giáo dục..) - Quan hệ quản lý: người dạy - người học, người quản lý - người dạy… Chức năng của quản lý là các hoạt động xác định được chuyên môn hoá, nhờ đó có thể quản lý tác động vào đối tượng quản lý, hay nói một cách khác chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý đặc biệt, thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Có thể nói là quản lý có 4 chức năng sau: - Chức năng kế hoạch hoá - Chức năng tổ chức - Chức năng lãnh đạo - Chức năng kiểm tra  Khái niệm quản lý giáo dục: 14 Nếu hiểu rõ giáo dục là hoạt động diễn ra trong xã hội nói chung thì quản lý giáo dục là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội. Nếu hiểu giáo dục là hoạt động chuyên biệt trong các cơ sở giáo dục thì quản lý giáo dục là quản lý các hoạt động trong một cơ sở giáo dục như: trường học. trưng tam giáo dục…Quản lý giáo dục là một loại hình quản lý đặc biệt. - Một số các tác giả đã đưa ra những khái niệm quản lý giáo dục như sau: + “ Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhắm đẩy mạnh cộng tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội nói hiện nay”. + Nói một cách khác: “ Quản lý giáo dục là điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân”.  Quản lý nhà trường: Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD&ĐT. Trường học là một bộ phận của hệ thống xã hội mà ở đó tiến hành quá trình giáo dục đào tạo, gọi chung là “cơ sở giáo dục”. “Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, là nơi thực hiện chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cho một nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm xã hội, thực hiện chức năng tạo nguồn cho các yêu cầu của xã hội, đào tạo các công dân cho tương lai”. Trường học với tư cách là một tổ chức giáo dục cơ sở, vừa mang tính giáo dục, vừa mang tính xã hội, trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ, nó là tế bào chủ chốt của bất kỳ hệ thống giáo dục nào từ trung ương đến địa phương. Như vậy “Quản lý nhà trường là gì ? Theo GS.VS Phạm Minh Hạc “ Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”. Ông cho rằng : “Việc quản lý nhà trường phổ thông là quản lý hoạt động dạy học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục” và “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học, thực hiện 15 được các giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước” . Có thể thấy, công tác quản lý trường học bao gồm sự quản lý các tác động qua lại giữa trường học và xã hội, đồng thời quản lý chính nhà trường. Người ta có thể phân tích quá trình giáo dục của nhà trường như một hệ thống gồm sáu thành tố : Mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, thầy giáo, học sinh, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ giáo dục. Như vậy, các thành tố này được chia làm ba loại : Thành tố con người, thành tố tinh thần và thành tố vật chất. Quản lý nhà trường là quản lý hệ thống xã hội - sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có khoa học và có hướng của chủ thể quản lý trên tất cả các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh. Người quản lý trường học là hiệu trưởng của các nhà trường. Vì vậy, quản lý trường học thực chất là quản lý quá trình lao động sư phạm của thầy, hoạt động học tập tự giáo dục của trò, diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy học. Quản lý trường học là quản lý tập thể giáo viên và học sinh để chính họ lại quản lý (đối với giáo viên) và tự quản lý (đối với học sinh) quá trình dạy - học, nhằm tạo ra sản phẩm là nhân cách con người mới. Đồng thời, quản lý trường học còn bao gồm quản lý các công việc khác có tính chất điều kiện như : Đội ngũ, tổ chức hoạt động của các đoàn thể trong trường, quản lý cơ sở vật chất, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ giáo viên, học sinh .v.v…  Quản lý đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục Đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục là tập thể ngươig bao gồm: cán bộ quản lý, giáo viên và công nhân viên. Nếu chỉ đề cập đặc điểm của ngành thì đội ngũ nhag giáo chủ yếu là đôi ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ nhà giáo. 16 Việc quản lý và nâng cao hoạt động của nhà trương phụ thuộc vào cơ chế quản lý và chính sách phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nhà trường. Vấn đề quản lý nhân sự ở nhà trường có nhiều cách tiếp cận và tìm ra nhiều những giải pháp. Đề tài nghiên cứu của tiểu luận chỉ tập trung vào kía cạnh: công tác quản lý đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở nhà trường THPT để đề xuất những giải pháp phát triển, nâng cao chất lượng đội nguc nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục. 2. Thực trạng giảng dậy và việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ/ giáo viên tại đơn vị công tác. Nhà trường đã xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục nhà trường theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Các nội dung dạy học lồng ghép, nội dung giáo dục kĩ năng sống, giá trị sống trong các môn học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo: * Triển khai dạy học tích hợp giáo dục môi trường: - Có chuyên đề dạy học tích hợp giáo dục môi trường (GDCD 6, 7). - Lồng ghép giáo dục môi trường trong các bài cụ thể ở từng môn học. - Triển khai tích hợp giáo dục môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học vào các môn học. * Môn Vật lí và Công nghệ lồng ghép nội dung tiết kiệm nguồn năng lượng trong việc sử dụng nguồn điện. * Hướng dẫn học sinh các hoạt động trải