Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngoại ngữ Kiến thức tổng hợp Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
217
51
109

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---***--- HOÀNG TÁM PHI BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---***--- HOÀNG TÁM PHI BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã Số: 9380101.03 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH. Đào Trí Úc Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khoa học khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Hoàng Tám Phi i DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Cụm từ viết tắt Nguyên nghĩa BLTTHS Bộ luật Tố tụng Hình sự BPNCTG Biện pháp ngăn chặn tạm giam CQĐT Cơ quan điều tra CQ/NCTQTHTT Cơ quan/người có thẩm quyền tiến hành tố tụng NBBT Người bị buộc tội QCN Quyền con người TAND Toà án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện Kiểm sát ii MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...........................................10 1.1. Tình hình nghiên cứu .........................................................................................10 1.2. Đánh giá về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................31 1.3. Những vấn đề luận án kế thừa và tiếp tục nghiên cứu .......................................34 1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học .......................................................37 Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................40 CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................................43 2.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự ......................43 2.2. Yêu cầu của việc quy định biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự ....56 2.3. Nội dung của quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự ......................................................................................................................70 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng, huỷ bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam ....................................................................................................................84 Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................89 CHƢƠNG 3. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM..................91 3.1. Pháp luật tố tụng hình sự quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam..............91 3.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam ở Việt Nam .......................121 3.3. Đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam ở Việt Nam .....................................................................................................135 Kết luận Chƣơng 3 ................................................................................................150 CHƢƠNG 4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...........................................................152 4.1. Yêu cầu và định hướng đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất iii lượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ....................................................................................................................152 4.2. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao chất lượng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam...............................................................163 Kết luận Chƣơng 4 ................................................................................................188 KẾT LUẬN ............................................................................................................190 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...............................................................................................................192 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................193 iv DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam............................................. 123 Bảng 3.2: Tình hình áp dụng một số biện pháp ngăn chặn khác ........................................ 126 Bảng 3.3: Tình hình áp dụng căn cứ tạm giam .................................................................... 127 Bảng 3.4: Tình hình áp dụng trình tự thủ tục tạm giam ...................................................... 131 Bảng 3.5: Tình hình áp dụng thời hạn tạm giam ................................................................. 133 v DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ bị can, bị cáo bị tạm giam giai đoạn 2008-2018 ................................... 123 Biểu đồ 3.2: Tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam ........................................ 124 Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ áp dụng căn cứ tạm giam giai đoạn 2008-2018 .................................... 128 Biểu đồ 3.4: Tình hình áp dụng căn cứ tạm giam ................................................................ 128 Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ áp dụng trình tự thủ tục tạm giam giai đoạn 2008-2018 ...................... 131 Biểu đồ 3.6: Tình hình áp dụng trình tự thủ tục tạm giam .................................................. 132 Biểu đồ 3.7: Cơ cấu số bị can quá hạn tạm giam trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án ........................................................................................................................ 134 Biểu đồ 3.8: Tình hình quá hạn tạm giam ........................................................................... 135 vi MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Tố tụng hình sự là hoạt động thể hiện quyền lực của nhà nước trong việc xử lý tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo đó, hoạt động TTHS của nhà nước được thực hiện thông qua đại diện là các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, TA và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra) nhân danh nhà nước tiến hành làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Các hoạt động TTHS mang tính cưỡng chế đã hạn chế một số QCN như quyền tự do đi lại, thăm thân, quyền thông tin liên lạc…do người này bị cách ly khỏi xã hội. Tuy nhiên, sự hạn chế này là cần thiết nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời, xử lý nhanh chóng tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ QCN. Do vậy, khi áp dụng BPNCTG trong quá trình giải quyết vụ án, đòi hỏi các CQ/NCTQTHTT phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật về căn cứ, thẩm quyền, đối tượng, trình tự, thủ tục và thời hạn khi áp dụng biện pháp này. Điều này, còn tránh được việc áp dụng BPNCTG một cách tùy tiện, tạo cơ sở pháp lý bảo vệ QCN nói chung, quyền lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng biện pháp này nói riêng; đồng thời, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền, các tổ chức xã hội kiểm tra, giám sát việc áp dụng đúng đắn BPNCTG, qua đó góp phần hạn chế việc xâm phạm đến QCN. Việc quy định BPNCTG trong luật TTHS các nước, phụ thuộc vào quan điểm, cách tiếp cận, truyền thống pháp luật, cách thức tổ chức giải quyết vụ án hình sự, thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm trong mối liên hệ với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội ở từng thời điểm lịch sử nên pháp luật TTHS về BPNCTG ở mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử là không giống nhau. Ở Việt Nam, BPNCTG trong TTHS được quy định từ khi thành lập nước (năm 1945), trên cơ sở kế thừa tinh hoa của pháp luật các thời đại phong kiến và thuộc Pháp trước đó, cũng như được phát triển, hoàn thiện qua từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở định hướng cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, Hiến pháp năm 2013 và xuất phát từ yêu cầu giải quyết vụ án hình sự bảo đảm sự khách quan, 1 nhanh chóng, công bằng, dân chủ, bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, do đó, quy định về BPNCTG đã được duy trì phát triển và hoàn thiện trong BLTTHS năm 2015. BLTTHS năm 2015, ngoài cách tiếp cận xem BPNCTG là giải pháp nhằm ngăn chặn tội phạm, hỗ trợ CQ/NCTQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, BPNCTG đã được tiếp cận nhiều hơn dưới góc độ bảo vệ QCN, lấy QCN làm trung tâm, hướng tới việc bảo đảm cao nhất quyền của người bị áp dụng BPNCTG. Với cách tiếp cận này, các quy định của BLTTHS năm 2015 về BPNCTG không những bảo đảm được nhiệm vụ “phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng” tội phạm mà còn bảo đảm nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ QCN” trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chánh án TANDTC, PGS.TS Nguyễn Hòa Bình đưa ra yêu cầu: “Quy định từng biện pháp tố tụng phải bị điều chỉnh chặt chẽ bởi năm yếu tố: căn cứ; thẩm quyền; trình tự, thủ tục; thời hạn” [1]. Những yêu cầu này, được quán triệt trong quá trình xây dựng BLTTHS năm 2015, do đó, những quy định về BPNCTG đã hình thành cơ sở, hành lang pháp lý cho hoạt động áp dụng pháp luật của các CQ/NCTQTHTT góp phần thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của TTHS được xác định tại Điều 1 của BLTTHS năm 2015. Thực tiễn áp dụng BPNCTG những năm qua cho thấy, bên cạnh mặt tích cực còn có những bất cập, hạn chế sau: Thứ nhất, biện pháp ngăn chặn tạm giam có tỷ lệ áp dụng cao nhất trong số các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS năm 2015. Mặc dù, BPNCTG gây ảnh hưởng rất lớn đến QCN, quyền lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng nhưng lại được áp dụng nhiều nhất trong quá trình giải quyết vụ án so với biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. Cụ thể: theo thống kê của VKSND Tối cao giai đoạn từ năm 2008 đến 2018, toàn quốc đã khởi tố mới 1.189.167 đối tượng; trong đó áp dụng BPNCTG đối với 919.662 đối tượng, chiếm tỷ lệ 77,3%; áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác đối với 145.558 đối tượng, chiếm tỷ lệ 22,7%. [xem bảng Phụ lục số 1] Thực tiễn này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu về BPNCTG một cách toàn diện, làm cơ sở cho những điều chỉnh theo hướng hạn chế tới mức thấp nhất việc áp dụng biện pháp này và chỉ được áp dụng trong những trường hợp 2 đặc biệt, phù hợp với các tiêu chí phổ quát của Liên Hợp Quốc về QCN thay vì được áp dụng mang tính phổ biến như ở Việt Nam. Thứ hai, việc áp dụng BPNCTG trong quá trình giải quyết vụ án còn nhiều sai phạm của CQ/NCTQTHTT, gây ra những hậu quả nặng nề, dẫn tới tình trạng làm oan người vô tội. Những vi phạm khi áp dụng BPNCTG của CQ/NCTQTHTT với các biểu hiện thường thấy như: không thỏa mãn căn cứ khi áp dụng BPNCTG; không đúng thẩm quyền; không tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục và quá thời hạn tạm giam theo quy định của pháp luật. Cũng theo số liệu thống kê của VKSND Tối cao từ năm 2008 đến năm 2018, cả nước đã trả tự do 3.645 đối tượng bị áp dụng BPNCTG khi có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do hành vi của người bị áp dụng biện pháp này không cấu thành tội phạm (chiếm 0,34% tổng số người bị tạm giam); và tạm giam quá thời hạn 3.547 trường hợp (chiếm 0,32% tổng số người bị tạm giam) [79]. Thứ ba, hiện tượng lạm dụng áp dụng BPNCTG khi giải quyết vụ án đã xâm hại đến QCN, ảnh hưởng đến tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, công lý không được tôn trọng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự công bằng của hoạt động tư pháp hình sự. Biểu hiện rõ nhất của hiện tượng này là việc ra quyết định tạm giam NBBT một cách tùy tiện, thậm chí còn sử dụng BPNCTG như là một giải pháp nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ dẫn đến sai phạm của các CQ/NCTQTHTT. Những vi phạm trên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm giảm ý nghĩa và mục đích cần đạt được của TTHS nói chung và BPNCTG nói riêng. Thực tiễn này cần được xem xét nghiên cứu trên cơ sở phương pháp tiếp cận quyền để có biện pháp khắc phục, giảm thiểu những sai phạm trong việc áp dụng BPNCTG. Từ những phân tích trên cho thấy, quy định về BPNCTG còn tồn tại những bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ QCN; thực tiễn áp dụng BPNCTG còn có hạn chế, vướng mắc nhất định. Trong khi đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 yêu cầu: “Xác định rõ căn cứ tạm giam; 3 hạn chế việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam”. Đây vừa là yêu cầu thực hiện nhiệm vụ Chiến lược, đồng thời cũng là định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về BPNCTG cũng như đáp ứng được yêu cầu cấp thiết khắc phục bất cập, hạn chế, vi phạm khi áp dụng BPNCTG. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế bên cạnh việc nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế về QCN trong pháp luật TTHS nói chung và đối với BPNCTG nói riêng, cần có các giải pháp bảo đảm QCN trong quá trình tạm giam cho NBBT cũng như phải có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành, áp dụng biện pháp ngăn chặn này, kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm. Do đó, cần có những nghiên cứu sâu hơn cả về lý luận và thực tiễn về BPNCTG theo hướng bảo đảm QCN, đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng biện pháp này một cách khách quan, toàn diện và đưa ra các giải pháp phù hợp. Vì vậy, để góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS, góp phần nâng cao chất lượng thực thi, áp dụng BPNCTG trong TTHS, nghiên cứu sinh lựa chọn “Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận án của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Nghiên cứu đề tài “Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm rõ một số vấn đề lý luận và hướng tới mục đích hình thành cơ sở lý thuyết về BPNCTG trong TTHS bao gồm quá trình lập pháp và áp dụng biện pháp này trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng BPNCTG. Đồng thời, kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật, giải pháp nâng cao chất lượng thực thi, áp dụng BPNCTG trong TTHS. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Để đạt được những mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Một là, nghiên cứu làm rõ khái niệm BPNCTG trong luật TTHS Việt Nam; phân tích nội hàm, đặc điểm, cơ chế hình thành từ đó làm sáng tỏ và xây dựng khái niệm hoàn thiện về BPNCTG. Hai là, khái quát hoá các quy định về BPNCTG trong lịch sử TTHS Việt Nam từ năm 1945 đến nay, nghiên cứu để làm sáng tỏ BPNCTG trong pháp luật 4 quốc tế và pháp luật TTHS một số nước cụ thể trên thế giới để rút ra những yếu tố phù hợp với truyền thống văn hoá Việt Nam về hoạt động lập pháp TTHS. Ba là, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng quy định của BLTTHS có liên quan đến BPNCTG và tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định. Bốn là, nghiên cứu, làm rõ thực trạng thi hành những quy định của pháp luật TTHS về BPNCTG qua việc nghiên cứu các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ quan Tư pháp Trung ương giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2018, nghiên cứu một số bản án cụ thể để từ đó luận án chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng BPNCTG và nguyên nhân của nó, làm cơ sở cho việc đưa ra các kiến nghị hoàn thiện BLTTHS về BPNCTG cũng như các giải pháp nâng cao và bảo đảm thực hiện đúng việc áp dụng biện pháp này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Từ mục đích nêu trên, luận án có đối tượng nghiên cứu là: (i) Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong TTHS thông qua các ấn phẩm khoa học được xuất bản ở Việt Nam và các nước trên thế giới; (ii) Quy định của pháp luật TTHS về BPNCTG ở Việt Nam, ở một số nước trên thế giới cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp này ở Việt Nam những năm gần đây. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về nội dung: Các quan điểm, học thuyết, cách tiếp cận về biện pháp ngăn chặn là tri thức của nhân loại nên có phạm vi rộng không bị giới hạn bởi không gian, thời gian. Do vậy, tác giả sẽ khái quát những đặc điểm nổi bật của chúng. Nội dung luận án sẽ đề cập đến các vấn đề về lý thuyết và thực tiễn liên quan đến BPNCTG trong TTHS. Phạm vi về thời gian: Luận án hệ thống hóa lịch sử phát triển của luật TTHS Việt Nam quy định về BPNCTG từ năm 1945 đến nay. Nghiên cứu tập trung hơn vào BPNCTG trong BLTTHS Việt Nam năm 2015. Luận án nghiên cứu thực trạng áp dụng BPNCTG của các CQ/NCTQTHTT từ năm 2008 đến năm 2019. Phạm vi về không gian: Luận án nghiên cứu những quy định về BPNCTG trong pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới. Ở Việt Nam, việc khảo sát thực tiễn áp dụng BPNCTG trong TTHS không bị giới hạn ở địa 5 phương nào mà được xác định trên địa bàn toàn quốc. Mặc dù, luận án được nghiên cứu dưới góc độ tiếp cận quyền nhưng sẽ ưu tiên phân tích quyền của người bị tạm giam để đánh giá pháp luật và hành vi của CQ/NCTQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Luận án không nghiên cứu thực tiễn áp dụng BPNCTG của CQĐT, VKS và TA Quân sự các cấp. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phƣơng pháp luận Phương pháp luận: Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng; lý luận khoa học hình sự và tố tụng hình sự; các quan điểm, luận điểm trong các công trình khoa học, sách báo pháp lý của các nhà khoa học, quản lý…; các quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng về nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch vững mạnh, hiệu quả hướng tới việc bảo vệ công lý, bảo vệ QCN. Phương pháp tiếp cận: Bên cạnh các phương pháp tiếp cận mang tính truyền thống, luận án còn sử dụng phương pháp tiếp cận quyền để xem xét các vấn đề được nghiên cứu trong luận án. Phương pháp tiếp cận quyền đối với BPNCTG là cách tiếp cận lấy QCN của người bị tạm giam là trung tâm để xem xét, giải quyết vấn đề xây dựng pháp luật, áp dụng BPNCTG trong luật TTHS. 4.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể Trên căn bản của phương pháp luận và phương pháp tiếp cận nêu trên luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: Phương pháp phân tích quy phạm: Đây là phương pháp trọng tâm của các nghiên cứu ngành luật. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 3 của luận án. Phương pháp này dùng để phân tích các quy phạm thể hiện trong Hiến pháp, các đạo luật, văn bản dưới luật và ở một mức độ nào đó trong các nghị quyết của Đảng Cộng sản. Phương pháp phân tích tư liệu: cũng được dùng trong toàn bộ luận án. Các tư liệu có thể xếp loại thành các nhóm: văn bản (pháp lý, chính trị, hành chính); công trình khoa học (tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo); bài viết đăng báo (viết, trả lời phỏng vấn, phản biện). Các tư liệu chủ yếu bằng tiếng Việt (hoặc đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt), tiếng Anh, tiếng Nga. 6 Phương pháp lịch sử: được sử dụng để làm rõ sự hình thành và phát triển của biện pháp ngăn chặn trong lịch sử tố tụng Việt Nam. Biện pháp ngăn chặn là thiết chế phản ánh rõ nét văn hóa, xã hội, kinh tế, lịch sử và thực tiễn chính trị của mỗi quốc gia, khu vực trên thế giới. Do đó, quá trình nghiên cứu cũng cần đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể tránh đi vào sự quy chiếu võ đoán. Các lý giải và giải pháp sẽ cần được cân nhắc dựa vào các bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội cụ thể. Phương pháp so sánh: các tài liệu trong và ngoài nước để làm sáng tỏ tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này, hệ thống hóa lịch sử và quy định trong BLTTHS một số quốc gia về nội dung nghiên cứu. Phương pháp thống kê: để xử lý các tài liệu, số liệu của VKSND Tối cao nhằm làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng BPNCTG và phân tích các vụ án cụ thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2018 qua đó, đánh giá những tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: thông qua thảo luận nội dung luận án cấp bộ môn, luận án đã được chỉnh sửa, hoàn thiện theo ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học. 5. Những điểm mới của luận án Kết quả nghiên cứu đề tài luận án thể hiện những điểm mới sau: Thứ nhất, các nghiên cứu liên quan đến BPNCTG mới chỉ đề cập ở góc độ chung về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong TTHS, hoặc ở các nghiên cứu về luật TTHS, hoặc chỉ là những nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh đơn lẻ mà chưa có nghiên cứu nào mang tính độc lập, tổng thể đề cập đến tất cả các vấn đề lý luận và thực tiễn về BPNCTG ở nước ta. Mặt khác, các nghiên cứu trước thời điểm Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 được ban hành dựa trên cách tiếp cận và quy định của luật TTHS cũ nên không còn phù hợp với xu thế phát triển mới của khoa học và thực trạng cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp này. Vì vậy, luận án vừa kế thừa và bổ sung khoảng trống mà các nghiên cứu trước đó để lại, đồng thời đặt việc nghiên cứu về BPNCTG dưới góc nhìn tiếp cận quyền để có những nhận xét, đánh giá, kiến nghị phù hợp và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. Một công trình nghiên cứu độc lập, tổng thể đề cập đến các vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến BPNCTG là điểm mới của luận án. 7 Thứ hai, luận án hình thành khung lý thuyết về BPNCTG trên hai khía cạnh: Pháp luật TTHS về BPNCTG và áp dụng biện pháp ngăn chặn này nhằm bảo đảm tính thống nhất, tổng thể trong suốt quá trình nghiên cứu luận án về BPNCTG. Do vậy, kết quả nghiên cứu, các nhận xét, nhận định, đánh giá, kết luận trong luận án phản ánh quy luật vận động khách quan trong mối quan hệ biện chứng với các hiện tượng pháp lý khác trong đấu tranh xử lý tội phạm ở thời đại ngày nay. Thứ ba, luận án chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và bài học lịch sử về BPNCTG thông qua việc nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế được quy định trong các công ước về QCN, công ước phòng chống tra tấn của Liên hợp quốc cũng như pháp luật một số quốc gia về BPNCTG và quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về biện pháp này từ năm 1945 đến nay. Những nhận xét, đánh giá của luận án về kinh nghiệm quốc tế và bài học lịch sử về BPNCTG là điểm mới so với các công trình nghiên cứu trước đó về biện pháp này ở Việt Nam, là tài liệu tham khảo trong hoạt động xây dựng, hoàn thiện và áp dụng, thực thi pháp luật về BPNCTG cũng như trong nghiên cứu, đào tạo. Thứ tư, những nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng, thực thi BPNCTG được phân tích, nghiên cứu thông qua các số liệu, tài liệu cập nhật, với thời lượng bảo đảm tính quy luật của các kết luận trong luận án. Đồng thời, khi thu thập, phân loại, tổng hợp, phân tích số liệu, tài liệu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu hiện đại, trong đó đặc biệt chú ý đến phương pháp thống kê đã làm cho kết quả nghiên cứu của luận án có độ tin cậy cao, phản ánh được bức tranh sinh động, đa chiều về thực trạng và thực tiễn của BPNCTG. Thứ năm, các nghiên cứu về BPNCTG thường sử dụng phương pháp tiếp cận truyền thống và còn nhận thức khi xem BPNCTG trong TTHS như là “công cụ” của CQ/NCTQTHTT khi giải quyết vụ án hình sự mà ít sử dụng phương pháp tiếp cận quyền trong việc phân tích, xem xét, đánh giá. Do đó, kết quả nghiên cứu còn phiến diện, chưa bảo đảm tính khoa học, tính thống nhất, trọn vẹn của công trình nghiên cứu về BPNCTG. Khắc phục hạn chế này, luận án sử dụng phương pháp tiếp cận quyền khi nghiên cứu các vấn đề liên quan đến BPNCTG nên kết quả luận án bảo đảm được tính khách quan, trung thực phản ánh được quy luật vận động, phát 8 triển của BPNCTG tiệm cận chân lý của nhận thức khoa học trong quá trình nghiên cứu về biện pháp này trong TTHS. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Ý nghĩa khoa học của luận án thể hiện qua hai khía cạnh sau đây: (i) Luận án hệ thống hóa một số lý thuyết, quan điểm về pháp luật và áp dụng pháp luật về BPNCTG theo cách tiếp cận quyền; (ii) Luận án tiếp cận BPNCTG với một phương pháp mới. Qua đó xây dựng hệ thống lý luận về biện pháp này từ góc nhìn: Lấy quyền của người bị cáo buộc phạm tội bị áp dụng BPNCTG để đánh giá pháp luật và hành vi của cơ quan/người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ý nghĩa thực tiễn của luận án thể hiện : (i) Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm cơ sở lý luận để tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về BPNCTG của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xây dựng pháp luật TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đồng thời cũng là cơ sở hình thành những giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp cưỡng chế này, qua đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, xử lý tội phạm, bảo vệ các quyền và tự do của con người, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật trong thực tiễn giải quyết vụ án; (ii) Kết quả luận án bổ sung tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, đào tạo trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo luật, đặc biệt trong chuyên ngành Tư pháp hình sự. 7. Kết cấu của luận án Luận án bao gồm phần Mở đầu, Kết luận và bốn Chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài của luận án; Chương 2: Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự; Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự ở Việt Nam; Chương 4: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. 