ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
VŨ THỊ HẢI
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
CƠ SỞ NGÔ QUYỀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05
Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
CƠ SỞ NGÔ QUYỀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05
Học viên: Vũ Thị Hải
Cao học Quản lí giáo dục khoá 9 (2009 - 2011)
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Tuyết Oanh
Hà Nội – 2011
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
4. Giả thuyết khoa học
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Cấu trúc luận văn
5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP VÀ
QUẢN LÝ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
6
HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
6
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
8
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường.
8
1.2.2. Công tác chủ nhiệm lớp
12
1.2.3. Quản lý công tác chủ nhiệm lớp
18
1.3. Công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở
18
1.3.1. Trường trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân
18
1.3.2. Nội dung công tác chủ nhiệm lớp
19
1.3.3. Mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh các trường trung học
22
1.3.4. Những yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm lớp
23
1.4. Lý luận về quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở
28
1.4.1. Vai trò của CBQL trong công tác chủ nhiệm lớp
28
1.4.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của người hiệu trưởng
28
1.4.3. Vai trò của Hiệu trưởng trong công tác chủ nhiệm lớp
29
1.4.4. Nội dung quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường
THCS
29
1.4.5. Quy trình quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng
30
Kết luận chương 1
32
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP VÀ QUẢN
LÝ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
33
NGÔ QUYỀN, QUẬN LÊ CHÂN, HẢI PHÒNG
2.1. Khái quát về tình hình giáo dục các trường THCS trong quận Lê
Chân và trường THCS Ngô Quyền.
33
2.1.1. Tình hình giáo dục các trường trong Quận Lê Chân
33
2.1.2. Tình hình giáo dục tại trường THCS Ngô Quyền, Quận Lê Chân.
35
2.2. Thực trạng công tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS Ngô Quyền
37
2.2.1 .Thực trạng về đội ngũ giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp.
2.2.2 Thực trạng về năng lực của GVCNL tại trườngTHCS Ngô
Quyền.
2.2.3 trạng về chế độ chính sách đối với giáo viên làm công tác CNL
2.3. Thực trạng quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở
Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng
37
39
40
41
2.3.1 Thực trạng về việc phân công giáo viên làm công tác chủ nhiệm
41
2.3.2 Thực trạng về quản lý giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp
43
2.3.3 Thực trạng về bồi dưỡng kỹ năng chủ nhiệm lớp cho GVCN
44
2.4. Thực trạng sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm lớp với các lực
lượng giáo dục khác.
2.5. Đánh giá thực trạng công tác chủ nhiệm lớp và quản lý công tác chủ
nhiệm lớp trường trung học cơ sở Ngô Quyền
Kết luận chương 2
Chương 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM CỦA HIỆU
TRƯỞNG Ở TRƯỜNG THCS NGÔ QUYỀN QUẬN LÊ CHÂN
3.1. Căn cứ xây dựng đề xuất các biện pháp quản lý công tác CNL
45
48
50
52
52
3.2. Một số nguyên tắc xây dựng hệ thống biện pháp
3.3. Đề xuất các biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu
trưởng.
53
54
3.3.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch quản lý công tác chủ nhiệm lớp.
55
3.3.2. Biện pháp 2: Lựa chọn, bố trí giáo viên chủ nhiệm lớp hợp lý
56
3.3.3. Biện pháp 3: Bồi dưỡng năng lực làm công tác CNL cho giáo
58
viên.
3.3.4. Biện pháp 4: Tăng cường kiểm tra, đánh giá công tác chủ nhiệm
lớp
3.3.5. Biện pháp 5: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm
lớp với các lượng lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
3.3.6. Biện pháp 6: Xây dựng cơ chế hỗ trợ chế độ chính sách đối với
giáo viên chủ nhiệm lớp.
73
76
83
3.4. Mối quan hệ giữa các nhóm biện pháp
83
3.5. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
85
Tổng kết chương 3
86
KÕt luËn vµ khuyÕn nghÞ
88
1. Kết luận
88
2. Khuyến nghị
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90
PHỤ LỤC
93
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt
Viết đầy đủ
HCM
HỒ CHÍ MINH
SV
Sinh viên
GVBM
Giáo viên bộ môn
GD
Giáo dục
ĐT
Đào tạo
THPT
Trung học phổ thông
THCS
Trung học cơ sở
MN
Mầm non
TH
Tiểu học
GVCNL
Giáo viên chủ nhiệm lớp
CNL
Chủ nhiệm lớp
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
CMHS
Cha mẹ học sinh
CBQL
Cán bộ quản lí
QL
Quản lý
QLGD
Quản lý giáo dục
CNH
Công nghiệp hóa
HĐH
Hiện đại hóa
BGH
Ban Giám hiệu
KNS
Kỹ năng sống
CSVC
Cơ sở vật chất
PP
Phương pháp
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI - thế kỷ của văn minh trí tuệ, của nền kinh tế tri thức, một nền
kinh tế - xã hội “dựa vào tri thức” phải bắt nguồn từ chính tiềm năng con người,
lấy việc phát huy nguồn lực người làm nhân tố cơ bản của sự phát triển nhanh
chóng và bền vững. Trong xu thế phát triển có tính khách quan ấy, nền kinh tế xã
hội đòi hỏi phải có sự chăm lo phát triển toàn diện, chú ý phát huy tiềm năng con
người trên các bình diện tinh thần, trí tuệ, đạo đức và thể chất. Có như vậy mới
đáp ứng được các yêu cầu phát triển và tiến bộ xã hội. Hơn ai hết, GD có vai trò
đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển con người, đặc biệt là đối với thế hệ
trẻ. Những thanh thiếu niên đang đến trường ngày hôm nay sẽ là lực lượng sản
xuất cơ bản, trực tiếp trong xã hội cho ngày mai, cho tương lai. Có thể nói:
“Tương lai chính là bây giờ”. Vì thế, nhà trường phải có trách nhiệm chuẩn bị
cho thế hệ trẻ hôm nay những gì là cơ bản nhất để họ có thể đáp ứng được yêu
cầu của giai đoạn cách mạng mới. Trong những năm qua ngành GD&ĐT cả nước
nói chung, Hải Phòng nói riêng đã thu được những thành tựu quan trọng cả về số
lượng và chất lượng, tạo dựng những thành tựu đó có vai trò to lớn của đội ngũ
cán bộ quản lý và các thầy cô giáo - lực lượng cốt cán của sự nghiệp trồng người,
trong đó GVCNL có vai trò hết sức quan trọng để thực hiện trách nhiệm này. Xây
dựng một thế hệ mới là vinh dự và trách nhiệm nặng nề đối với người GV, trong
đó có GVCNL, xét theo chức năng là người “tổ chức thực hiện mọi quá trình giáo
dục”. Hoạt động của GVCNL về bản chất là một trong những hoạt động sáng tạo
mang tính nghệ thuật sư phạm trong quá trình dạy học và GD toàn vẹn.
Đối với giáo dục trung học, người GVCNL có vai trò quan trọng trong việc
GD toàn diện HS. Người ta vẫn thường nói rằng người GVCNL là “một đại diện
của Hiệu trưởng” trong tập thể lớp mình phụ trách. Người GVCNL chiếm vị trí
trung tâm, trụ cột trong quá trình giáo dục HS, là linh hồn của lớp học, là người
cố vấn đáng tin cậy dẫn dắt, định hướng, giúp HS biết vươn lên, tự hoàn thiện và
phát triển nhân cách. GVCNL có vai trò rất lớn tới chất lượng học tập của lớp. Sự
phát triển toàn diện của HS, sự đi lên của tập thể lớp đều có sự đóng góp quan
1
trọng của GVCNL. Đảng ta đã xác định “để đảm bảo chất lượng giáo dục phải
giải quyết tốt vấn đề thầy giáo”. Rõ ràng là, người giáo viên nói chung, GVCNL
nói riêng ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp giáo dục toàn
diện thế hệ trẻ. Xu thế xã hội ngày càng đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất
và năng lực, làm thay đổi vai trò và chức năng của người giáo viên, trong đó có
người giáo viên chủ nhiệm lớp. Ở trường THCS hiện nay yêu cầu GD toàn diện
HS là một yêu cầu bức thiết đang đặt ra cho nhà trường. Việc thực hiện GD toàn
diện HS phải thống nhất từ khâu chỉ đạo của Hiệu trưởng cho tới các tổ nhóm
chuyên môn và từng giáo viên, trong đó GVCNL đóng vai trò hết sức quan trọng.
Vai trò xã hội của người GVCNL trở nên lớn hơn nhiều so với chức năng của
người giảng dạy bộ môn. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, họ
trước hết phải là nhà GD, là người tổ chức các hoạt động GD, quan tâm tới từng
HS, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, những biến động về tư tưởng,
nhu cầu, nguyện vọng của các em. Học sinh cấp THCS đang bước sang lứa tuổi
thanh thiếu niên, ở lứa tuổi các em đang muốn tự khẳng định mình, ưa cái mới lạ
nhưng cũng rất dễ bị tổn thương, rất cần có sự giúp đỡ và định hướng của người
lớn, nên nhà giáo dục đặc biệt là GVCNL cần nắm vững tâm sinh lý lứa tuổi của
các em để từ đó lựa chọn phương pháp GD cho phù hợp. Nếu không, với vốn
kinh nghiệm sống ít ỏi của mình, các em sẽ khó tránh khỏi những ảnh hưởng
không lành mạnh, nhất là hệ quả của mặt trái nền kinh tế thị trường hiện nay.
Người GVCNL bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực
đến việc hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân cách của HS. Mặt khác, họ còn
là cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là
người tổ chức phối hợp các lực lượng GD. Họ còn là người dẫn dắt, tổ chức cho
HS tham gia các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Người GVCNL là người đại diện cho quyền lợi chính đáng của HS, bảo vệ HS về
mọi mặt một cách hợp lý. Họ phản ánh trung thành mọi nhu cầu, tâm tư, nguyện
vọng của HS với BGH nhà trường, với các GVBM, với gia đình HS, với cộng
đồng và với các đoàn thể xã hội khác.
2
GVCNL có trách nhiệm quản lý, điều hành mọi hoạt động của lớp chủ
nhiệm và tác động đến sự phát triển nhân cách của mỗi HS trong tập thể đó, chịu
trách nhiệm trước nhà trường về chất lượng GD của lớp mình.
Hơn nữa sự phát triển của nhà trường gắn liền với sự tiến bộ và trưởng
thành của từng tập thể lớp học, gắn liền với sự tiến bộ và trưởng thành của đội
ngũ giáo viên, đặc biệt là các GVCNL. Chất lượng GD toàn diện của nhà trường
phụ thuộc phần lớn vào kết quả công tác GD của từng GVCN đối với lớp mà họ
phụ trách. Bởi đây chính là một mắt xích quan trọng trong GD toàn diện HS.
Người GVCNL có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc GD toàn diện học
sinh qua thực tế làm công tác CNL của người viết, qua quan sát và tìm hiểu về
quản lý công tác CNL ở các trường THCS quận Lê Chân tôi chọn đề tài nghiên
cứu “Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường Trung học cơ sở Ngô
Quyền thành phố Hải Phòng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học chuyên
ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý công tác chủ nhiệm lớp, thực tiễn
quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS Ngô Quyền quận Lê Chân, xác
định các biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm góp phần nâng cao hiệu quả của
công tác này nhằm nâng cao chất lượng GD toàn diện cho HS trong nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1- Khách thể nghiên cứu
Quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở .
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Công tác chủ nhiệm lớp và biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở
trường THCS Ngô Quyền thành phố Hải Phòng .
4. Giả thuyết khoa học
Quản lý công tác CNL là một trong những hoạt động quan trọng thường
xuyên ở nhà trường THCS, nếu nghiên cứu tìm ra các biện pháp quản lý phù hợp
như: Xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp; Bồi dưỡng năng lực làm công
3
tác CNL cho giáo viên; Xây dựng cơ chế phối kết hợp giữa GVCNL với các lực
lượng GD trong và ngoài nhà trường...để thúc đẩy, hỗ trợ cho công tác CNL
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện học sinh trong nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài và các vấn đề liên quan.
5.2. Nghiên cứu thực trạng công tác chủ nhiệm lớp và quản lý công tác chủ
nhiệm lớp ở trường THCS Ngô Quyền quận Lê Chân thành phố Hải Phòng.
5.3. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác chủ nhiệm lớp và việc quản
lý công tác này tại một số trường THCS trong quận Lê Chân nói chung và tại
trường THCS Ngô Quyền nói riêng.
5.4. Đề ra các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng công
tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh tại
các trường Trung học cơ sở trong quận Lê Chân, mà trước hết là trường THCS
Ngô Quyền quận Lê Chân thành phố Hải Phòng.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Khảo sát thực trạng quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS Ngô
Quyền thành phố Hải Phòng từ năm học 2008-2011.
Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng ở trường THCS
Ngô Quyền thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2015.
7. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài sử dụng kết hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích sách báo, tài liệu nghiên cứu, tạp chí liên quan tới đề tài. Phân loại,
hệ thống hóa, khái quát hóa các nội dung về lý luận giáo dục, thực tiễn giáo dục.
Nghiên cứu các văn bản pháp quy, những quy định của ngành có liên quan
đến công tác chủ nhiệm lớp.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
4
Quan sát thu thập dữ liệu từ thực tiễn công tác chủ nhiệm lớp và thực tiễn
quản lý công tác chủ nhiệm lớp.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Xây dựng các phiếu điều tra, bằng hệ thống câu hỏi để khảo sát các đối
tượng: cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm lớp, tổ trưởng chuyên môn và một số
đối tượng có liên quan.
7.2.3. Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục
Tổng kết kinh nghiệm công tác chủ nhiệm lớp từ những giáo viên chủ nhiệm
lớp và kinh nghiệm quản lý công tác chủ nhiệm lớp từ những người đã kinh qua
công tác quản lý giáo dục và đặc biệt là những người đang đương chức.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu thông qua phiếu
điều tra và thực nghiệm sư phạm.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác chủ nhiệm lớp và quản lý công tác
chủ nhiệm lớp ở trường THCS.
Chương 2: Thực trạng về công tác chủ nhiệm lớp và quản lý công tác chủ
nhiệm lớp ở trường THCS Ngô Quyền, quận Lê Chân, Hải Phòng.
Chương 3: Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng ở
trường THCS Ngô Quyền, quận Lê Chân, Hải Phòng.
5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
VÀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khi đề cập đến công tác chủ nhiệm lớp đã có nhiều tài liệu, công trình
nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, có thể kể đến các công trình tiêu biểu như: Giáo
dục học 2004 (Chương XVI, Người giáo viên chủ nhiệm) của Phạm Viết VượngNhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội; Phương pháp công tác của người giáo
viên chủ nhiệm ở trường Trung học phổ thông của Hà Nhật Thăng (chủ biên)Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2004; Công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
ở trường phổ thông của Hà Nhật Thăng ( chủ biên ) - Nhà xuất bản Giáo dục,
2005; Những tình huống giáo dục học sinh của người GVCN của Hà Nhật Thăng
( chủ biên ) - Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2000; Công tác GVCN ở
trường phổ thông - NXBGD, 1998; Kỷ yếu hội thảo - Công tác GVCN ở trường
phổ thông – NXBGD, 2010.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình với công trình: Công tác chủ nhiệm lớp ở trường
THPT đề tài mã số SPHN – 09 – 465 NCSP, 2010, cũng như cuốn Một số vấn đề
trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện nay - Nhà xuất bản ĐHSP,
2011. Ở đây các tác giả đề cập đến những vấn đề cơ bản của công tác chủ nhiệm
lớp và những nội dung trong công tác CNL ở trường THPT hiện nay từ góc nhìn
của chuẩn nghề nghiệp GV trung học. Tác giả Nguyễn Thị Kim Dung cũng thể
hiện quan điểm của mình trong đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho sinh
viên sư phạm ( Kỷ yếu hội thảo khoa học - Nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư
phạm cho sinh viên các trường Đại học sư phạm, 2010 )
Một số tác giả còn đi sâu vào nghiên cứu những khía cạnh khác có liên quan đến
công tác chủ nhiệm như Nguyễn Thanh Bình với tác phẩm Giáo dục kỹ năng
sống - Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội - 2007; Nguyễn Thị Kim Dung và
cộng sự Hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (Tài liệu dành
cho lớp 11); Nguyễn Thị Kim Dung với đề tài Rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm
6
của học sinh tiểu học thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp -2007, mã
số: B 2006 – 17 – 01 – 2007.
Một số không nhiều bài báo, tài liệu khác viết về công tác GVCNL như: Rèn
luyện một số kỹ năng làm công tác giáo viên chủ nhiệm lớp cho sinh viên Cao
đẳng sư phạm của Vũ Đình Mạnh. Tạp chí Giáo dục số 126 (11/2005); Một số
biện pháp rèn luyện kỹ năng làm công tác giáo viên chủ nhiệm lớp cho sinh viên
Cao đẳng sư phạm của Vũ Đình Mạnh. Tạp chí Giáo dục số 135 (kỳ 1 – 4/2006).
Nghiên cứu về biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp có Một số biện pháp
tăng cường quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp trong các
trường THPT tỉnh Bắc Ninh – 2005 của Nguyễn Khắc Hiền.
Ở Hải Phòng, công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cũng được Ban lãnh
đạo Sở GD&ĐT Hải Phòng rất quan tâm, chỉ đạo sát sao với Hội thảo Vai trò của
công tác chủ nhiệm trong trường phổ thông do Sở GD&ĐT kết hợp với Hội KH
Tâm lý – Giáo dục năm 2006; Hội nghị Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp trường
trung học do Sở GD&ĐT tổ chức tháng 11 năm 2009 đã được hầu hết các trường
phổ thông trong thành phố tham gia rất nhiệt tình với nhiều bài viết, tham luận,
báo cáo của các cấp lãnh đạo các trường và của chính các đồng chí giáo viên trực
tiếp làm công tác chủ nhiệm trình bày như Chỉ đạo công tác chủ nhiệm ở trường
THPT Thái Phiên của Đào Thị Huệ; Trường THPT Nguyễn Trãi với công tác bồi
dưỡng giáo viên chủ nhiệm của Lê Hoàng Việt; Công tác chủ nhiệm với việc xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực của Trần Thị Hương Duyên; Tầm
quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp của Trương Thị Yến. Các bài viết trên tác
giả đã nêu được tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp, thực trạng công tác
chủ nhiệm lớp, những kinh nghiệm quý báu được đúc kết trong quá trình làm
công tác chủ nhiệm cũng được các tác giả chia sẻ với các đồng nghiệp trong hội
nghị, lãnh đạo các nhà trường cũng đưa ra những biện pháp rất tích cực để chỉ
đạo, bồi dưỡng công tác này đồng thời cũng có những ý kiến đề xuất trình lên các
cấp lãnh đạo cao hơn nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác chủ nhiệm và gửi đến
hội nghị cái nhìn toàn diện đầy đủ của công tác này trong sự nghiệp GD chung
của toàn ngành. Tuy vậy cũng chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về
7
quản lý công tác chủ nhiệm lớp đặc biệt dành cho khối THCS - Đây là một vấn
đề nghiên cứu khá mới trong giai đoạn hiện nay ở thành phố Hải Phòng.
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường.
1.2.1.1 Những khái niệm về quản lý, chức năng quản lý
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, con người muốn tồn tại
và phát triển cần phải có sự phối hợp với nhau trong một nhóm, một tổ chức. Để
tổ chức, điều khiển tạo nên sự phối hợp của nhóm người hoạt động theo yêu cầu
nhất định, một loại hình lao động mới xuất hiện – Đó là hoạt động quản lý.
Quản lý là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm
thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra, quản lý là một hoạt động
bao trùm mọi mặt đời sống xã hội và là nhân tố không thể thiếu trong sự phát
triển của xã hội. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi
trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã hội. Quản lý là một
phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử.
Tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt coi “ Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định”[23]
Quản lý là sự tác động có chủ đích (có kế hoạch, có phương pháp, cách
thức tiến hành) của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu
quản lý, đảm bảo cho hệ thống vận hành đúng quy luật và mang lại lợi ích cho hệ
thống và xã hội.
Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp con người hoàn
thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định.
Quản lý là một khoa học vì nó có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ quản
lý. Đó là mối quan hệ hình thành giữa con người có liên quan đến hệ thống và
được hình thành theo những quy luật nhất định.
Một định nghĩa khác: Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý
để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con
8
người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật
khách quan.
* Chức năng quản lý:
Quản lý có 4 chức năng sau: Chức năng kế hoạch hóa; Chức năng tổ chức;
Chức năng chỉ đạo; Chức năng kiểm tra. Bốn chức năng này được coi như bốn
công đoạn tạo nên một chu trình QL. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, đan
xen nhau, bổ sung cho nhau và đều cần đến thông tin quản lý. Hoạt động QL là
một chu trình thống nhất biện chứng với đầy đủ cả bốn chức năng trên.
Khoa học QL đặt trên nền tảng phương pháp luận của triết học, chính trị
học, điều khiển học, kinh tế học, văn hóa học, lý thuyết thông tin… Để làm một
nhà QL, trước hết người ta phải được đào tạo, bồi dưỡng về khoa học QL thì mới
có thể làm đúng chứ chưa thể làm tốt công tác QL. Bởi quản lý là một nghề, mà
đã làm nghề thì phải được đào tạo ban đầu và bồi dưỡng thường xuyên, liên tục
thì mới đáp ứng được yêu cầu của công việc trong bối cảnh xã hội thay đổi từng
ngày, từng giờ như hiện nay.
1.2.1.2. Giáo dục, quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là quá trình
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ con người. GD là
một loại hình hoạt động cơ bản của xã hội loài người nhằm chuyển giao cho các
thế hệ kế tiếp những giá trị vật chất và tinh thần của loài người đã được tích lũy
và phát triển trong nhiều năm đã và đang trở thành một nhu cầu không thể thiếu
cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng trong các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau.
GD đứng ở trung tâm của sự phát triển vừa của cá nhân con người vừa của cộng
đồng. GD đã góp phần làm cho xã hội loài người không ngừng phát triển. Trong
thời đại ngày nay sự tiến bộ của mỗi quốc gia đều phụ thuộc rất nhiều vào số và
chất lượng của GD mà nhân dân của mỗi quốc gia đó thừa hưởng. Vì GD là tiền
đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực xã hội như: chính trị, kinh
tế, văn hóa, an ninh quốc phòng. Do vậy phải coi GD một bộ phận hữu cơ quan
trọng nhất trong chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong đó
9
mục tiêu GD phải được coi là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của sự
phát triển.
Quản lý GD có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả của giáo dục. Người quản lý cần phối hợp sử dụng các nguồn nhân lực,
vật lực, tài lực và tin lực của tổ chức để đạt được mục tiêu giáo dục. Khái niệm
“quản lý giáo dục” chủ yếu có hai cấp độ là cấp vĩ mô và cấp vi mô.
Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra một số định nghĩa về
quản lý giáo dục:
- Đối với cấp vĩ mô:
Quản lý giáo dục:
Theo Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt
động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội” {2;tr.31}
Quản lý GD là quản lý một hệ thống xã hội hết sức năng động và phức tạp,
nó không chỉ đơn thuần là sử dụng sức mạnh luật pháp mà còn sử dụng hàng loạt
những biện pháp đối nhân xử thế để điều khiển, định hướng, điều chỉnh, tác động
vào toàn bộ hệ thống thúc đẩy nó đạt tới mục tiêu mong muốn khả thi. Đối tượng
của quản lý GD chủ yếu là con người, đồng thời mục tiêu QL cũng chính là hình
thành và phát triển nhân cách của con người, do đó phương pháp QL càng trở lên
phong phú, đa dạng và phức tạp hơn.
Phải chăng quản lý GD là một hệ thống có kế hoạch, có mục đích của chủ
thể quản lý đến đối tượng bị quản lý. Quản lý GD chính là một quá trình tác động
có định hướng của nhà quản lý GD trong việc vận dụng những nguyên lý,
phương pháp chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực GD nhằm đạt được
những mục tiêu GD đã đặt ra.
Hay nói cách khác ở cấp vi mô thì quản lý GD là quản lý nhà trường.
Nhà trường được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước nhằm phát
triển sự nghiệp GD. Trường học là cơ quan hành chính nhà nước đồng thời là một
tổ chức mang tính xã hội. Do đó quản lý trường học vừa có tính chất nhà nước
vừa có tính chất xã hội. Nhà nước và xã hội cùng hợp tác chăm lo xây dựng,
10
quản lý nhà trường, tạo mọi điều kiện tối ưu cho sự phát triển của trường học,
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo học sinh.