nghiệm sáng tạo: - Hướng dẫn học sinh tập kinh doanh thông qua Hội chợ truyền thông (tích hợp với dự án Plan). - Hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thực hành Văn hóa dân tộc thông qua việc trưng bày mâm cỗ trung thu trong hoạt động “Vui hội trăng rằm” - Hướng dẫn học sinh tham gia Câu lạc bộ STEM. Công tác giáo dục hướng nghiệp; dạy nghề phổ thông và nghề truyền thống của địa phương: * Công tác giáo dục hướng nghiệp: 17 - Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc chọn nghề có cơ sở khoa học - Thế giới nghề nghiệp quanh ta (5 tiết) * Công tác dạy nghề phổ thông: - Dạy nghề điện dân dụng cho tất cả học sinh khối 8 và khối 9 * Công tác giáo dục nghề truyền thống của địa phương: - Nghề rèn Đa Sỹ - Dệt lụa Vạn Phúc * Những thuận lợi trong quá trình thực hiện: - Có các Văn bản chỉ đạo cấp trên - Nhà trường có kế hoạch cụ thể, rõ ràng - Học sinh nhiệt tình, hứng thú tham gia. * Khó khăn: - Ít có thời gian để thực hiện các hoạt động trải nghiệm (do trường phải học hai ca và nhiều học sinh coi trọng việc học văn hóa hơn các hoạt động thực tế; một số giáo viên còn coi nhẹ công việc này) - Thiếu các chuyên gia tư vấn. Công tác chỉ đạo, tổ chức và quản lý hoạt động chuyên môn trong trường học Đổi mới hình thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh: * Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá: - Một số giáo viên chưa thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới về kiểm tra đánh giá đối với học sinh. - Chuyên đề đổi mới kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng từ năm học trước chưa đem lại hiệu quả thiết thực (chưa xây dựng được những chuyên đề cụ thể). * Đổi mới sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn qua nghiên cứu bài học: - Việc sinh hoạt tổ - nhóm tuy đều đặn nhưng có nhóm chưa đi vào chiều sâu (Âm nhạc, Mỹ thuật, Công nghệ, Ngữ văn). - Dự giờ, thăm lớp tuy thường xuyên nhưng lượng giáo viên dự còn hạn chế. 18 - Sau mỗi giờ dự đều rút kinh nghiệm để mỗi GV học tập. - Tăng cường kiểm tra theo định kì và đột xuất hồ sơ chuyên môn. * Các mô hình giáo dục mới: - Mô hình trường học “An toàn, thân thiện, bình đẳng” do tổ chức Plan tài trợ (đã kết thúc tháng 11/2016). - Mô hình dạy học STEM (mới bắt đầu thể nghiệm ở dạng sinh hoạt câu lạc bộ). Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học và các cuộc thi khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học: - Cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học sinh trung học: Nhóm học sinh lớp 8A5 thực hiện đề tài “Sử dụng máy tính một cách an toàn và hiệu quả”. - Các cuộc thi khác: + Thi Olympic Tiếng Anh trên Internet (IOE) cho học sinh khối 6, 7, 8, 9, với hàng trăm lượt học sinh tham gia. + Thi giải Toán Tiếng Anh, Toán tiếng Việt, Vật lí trên Internet cho học sinh khối 6, 7, 8,9. + Thi chinh phục Vũ môn (đang thi thì Bộ GD&ĐT yêu cầu dừng lại). + Giải Nhất cuộc thi “Giai điệu tuổi hồng”. + Thi Festival Tiếng Anh cấp Quận: Giải Nhất + Thi “Văn hóa đọc Thủ đô”: Trường được công nhận Tập thể có thành tích xuất sắc; và 02 học sinh được chọn vào tốp 05 em của Thành phố làm Đại sứ Văn hóa đọc. Tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn qua trang mạng giáo dục "Trường học kết nối" * Khó khăn: Do nhà cung cấp trang “trường học kết nối” chỉ cấp không quá 1000 tài khoản cho học sinh nên chỉ các em ở các khối 6, 7, 8 mới được tham gia. Tổ chức kiểm tra học kỳ: - Đối với lớp 9: Các đề Ngữ văn, Toán, Tiếng Anh thống nhất chung toàn Quận. 19 Đề Ngữ văn 9 với đáp án được coi là khó đối với trình độ học sinh nên kết quả đạt rất thấp. Đề Toán 9 thiếu phần trắc nghiệm (chỉ có tự luận). - Đề của lớp 6, 7, 8 và các môn còn lại của lớp 9: Được ra đề thống nhất, đúng qui trình - Việc chấm thi nghiêm túc, đúng qui chế. Công tác bồi dưỡng và phát triển đội ngũ Trường tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về phương pháp dạy mới (STEM) và mô hình trường học mở (VNEN) do BỘ GD&ĐT, Sở GD&ĐT tổ chức. - Nhà trường đã tổ chức tốt việc tập huấn về nội dung: Dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh; Tìm hiểu về kinh doanh; Tổ chức hoạt động hướng nghiệp; công tác giáo viên chủ nhiệm lớp; giáo viên phụ trách công tác Đoàn, Đội; giáo viên tư vấn tâm lí trong trường học... đã được tiếp thu trong các đợt tập huấn của Bộ, Sở GDĐT và BQL Dự án Plan và dự án Dinh dưỡng học đường, … - Tham dự đầy đủ các buổi tập huấn do các trung tâm giáo dục, các trường đại học, cao đẳng sư phạm tổ chức bồi dưỡng thường xuyên đối với giáo viên THCS (đây là các lớp chuyên đề do PGD&ĐT Quận tổ chức, Cán bộ QL và giáo viên nhà trường có tham gia). - Đã triển khai diễn đàn trên mạng để chỉ đạo và hỗ trợ hoạt động đổi mới sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn trong trường phổ thông; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học; tăng cường tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại trường (trực tiếp và qua mạng); chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán các môn học. - Dự các lớp tập huấn nâng cao năng lực của giáo viên chủ nhiệm lớp, cán bộ phụ trách công tác Đoàn, Đội, giáo viên tư vấn trường học. - Tăng cường các hình thức bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý và hỗ trợ hoạt động dạy học và quản lý qua trang mạng Trường học kết nối, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học; tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại trường, cụm trường, theo hướng dẫn tại công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan