Biện pháp quản lý đội ngũ nhà giáo cán bộ quản lý giáo dục ở cơ sở giáo dục.docx
Đề bài: Từ lý luận và thực tiễn hãy đề xuất các biện pháp quản lý đội ngũ nhà
giáo/cán bộ quản lý giáo dục ở cơ sở giáo dục hoặc địa phương anh chị công tác.
BÀI LÀM
PHẦN 1 : CÔNG TÁC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
1. Thực trang,mục đích đổi mới nền giáo dục và điều kiện đảm bảo sự thành công
trong công tác.
Thực trạng
Công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục không thể chỉ giao và là nhiệm
vụ riêng của ngành giáo dục. Đây là sự nghiệp lớn lao của cả Đảng, Nhà nước và toàn xã
hội.
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục có những bước phát triển, có những thành
tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho công
cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa
rất nhiều yếu kém, bất cập:
- Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục; chất
lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng; so với
yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa thực sự là quốc sách
hàng đầu.
- Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm
hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát huy
tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
- Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối
sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy “nghề” vẫn
yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ
năng thực hành, kỹ năng sống…
1
- Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông, mất cân
đối.
- Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới, là
nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi
mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực khác của đất nước.
- Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và năng
lực của một bộ phận còn thấp.
- Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định hướng liên
kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa xác định rõ
phương châm.
- Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đất nước
trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa học giáo dục chưa
được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.
- Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành cơ chế,
chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu những quyết
sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được ban hành rồi nhưng chỉ đạo
tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệu quả); một số chính sách về giáo dục
còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không thể giải quyết
khắc phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ, bề mặt nhất thời, thiếu
chiến lược và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và hệ thống, chưa đạt tới chiều sâu bản
chất của vấn đề. Để giải quyết được căn bản những vấn đề đặt ra, những người lãnh đạo quản lý, những nhà khoa học, những người làm giáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy
đủ, khách quan, như các văn kiện của Đảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn những gì nêu
trên báo chí và những báo cáo tổng kết thành tích.
Mục đích
Quan điểm:
2
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hô ̣i.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi,
cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế,
chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia
đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những
nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh
những nhận thức, việc làm lệch lạc.
Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối
tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình,
bước đi phù hợp.
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn;
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo
vê ̣ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển
phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu
quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học,
trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và
đào tạo.
Chủ đô ̣ng phát huy mă ̣t tích cực, hạn chế mă ̣t tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa,
hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền.
3
Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn,
vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa và các đối tượng chính sách.
Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời
giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Mục tiêu tổng quát
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp
ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân
dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng,
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và
làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có
cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các
điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội
nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản
sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực.
Mục tiêu cụ thể:
Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ,
hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Hoàn
thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ
cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020. Từng bước chuẩn hóa hệ
thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù
hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục.
Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm
chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho
học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền
thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng
4
kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt
đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015.
Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền
tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải
tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng
cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc chín năm từ sau năm 2020.
Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung
học phổ thông và tương đương.
Đối với giáo dục nghề nghiêp,
̣ tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và
trách nhiê ̣m nghề nghiê ̣p. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiê ̣p với nhiều phương
thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm
đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc
tế.
Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình đô ̣ cao, bồi dưỡng nhân
tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học.
Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo
phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó có mô ̣t số trường và ngành
đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu
cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
và hội nhập quốc tế.
Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông
thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ,
kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người
lao động chuyển đổi nghề; bảo đảm xóa mù chữ bền vững. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở
giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi
trọng tự học và giáo dục từ xa.
Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở
nước ngoài, có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn
5
hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần phát huy sức mạnh
của văn hóa Việt Nam, gắn bó với quê hương, đồng thời xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị
với nhân dân các nước.
Điều kiện đảm bảo thành công:
Có thể nói rằng quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục có tầm quan trọng
đặc biệt, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc trong giai đoạn mới.
Bởi vì, sức mạnh của một dân tộc, năng lực cạnh tranh của một quốc gia đang
chuyển mạnh từ nguồn lực tài nguyên, vốn, lao động sang tri thức, trí tuệ, nguồn nhân lực
chất lượng cao - là năng lực tổng hợp của những thế hệ người làm chủ thể vững vàng, tin
cậy, đầy bản lĩnh của một dân tộc. Và đó phải là sản phẩm của một nền giáo dục tiên tiến,
hiện đại.
Nhưng đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục không phải là một quá trình đơn
giản, dễ dàng; không phải chỉ vì nền giáo dục đang có nhiều yếu kém, bất cập, thiếu
nguồn lực đầu tư, mà còn bởi nhiều vấn đề mới đang còn không ít nhận thức khác nhau,
cần có những nghiên cứu sâu để tìm ra lời giải có căn cứ cả về lý luận khoa học và thực
tiễn. Hơn nữa giáo dục là một hệ thống xã hội lớn, khá phức tạp với nhiều chủ thể tham
gia và liên quan, vận hành liên tục, năm này gắn với năm khác, bậc nọ gắn với bậc kia,
không thể dừng lại một cách dứt đoạn, làm lại từ đầu cả hệ thống cùng một lúc. Quá trình
đổi mới này cũng không thể là công việc của một năm, 5 năm, mà là công việc của 10
năm và có thể lâu hơn. Do đó, quá trình đổi mới này phải được triển khai thống nhất,
đồng bộ, có bước đi phù hợp với những ưu tiên xác định, trên cơ sở gắn nghiên cứu khoa
học với thử nghiệm, với tổng kết thực tiễn, với tổ chức triển khai rộng trên thực tế, rút
kinh nghiệm và điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện, để không cho phép xảy ra những sai lầm
nghiêm trọng.
6
Tất cả những vấn đề quan trọng liên quan đến quá trình đổi mới căn bản toàn diện
nền giáo dục phải được nghiên cứu một cách thấu đáo, khoa học, khách quan và có hệ
thống.
Do tầm quan trọng, quy mô, tính chất và nội dung rộng lớn đó, nên công cuộc đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục không thể chỉ giao và là nhiệm vụ riêng của ngành
giáo dục.
Đây là sự nghiệp lớn lao của cả Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Vì vậy cần có một
Ban Chỉ đạo Trung ương (hay Ban Chỉ đạo Quốc gia) về đổi mới căn bản toàn diện nền
giáo dục, với sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Nhà nước, với sự tham gia của
đông đảo các nhà khoa học, quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp và những người am
hiểu sâu sắc về giáo dục…, trong đó ngành giáo dục là nòng cốt.
Vấn đề quan trọng đầu tiên là phải tổ chức nghiên cứu xây dựng cho được một Đề
án tổng thể về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục cho giai đoạn 10 năm 2011 - 2020.
Đề án phải nêu lên được quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, khung nội dung và các nhiệm
vụ chủ yếu, lộ trình nghiên cứu và triển khai thực hiện, nguồn lực để thực hiện… Sau khi
Đề án được phê duyệt mới chỉ đạo triển khai cụ thể các nội dung, nhiệm vụ; điều này
không có nghĩa là không thực hiện ngay các sửa đổi, điều chỉnh cụ thể, cần thiết khi đã có
đủ cơ sở khoa học và thực tiễn.
Vì đây là nhiệm vụ quan trọng, rộng lớn và lâu dài nên cần có Bộ phận thường trực
chuyên trách gồm những người am hiểu sâu lý luận khoa học giáo dục và thực tiễn giáo
dục, rất tâm huyết, giúp việc Ban Chỉ đạo Quốc gia. Việc thành lập và sự chỉ đạo sâu sát,
thường xuyên của Ban Chỉ đạo Quốc gia về đổi mới giáo dục là một trong những yếu tố
quyết định đảm bảo cho sự nghiệp này thành công./.
2. Thực trạng đổi mới nền giáo dục của một số quốc gia trên thế giới, Hàn Quốc
Mục tiêu chính của cuộc cải cách giáo dục ở Hàn Quốc hiện nay là nhằm xây dựng
một nền giáo dục mở, tạo cơ hội cho mọi người được học tập suốt đời để họ có thể trở
thành những con người mới có đủ tri thức, năng lực, đáp ứng được những đòi hỏi của xã
hội thông tin và toàn cầu hoá.
7
Để đạt được những mục tiêu đó, phương hướng của cải cách giáo dục được xác định
là:
Chuyển nền giáo dục lấy trung tâm là thầy sang một nền giáo dục mới có trung tâm
là trò;
Từ giáo dục đồng bộ sang giáo dục đa dạng hóa, đặc trưng hóa;
Quản lý giáo dục trên cơ sở quy chế và mệnh lệnh sang quản lý giáo dục trên nền
tảng tự giác và trách nhiệm;
Từ giáo dục bắt buộc sang giáo dục tự do, bình đẳng và cân đối;
Từ giáo dục truyền thống với bảng đen phấn trắng sang giáo dục mở thông qua
mạng thông tin số hoá;
Hướng tới xây dựng một nền giáo dục chất lượng cao, đạt trình độ các nước phát
triển trong một thời gian ngắn nhất.
Về tổng thể, cuộc cải cách giáo dục hiện nay của Hàn Quốc được triển khai trên một
số phương diện chủ yếu là:
Đổi mới nhận thức về giáo dục
Cải cách hệ thống giáo dục
Cải cách chương trình giáo dục
Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục
Huy động các nguồn lực tài chính và lực lượng tham gia.
Góc nhìn từ Hàn Quốc
Hàn Quốc không có nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng phát triển được như ngày
hôm nay một phần là nhờ biết tận dụng nguồn chất xám của đội ngũ trí thức Hàn Quốc
được đào tạo bài bản ở nước ngoài trở về đóng góp cho đất nước. Bên cạnh đó, những
chính sách về đổi mới giáo dục đại học kèm theo các chương trình phát triển nhân lực
trình độ cao trong khoa học, công nghệ, công nghiệp đã đóng vai trò then chốt trong việc
phát triển nền kinh tế.
Điều làm nên thành công của Hàn Quốc chính là sự đồng thuận và quyết tâm cao
của Chính phủ và người dân Hàn Quốc, trong đó có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ Hàn
8
kiều được đào tạo bài bản ở tất cả các nước tiên tiến quay trở về nước tham gia vào phát
triển đất nước. Chính những con người này cùng với hỗ trợ chính sách đặc biệt của Chính
phủ và phối hợp, đồng thuận của các cơ quan chức năng, đã đưa Hàn Quốc trở thành một
nước phát triển như hiện nay, dựa trên nền tảng sự phát triển vượt bậc về khoa học và
công nghệ cao trong thời gian ngắn.
*Nhận xét và hướng phát triển cho nền giáo dục nước ta hiện nay:
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội tăng tỷ lệ phần trăm dành cho giáo
dục lên mức 5% GDP vì hiện nay tỷ lệ này quá thấp (nhỏ hơn 1% GDP). Mặt khác, trao
quyền tự chủ cho các trường đại học có thể coi là một trong các biện pháp hữu hiệu để
phát triển giáo dục đại học. Trường nào không có khả năng đáp ứng được nhu cầu của xã
hội, của quốc gia sẽ tự dần phải thay đổi hoặc tự đào thải.
Thứ hai, giao quyền phong giáo sư và phó giáo sư cho các trường theo mô hình
giống như các nước phát triển đã và đang làm. Giáo sư và phó giáo sư dựa trên những
công bố trên tập san khoa học quốc tế, bằng phát minh sáng chế (patent), hoặc các thành
tích nghiên cứu khoa học khác đã đạt được. Các trường đại học phải đóng vai trò là nhà
nghiên cứu tiên phong, các giảng viên trong trường phải nghiên cứu và có các xuất bản
khoa học chất lượng trình độ quốc tế.
Thứ ba, giao trách nhiệm và trao niềm tin cho đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước
ngoài. Tạo các cơ hội để cho họ cống hiến và chứng minh khả năng trên quê hương mình.
Thứ tư, tuyển chọn và tài trợ cho những người có chuyên môn phù hợp với những
việc mà xã hội và đất nước đang cần đến. Việc tài trợ cho đội ngũ này cần ở mức đủ để họ
tập trung vào nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ (thí dụ như họ được làm việc
với điều kiện nghiên cứu tốt, có phụ cấp cao gấp vài lần mức lương cơ bản hiện nay).
Ngược lại, họ phải đáp ứng yêu cầu công việc là phải hợp tác được với nhau thành những
nhóm nghiên cứu mạnh, nhận những nhiệm vụ cụ thể và chịu những trách nhiệm cam kết
với nhà nước.
9
Thứ năm, các chính sách về khoa học và giáo dục cần đề cao giá trị của các nghiên
cứu khoa học có chất lượng (dựa trên số lượng bài báo công bố trên các tạp chí quốc tế
khoa học chuyên ngành, và chỉ số trích dẫn của bài báo).
Thứ sáu, cần cải tiến mạnh mẽ cách xây dựng, tuyển chọn và đánh giá các chương
trình, đề tài khoa học công nghệ. Bắt buộc các công ty lớn ở Việt Nam phải có phòng
nghiên cứu và phát triển, tăng cường việc phối hợp với các trường đại học trong nghiên
cứu, sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, hàm lượng chất xám cao, tạo giá trị cho việc
phát triển nền kinh tế.
Thứ bảy, tăng số lượng các trường đại học quốc tế hoặc hợp tác quốc tế để đào tạo
nhân lực trình độ quốc tế ngay tại Việt Nam; Tập trung nâng cao mười trường đại học
trọng điểm của Việt Nam theo chiến lược mười năm để nâng cao xếp hạng của những
trường này theo xếp hạng quốc tế (đặt mục tiêu lọt vào top 200 thế giới). Việt Nam cần
thành lập chương trình có tính chiến lược như chương trình Brain Korea 21 của Hàn Quốc
đã thực hiện, định hướng và liên kết giữa giáo dục đại học và các nhà nghiên cứu trẻ,
nguồn nhân lực trình độ cao trong việc phát triển khoa học, công nghệ, tăng trưởng vượt
bậc cho nền kinh tế quốc gia.
10
PHẦN 2: LÝ LUẬN THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ
CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO/CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO
DỤC Ở CƠ SỞ CÔNG TÁC
1. Lý luận thực tiễn về công tác quản lý nguồn nhân lực giáo dục và thực trạng tại cơ
sở công tác
Ở Việt Nam ngay từ thời xưa, ông cha ta đã rất coi trọng vai trò người thầy giáo
“không thầy đố mày làm nên”, không có thầy sẽ không có giáo dục. Điều đó nhắc nhở
mọi người phải quan tâm mọi mặt đến giáo dục, đến đội ngũ giáo viên.
Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm.
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới đã có những biến đổi sâu sắc về Kinh tế - xã hội
cùng với những thành tựu của công nghệ thông tin. Để xây dựng một nền móng vững
chắc đáp ứng những biến đổi đó, giải pháp có ý nghĩa quyết định và cơ bản nhất của mọi
quốc gia là tăng cường đầu tư cho nguồn lực con người. Với việc thực hiện nhiệm vụ cơ
bản của xã hội, đội ngũ lao động kế cận giàu tiềm năng, sự nghiệp giáo dục – đào tạo nói
chung và giáo dục đại học nói riêng đang đứng trước những yêu cầu mới. Giáo dục phải
tạo nên những sản phẩm đào tạo thích nghi cao với thị trường lao động có phẩm chất,
năng lực, chủ động và sáng tạo. Vì thế, chất lượng giáo dục đang là một đòi hỏi cấp thiết
mang tính toàn cầu.
Trong thời đại ngày nay bất cứ một lĩnh vực hoạt động nào của xã hội cũng cần đến
hoạt động quản lý, quản lý được xem là một khoa học, một nghệ thuật cũng được xem là
công nghệ điều hành phối hợp và sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và tinh thần
của một tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra. Chính vì vậy mà Đảng ta đã đề ra mục tiêu
chiếm lược phát triển kinh tế xã hội giáo dục là:
“Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, nhân lực khoa học công nghệ, kết
cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị
11
trường định hướng XHCN được hình thành cơ bản, vị thế nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao.”.
Trong lĩnh vực giáo dục, quản lý giáo dục có vai trò hết sức quan trọng trong việc
nâng cao chất lương & hiệu quả giáo dục. Trong chiếm lược phát triển giáo dục 2001 –
2010 công tác quản lý giáo dục được xem là khâu đột phá trong việc đề ra các mục tiêu và
giải pháp phát triển giáo dục nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục là khâu then chốt. Muốn đạt được các mục tiêu cần hết sức xem trọng công tác quản
lý phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 40 về việc chỉ đạo "Xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục". Chỉ thị nêu rõ: "Phát triển GD-ĐT là
quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNHHĐH đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người".
Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng.
Cùng với sự đi lên của tổ chức xã hội, khoa học quản lý ngày càng phát triển mạnh
mẽ và có ý nghĩa quyết định trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Từ các lĩnh vực
kinh tế, quản lý hành chính Nhà nước, tới các lĩnh vực văn hóa - xã hội… đều khai thác
hiệu quả các thành tựu của khoa học quản lý. Ứng với mỗi lĩnh vực, công tác quản lý đều
đã phát triển thành một khoa học quản lý với những đặc thù riêng. Khoa học quản lý giáo
dục đã hình thành và phát triển khá sớm, trở thành yếu tố quan trọng góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục. Về mặt lịch sử, khoa học quản lý giáo dục ra đời và phát triển sau
khoa học quản lý kinh tế, vì vậy nó sử dụng được những thành tựu tiến bộ của khoa học
quản lý. Trên thế giới tồn tại hai xu hướng phát triển về khoa học quản lý giáo dục. Xu
hướng thứ nhất là thực hiện quá trình quản lý giáo dục trên cơ sở của quản lý kinh tế, coi
quản lý cơ sở giáo dục như một loại “Xí nghiệp đặc biệt” .
Xu hướng thứ hai, quá trình quản lý giáo dục bắt nguồn từ lý luận quản lý xã hội,
xã hội được chia thành ba lĩnh vực là “chính trị - xã hội”, “văn hóa - tư tưởng” và “kinh
tế”, quản lý xã hội là quản lý ba lĩnh vực đó và như vậy, quản lý giáo dục nằm trong lĩnh
12
vực quản lý văn hóa - tư tưởng .
Quản lý giáo dục, theo nghĩa rộng là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội,
quá trình đó bao gồm các hoạt động có tính giáo dục của bộ máy Nhà nước, của các tổ
chức xã hội, của hệ thống giáo dục quốc dân, của gia đình… Quản lý giáo dục, theo
nghĩa hẹp bao gồm : quản lý hệ thống giáo dục là quản lý các hoạt động
giáo dục đào tạo diễn ra trong các đơn vị hành chính (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc) và quản
lý nhà trường.
“Một quy luật của tiến bộ xã hội là thế hệ đi sau phải lĩnh hội cả những kinh
nghiệm xã hội mà các thế hệ đi trước đã tích lũy và truyền lại, đồng thời phải làm phong
phú thêm những kinh nghiệm đó” . Thực hiện quy luật này là chức năng của giáo dục nói
chung và quản lý giáo dục nói riêng. QLGD có hai chức năng là : “ổn định duy trì quá
trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội” và “đổi mới, phát triển quá trình
đào tạo đón đầu tiến bộ kinh tế xã hội”. Như vậy, “QIGD là hoạt động điều hành các nhà
trường để giáo dục, vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế” .Với các chức
năng trên quản lý giáo dục có vị trí cao nhất trong việc tạo điều kiện XHH cá nhân, hình
thành và phát triển nhân cách, nhằm giúp con người đảm nhận và gánh vác được những
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Đánh giá về thành tựu của giáo dục, Đảng ta khẳng định: "Những năm qua, chúng ta
đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng đông đảo,
phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
ngày càng được nâng cao. Đội ngũ này đã đáp ứng quan trọng vào việc nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng
của đất nước.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ CNHHĐH, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có những hạn chế, bất cập: số lượng
giáo viên vừa thiếu lại vừa thừa. Cơ cấu giáo viên mất cân đối giữa các môn học, các
vùng, miền. Chất lượng chuyên môn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và
phát triển xã hội. Phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới. Một bộ phận nhà giáo thiếu
13
gương mẫu trong đạo đức, lối sống, nhân cách. Chất lượng giáo dục còn thấp, học sinh,
sinh viên ra trường chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của xã hội….
Bản chất và chức năng của quản lý.
- Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của quản lý đến tập thể
người bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Trong giáo dục nhà trường đó là tác
động của người quản lý đến toàn thể giáo viên, học sinh và các lực lượng khac nhau nhằm
thực hiện hệ thống các mục tiêu của giáo dục.
- Chủ thể quản lý: cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức
- Khách thể quản lý: những con người cụ thể, quan hệ giữa những con người, giữa
những nhóm người khác nhau
- Công cụ quản lý: là phương thức tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản
lý: mệnh lệnh, quyết định, chính sách, luật lệ…
- Phương pháp quản lý: có thể do nhà quản lý áp đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ
thể quản lý và khách thể quản lý
+ Trong quản lý giáo dục thì:
- Chủ thể quản lý: bộ máy quản lý các cấp
- Khách thể quản lý: là hệ thống quản lý giáo dục (trường học, trung tâm giáo dục..)
- Quan hệ quản lý: người dạy - người học, người quản lý - người dạy…
Chức năng của quản lý là các hoạt động xác định được chuyên môn hoá, nhờ đó có
thể quản lý tác động vào đối tượng quản lý, hay nói một cách khác chức năng quản lý là
một dạng hoạt động quản lý đặc biệt, thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể
quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Có thể nói là quản lý có 4 chức năng sau:
- Chức năng kế hoạch hoá
- Chức năng tổ chức
- Chức năng lãnh đạo
- Chức năng kiểm tra
Khái niệm quản lý giáo dục:
14
Nếu hiểu rõ giáo dục là hoạt động diễn ra trong xã hội nói chung thì quản lý giáo
dục là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội. Nếu hiểu giáo dục là hoạt động
chuyên biệt trong các cơ sở giáo dục thì quản lý giáo dục là quản lý các hoạt động trong
một cơ sở giáo dục như: trường học. trưng tam giáo dục…Quản lý giáo dục là một loại
hình quản lý đặc biệt.
- Một số các tác giả đã đưa ra những khái niệm quản lý giáo dục như sau:
+ “ Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhắm
đẩy mạnh cộng tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội nói hiện nay”.
+ Nói một cách khác: “ Quản lý giáo dục là điều hành hệ thống giáo dục quốc dân,
các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân”.
Quản lý nhà trường:
Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành lập theo quy hoạch, kế
hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD&ĐT. Trường học là một bộ phận
của hệ thống xã hội mà ở đó tiến hành quá trình giáo dục đào tạo, gọi chung là “cơ sở
giáo dục”. “Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, là nơi thực hiện chức năng
kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cho một nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo
này một cách tối ưu theo quan niệm xã hội, thực hiện chức năng tạo nguồn cho các
yêu cầu của xã hội, đào tạo các công dân cho tương lai”.
Trường học với tư cách là một tổ chức giáo dục cơ sở, vừa mang tính giáo dục,
vừa mang tính xã hội, trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ, nó là tế bào chủ chốt của bất kỳ hệ
thống giáo dục nào từ trung ương đến địa phương.
Như vậy “Quản lý nhà trường là gì ? Theo GS.VS Phạm Minh Hạc “ Quản lý
nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức
là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”. Ông cho rằng :
“Việc quản lý nhà trường phổ thông là quản lý hoạt động dạy học, tức là làm sao đưa
hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo
dục” và “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học, thực hiện
15
được các giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó
thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước” .
Có thể thấy, công tác quản lý trường học bao gồm sự quản lý các tác động qua
lại giữa trường học và xã hội, đồng thời quản lý chính nhà trường. Người ta có thể
phân tích quá trình giáo dục của nhà trường như một hệ thống gồm sáu thành tố : Mục
đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, thầy giáo, học sinh, cơ sở
vật chất trang thiết bị phục vụ giáo dục. Như vậy, các thành tố này được chia làm ba
loại : Thành tố con người, thành tố tinh thần và thành tố vật chất.
Quản lý nhà trường là quản lý hệ thống xã hội - sư phạm chuyên biệt, hệ thống
này đòi hỏi những tác động có ý thức, có khoa học và có hướng của chủ thể quản lý
trên tất cả các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh. Người quản lý trường học là hiệu
trưởng của các nhà trường.
Vì vậy, quản lý trường học thực chất là quản lý quá trình lao động sư phạm của
thầy, hoạt động học tập tự giáo dục của trò, diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy học.
Quản lý trường học là quản lý tập thể giáo viên và học sinh để chính họ lại quản lý
(đối với giáo viên) và tự quản lý (đối với học sinh) quá trình dạy - học, nhằm tạo ra
sản phẩm là nhân cách con người mới. Đồng thời, quản lý trường học còn bao gồm
quản lý các công việc khác có tính chất điều kiện như : Đội ngũ, tổ chức hoạt động của
các đoàn thể trong trường, quản lý cơ sở vật chất, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
cho cán bộ giáo viên, học sinh .v.v…
Quản lý đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục là tập thể ngươig bao gồm: cán bộ quản lý,
giáo viên và công nhân viên. Nếu chỉ đề cập đặc điểm của ngành thì đội ngũ nhag giáo
chủ yếu là đôi ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ nhà giáo.
16
Việc quản lý và nâng cao hoạt động của nhà trương phụ thuộc vào cơ chế quản lý và
chính sách phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nhà trường. Vấn đề quản lý nhân
sự ở nhà trường có nhiều cách tiếp cận và tìm ra nhiều những giải pháp. Đề tài nghiên cứu
của tiểu luận chỉ tập trung vào kía cạnh: công tác quản lý đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục ở nhà trường THPT để đề xuất những giải pháp phát triển, nâng cao chất
lượng đội nguc nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục.
2. Thực trạng giảng dậy và việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ/
giáo viên tại đơn vị công tác.
Nhà trường đã xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục nhà trường theo định hướng
phát triển năng lực học sinh.
Các nội dung dạy học lồng ghép, nội dung giáo dục kĩ năng sống, giá trị sống trong
các môn học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo:
* Triển khai dạy học tích hợp giáo dục môi trường:
- Có chuyên đề dạy học tích hợp giáo dục môi trường (GDCD 6, 7).
- Lồng ghép giáo dục môi trường trong các bài cụ thể ở từng môn học.
- Triển khai tích hợp giáo dục môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học
vào các môn học.
* Môn Vật lí và Công nghệ lồng ghép nội dung tiết kiệm nguồn năng lượng trong
việc sử dụng nguồn điện.
* Hướng dẫn học sinh các hoạt động trải nghiệm sáng tạo:
- Hướng dẫn học sinh tập kinh doanh thông qua Hội chợ truyền thông (tích hợp với
dự án Plan).
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thực hành Văn hóa dân tộc thông qua việc trưng
bày mâm cỗ trung thu trong hoạt động “Vui hội trăng rằm”
- Hướng dẫn học sinh tham gia Câu lạc bộ STEM.
Công tác giáo dục hướng nghiệp; dạy nghề phổ thông và nghề truyền thống của địa
phương:
* Công tác giáo dục hướng nghiệp:
17
- Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc chọn nghề có cơ sở khoa học
- Thế giới nghề nghiệp quanh ta (5 tiết)
* Công tác dạy nghề phổ thông:
- Dạy nghề điện dân dụng cho tất cả học sinh khối 8 và khối 9
* Công tác giáo dục nghề truyền thống của địa phương:
- Nghề rèn Đa Sỹ
- Dệt lụa Vạn Phúc
* Những thuận lợi trong quá trình thực hiện:
- Có các Văn bản chỉ đạo cấp trên
- Nhà trường có kế hoạch cụ thể, rõ ràng
- Học sinh nhiệt tình, hứng thú tham gia.
* Khó khăn:
- Ít có thời gian để thực hiện các hoạt động trải nghiệm (do trường phải học hai ca và
nhiều học sinh coi trọng việc học văn hóa hơn các hoạt động thực tế; một số giáo viên còn
coi nhẹ công việc này)
- Thiếu các chuyên gia tư vấn.
Công tác chỉ đạo, tổ chức và quản lý hoạt động chuyên môn trong trường học
Đổi mới hình thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực học sinh:
* Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá:
- Một số giáo viên chưa thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học và đổi
mới về kiểm tra đánh giá đối với học sinh.
- Chuyên đề đổi mới kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng từ năm học
trước chưa đem lại hiệu quả thiết thực (chưa xây dựng được những chuyên đề cụ thể).
* Đổi mới sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn qua nghiên cứu bài học:
- Việc sinh hoạt tổ - nhóm tuy đều đặn nhưng có nhóm chưa đi vào chiều sâu (Âm
nhạc, Mỹ thuật, Công nghệ, Ngữ văn).
- Dự giờ, thăm lớp tuy thường xuyên nhưng lượng giáo viên dự còn hạn chế.
18
- Sau mỗi giờ dự đều rút kinh nghiệm để mỗi GV học tập.
- Tăng cường kiểm tra theo định kì và đột xuất hồ sơ chuyên môn.
* Các mô hình giáo dục mới:
- Mô hình trường học “An toàn, thân thiện, bình đẳng” do tổ chức Plan tài trợ (đã
kết thúc tháng 11/2016).
- Mô hình dạy học STEM (mới bắt đầu thể nghiệm ở dạng sinh hoạt câu lạc bộ).
Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học và các cuộc thi khoa học kĩ thuật dành cho
học sinh trung học:
- Cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành
cho học sinh trung học: Nhóm học sinh lớp 8A5 thực hiện đề tài “Sử dụng máy tính một
cách an toàn và hiệu quả”.
- Các cuộc thi khác:
+ Thi Olympic Tiếng Anh trên Internet (IOE) cho học sinh khối 6, 7, 8, 9, với hàng
trăm lượt học sinh tham gia.
+ Thi giải Toán Tiếng Anh, Toán tiếng Việt, Vật lí trên Internet cho học sinh khối 6,
7, 8,9.
+ Thi chinh phục Vũ môn (đang thi thì Bộ GD&ĐT yêu cầu dừng lại).
+ Giải Nhất cuộc thi “Giai điệu tuổi hồng”.
+ Thi Festival Tiếng Anh cấp Quận: Giải Nhất
+ Thi “Văn hóa đọc Thủ đô”: Trường được công nhận Tập thể có thành tích xuất
sắc; và 02 học sinh được chọn vào tốp 05 em của Thành phố làm Đại sứ Văn hóa đọc.
Tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn qua trang mạng giáo dục "Trường học
kết nối"
* Khó khăn: Do nhà cung cấp trang “trường học kết nối” chỉ cấp không quá 1000 tài
khoản cho học sinh nên chỉ các em ở các khối 6, 7, 8 mới được tham gia.
Tổ chức kiểm tra học kỳ:
- Đối với lớp 9: Các đề Ngữ văn, Toán, Tiếng Anh thống nhất chung toàn Quận.
19
Đề Ngữ văn 9 với đáp án được coi là khó đối với trình độ học sinh nên kết quả đạt
rất thấp. Đề Toán 9 thiếu phần trắc nghiệm (chỉ có tự luận).
- Đề của lớp 6, 7, 8 và các môn còn lại của lớp 9: Được ra đề thống nhất, đúng qui
trình
- Việc chấm thi nghiêm túc, đúng qui chế.
Công tác bồi dưỡng và phát triển đội ngũ
Trường tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về phương pháp dạy mới (STEM) và mô
hình trường học mở (VNEN) do BỘ GD&ĐT, Sở GD&ĐT tổ chức.
- Nhà trường đã tổ chức tốt việc tập huấn về nội dung: Dạy học và kiểm tra đánh giá
theo định hướng phát triển năng lực học sinh; Tìm hiểu về kinh doanh; Tổ chức hoạt động
hướng nghiệp; công tác giáo viên chủ nhiệm lớp; giáo viên phụ trách công tác Đoàn, Đội;
giáo viên tư vấn tâm lí trong trường học... đã được tiếp thu trong các đợt tập huấn của Bộ,
Sở GDĐT và BQL Dự án Plan và dự án Dinh dưỡng học đường, …
- Tham dự đầy đủ các buổi tập huấn do các trung tâm giáo dục, các trường đại học,
cao đẳng sư phạm tổ chức bồi dưỡng thường xuyên đối với giáo viên THCS (đây là các lớp
chuyên đề do PGD&ĐT Quận tổ chức, Cán bộ QL và giáo viên nhà trường có tham gia).
- Đã triển khai diễn đàn trên mạng để chỉ đạo và hỗ trợ hoạt động đổi mới sinh hoạt
tổ/nhóm chuyên môn trong trường phổ thông; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng sinh hoạt
tổ/nhóm chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học; tăng cường tổ chức sinh hoạt chuyên
môn tại trường (trực tiếp và qua mạng); chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán các
môn học.
- Dự các lớp tập huấn nâng cao năng lực của giáo viên chủ nhiệm lớp, cán bộ phụ
trách công tác Đoàn, Đội, giáo viên tư vấn trường học.
- Tăng cường các hình thức bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý và hỗ trợ hoạt động
dạy học và quản lý qua trang mạng Trường học kết nối, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học; tổ chức sinh hoạt chuyên
môn tại trường, cụm trường, theo hướng dẫn tại công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày
20
- Xem thêm -