Theo Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản
lý nhằm tập hợp và tổ chức hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng
giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường”{24, tr 31}
Theo Trần Kiểm: “Quản lý trường học có thể hiểu là một hệ thống những tác
động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên,
học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm huy động và
phối hợp sức lực và trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt động của nhà trường hướng
tới hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu dự kiến”{18, tr 27}
Tóm lại, quản lý trường học về bản chất là QL con người (tập thể cán bộ,
giáo viên và học sinh ) và QL các nguồn lực cơ sở vật chất, thiết bị GD của nhà
trường. Có thể hiểu QL nhà trường là hoạt động phối hợp điều hành của chủ thể
quản lý - Hiệu trưởng đối với GV, HS và các lực lượng xã hội liên quan nhằm
đẩy mạnh các hoạt động của nhà trường. Cụ thể là thúc đẩy phong trào đào tạo
thế hệ trẻ, thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường
tiến lên trạng thái mong muốn.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
QL nhà trường là một bộ phận trong quản lý GD. Nhà trường (cơ sở GD)
chính là nơi tiến hành quá trình GD đào tạo, có nhiệm vụ trang bị kiến thức cho
một nhóm dân cư nhất định thực hiện tối đa một quy luật tiến bộ xã hội là: “Thế
hệ đi sau phải lĩnh hội được các kinh nghiệm xã hội mà thế hệ trước tích lũy và
truyền lại, đồng thời phải làm phong phú thêm những kinh nghiệm đó”{9;tr 15}
Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của XH thực hiện chức năng kiến tạo
các kinh nghiệm XH cho một nhóm dân cư nhất định của XH đó. Nhà trường
được tổ chức cho việc kiến tạo XH nói trên đạt được các mục tiêu XH đó đặt ra
cho nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan
niệm XH. Trường học là cơ sở tổ chức giáo dục mang tính Nhà nước - XH.
11
Trường học là một thành tố khách thể cơ bản của tất cả các cấp quản lý từ địa
phương đến trung ương, lại vừa là một hệ thống độc lập tự quản của xã hội, do đó
quản lý nhà trường vừa có tính chất nhà nước vừa có tính xã hội. Quản lý nhà
trường chính là quản lý GD nhưng trong một phạm vi xác định của đơn vị GD mà
nền tảng là nhà trường. Do đó quản lý nhà trường phải vận dụng tất cả các
nguyên lý chung của quản lý GD để đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo
mục tiêu đào tạo. Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là quản lý dạy và
học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần
dần tiến tới mục tiêu giáo dục” {14; tr.71}
Quản lý nhà trường là hoạt động điều hành, phối hợp của Hiệu trưởng đối
với GV, HS và các lực lượng XH liên quan nhằm thực hiện mục tiêu GD. Đích
cuối cùng của mục tiêu GD là giáo dục HS toàn diện. Mà QL là nhằm hiện thực
hóa cái đích ấy cho nên QL trong nhà trường có thể coi như một hoạt động GD.
Trường THCS là cấp học chuyển giao giữa tiểu học và THPT, cấp học có ý
nghĩa then chốt đối với sự phát triển trí tuệ và nhân cách cho HS, ở cấp học này
HS không những cần tÝch lòy kiÕn thức, tri thức tốt chuÈn bÞ ®Ó tiÕp tôc cho bậc
THPT mà còn cần có nhân cách tốt, có các kỹ năng mềm để có thể tự ứng xử với
những tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
Mục đích dạy học ở trường THCS nhằm thực hiện đồng thời 3 chức năng
bộ phận của quá trình dạy học: Giáo dưỡng – nắm vững hệ thống tri thức kỹ
năng, kỹ xảo và cách vận dụng chúng - phát triển tư duy khái niệm, tư duy logic,
tư duy biện chứng… và giáo dục – thái độ đạo đức… Ba chức năng bộ phận này
gắn bó hữu cơ với nhau, thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau và tạo ra một hệ
toàn vẹn ba nhiệm vụ dạy học trong trường THCS nhằm mục đích phát triển toàn
diện con người - Phát triển nhân cách. Ngày nay phát triển nhân cách là nhiệm vụ
số một của GD, là vấn đề trọng tâm trong chiến lược con người được các nhà
khoa học trong nước cũng như trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Một trong
những công tác góp phần thực hiện tốt 3 nhiệm vụ trên ở trường THCS là công
tác GVCNL.
1.2.2. Công tác chủ nhiệm lớp
12
1.2.2.1. Khái niệm công tác chủ nhiệm lớp
Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được tổ chức
để giảng dạy và giáo dục HS là lớp học. Hình thức tổ chức dạy học, giáo dục theo
lớp được hình thành từ thế kỉ XVI do nhà giáo dục Tiệp Khắc Comenxki đề
xướng. Để quản lý lớp học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang
giảng dạy làm GVCNL. GVCN được Hiệu trưởng lựa chọn từ những GV có kinh
nghiệm GD, có uy tín trong HS, được Hội đồng giáo dục nhà trường nhất trí phân
công làm chủ nhiệm các lớp học xác định để thực hiện mục tiêu GD. Như vậy khi
nói đến người GVCNL là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người làm
công tác CNL, còn nói công tác chủ nhiệm lớp trong nhà trường nói chung và
trường THCS nói riêng là đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà
người GVCNL phải làm, cần làm và nên làm.
1.2.2.2 Vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm lớp
trong nhà trường phổ thông
* Vị trí và vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp
GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người
thay mặt Hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và CMHS quản lý và chịu trách
nhiệm về chất lượng GD toàn diện HS lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ
trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp.
Với tư cách là người đại diện cho tập thể các nhà sư phạm, GVCNL có trách
nhiệm truyền đạt tất cả yêu cầu, kế hoạch GD của nhà trường tới tập thể và từng
HS của lớp chủ nhiệm. Đồng thời, GVCNL có khả năng biến những chủ trương,
kế hoạch đào tạo của nhà trường thành chương trình hành động của tập thể lớp và
của mỗi học sinh.
Mỗi GVCNL còn là một thành viên tham mưu của Hội đồng sư phạm, có
trách nhiệm phản ánh đầy đủ thông tin về lớp chủ nhiệm cũng như từng thành
viên trong tập thể lớp, đề xuất các giải pháp giáo dục HS, giúp cán bộ quản lý,
lãnh đạo nhà trường đưa ra các định hướng, giải pháp quản lý, giáo dục học
sinh hiệu quả.
13
Đối với HS và tập thể lớp, GVCNL là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần
gũi nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động
và các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự
quản là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn – Đội và tính tự giác của mọi HS trong lớp.
GVCNL còn là người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng HS của lớp phản
ánh với Hiệu trưởng, với các tổ chức trong nhà trường và với các GVBM. GVCN
với tư cách là đại diện cho lớp còn có trách nhiệm bảo vệ, bênh vực quyền lợi
mọi mặt cho HS trong lớp chủ nhiệm.
Như vậy, GVCN là cầu nối giữa Hiệu trưởng (BGH), giữa các tổ chức
trong nhà trường, giữa các GVBM với tập thể HS. Nói một cách khác, GVCN là
người đại diện hai phía, một mặt đại điện cho Hội đồng sư phạm, mặt khác lại đại
diện cho tập thể HS trong quá trình thực hiện công tác CNL.
GVCNL là người cố vấn cho công tác Đội và công tác Đoàn ở lớp chủ
nhiệm. GVCNL giữ vai trò là người cố vấn cho Ban chỉ huy chi đội của lớp chủ
nhiệm ở trường THCS, và là người cố vấn cho Ban chấp hành chi đoàn ở trường
THPT.
GVCNL có thể tư vấn cho đội ngũ này về việc lập kế hoạch và tổ chức các
hoạt động theo tôn chỉ, mục đích của từng tổ chức, đồng thời kết hợp với các hoạt
động GD trong kế hoạch của lớp sẽ đem lại hiệu quả cao.
Trong quan hệ với các lực lượng GD khác trong và ngoài nhà trường,
GVCNL là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách HS và là cầu
nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
GVCNL vừa đưa ra những định hướng, mục tiêu phát triển, giáo dục HS vừa
phải tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có liên quan nhằm thực hiện mục
tiêu GD của lớp chủ nhiệm, giáo dục HS hiệu quả.
GVCNL cũng là người triển khai những yêu cầu giáo dục của nhà trường
đến với gia đình, CMHS, đồng thời cũng là người tiếp nhận các thông tin phản
hồi từ HS, gia đình học sinh, các dư luận xã hội về HS trở lại với nhà trường để
giúp lãnh đạo nhà trường có giải pháp quản lý, phối hợp hiệu quả, đồng thời tạo
lập mối liên hệ thông tin đa chiều giữa nhà trường – gia đình – xã hội.
14
- Xem thêm -