9 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự Các công trình nghiên cứu ở ngoài nước về biện pháp ngăn chặn thể hiện sự phong phú, đa dạng và độ sâu rộng khác nhau thông qua đó phản ánh cách tiếp cận, góc nhìn cũng như thái độ của mỗi tác giả khi nghiên cứu biện pháp này của TTHS. Mặc dù vậy, dưới góc độ ngôn ngữ, các tác nghiên cứu đều sử dụng phổ biến thuật ngữ “preventive measures” (tiếng Anh) và “превентивные меры” (tiếng Nga) với nghĩa là “các biện pháp phòng ngừa”, với nội hàm tương đồng với khái niệm “biện pháp ngăn chặn” trong tiếng Việt. Nhìn chung, các công trình đề cập đến đặc điểm, bản chất của biện pháp ngăn chặn và mối quan hệ của BPNCTG với các biện pháp ngăn chặn khác, cụ thể: Thời kỳ Liên Xô (cũ), các tác giả đã tập trung nghiên cứu làm rõ đặc điểm, bản chất của các biện pháp ngăn chặn và cơ sở của BPNCTG. Chẳng hạn, tác giả ZD. Enhikeev nhấn mạnh đến bản chất phòng ngừa của các biện pháp ngăn chặn khi cho rằng: “Các biện pháp ngăn chặn là một phạm trù đặc biệt, có ý nghĩa phòng ngừa” [50]. Tương tự, tác giả M.S. Strogovich xác định: “Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế sự tự do của bị cáo với mục đích ngăn ngừa sự trốn tránh điều tra, xét xử” [50]. Như vậy, biện pháp ngăn chặn theo quan điểm truyền thống của các luật gia Soviet đề cập đến hai đặc trưng: (i) Tính chất phòng ngừa, ngăn chặn của các biện pháp này; (ii) Đối tượng tác động của các biện pháp này khi áp dụng là bị can, bị cáo. Đây được coi là nền tảng lý luận cơ bản được nhiều các tác giả khác triển khai nghiên cứu về BPNCTG với mức độ và phạm vi ngày càng rộng mở. Một số các tác giả khác tập trung vào tính mục đích của biện pháp ngăn chặn, đó là ngăn chặn sự bỏ trốn, gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử. Chẳng hạn, 10 tác giả Andreea Simona cho rằng: “Các biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế để các cơ quan Tư pháp hình sự áp dụng đảm bảo hoạt động tố tụng hình sự, để ngăn chặn bị can, bị cáo trốn tránh sự truy tố, xét xử hoặc để ngăn cản việc tiếp tục thực hiện tội phạm” [84]. Tương tự, tác giả Marin Alin đưa ra khái niệm: “Các biện pháp phòng ngừa là thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự, có tính chất cưỡng chế và ngăn cản bị can, bị cáo đã hoặc sẽ (có mục tiêu) thực hiện một số hoạt động nhất định mà hoạt động này có tác động tiêu cực đến thủ tục tố tụng hình sự” [97]. Đồng thời, các tác giả đã chỉ ra những nội dung cơ bản nhất của biện pháp ngăn chặn, bao gồm: (i) Bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn là hạn chế quyền tự do của người bị cáo buộc phạm tội; (ii) Đối tượng áp dụng BPNCTG là người bị cáo buộc phạm tội. BPNCTG trong mối quan hệ với các biện pháp ngăn chặn khác được đề cập trên các phương diện như: tính nghiêm khắc đặc biệt so với các biện pháp ngăn chặn khác, tính dễ bị tổn thương cho người bị cáo buộc phạm tội, và do đó, thường là biện pháp áp dụng sau cùng khi các biện pháp ngăn chặn khác không tỏ ra hiệu quả, việc áp dụng phải tuân theo quy trình, thủ tục chặt chẽ và hợp pháp. Theo đó, tính nghiêm khắc đặc biệt thể hiện qua “sự hạn chế quyền tự do (in costudy)” đối với bị can, bị cáo khi bị giam giữ. Tác giả Grigore Theodoru chỉ ra các dấu hiệu để có thể áp dụng BPNCTG, đó là: “Bỏ trốn; không xuất hiện trước TA; huỷ những chứng cứ quan trọng; thực hiện một tội phạm khác” [90]. Cũng theo tác giả, “khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, ít nhất một trong bốn căn cứ trên phải đang tồn tại. Hơn nữa, những căn cứ trên phải tồn tại một cách hợp lý và bắt buộc phải có các biểu hiện thực tế hoặc thông tin để chứng minh” [90]. Kết luận này của G. Theodoru thể hiện rằng việc áp dụng BPNCTG đúng căn cứ là rất quan trọng và phải dựa trên sự thật khách quan mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người áp dụng. Tương tự, tác giả Anita H. Kocsis cho rằng: “Căn cứ áp dụng BPNCTG là khi có nghi ngờ rằng bị can, bị cáo sẽ không xuất hiện trước tòa; sẽ tiêu hủy vật chứng; sẽ tiếp tục thực hiện thêm hành vi phạm tội khác” [85]. Nghiên cứu này của tác giả chủ yếu dựa trên những khảo sát luật thực định của các quốc gia trên thế giới và 11 nhằm mục đích đưa ra các căn cứ chuẩn mực để áp dụng BPNCTG. Qua nghiên cứu cũng cho thấy, mỗi quốc gia có thể đặt ra thêm những căn cứ áp dụng BPNCTG khác ngoài những căn cứ nêu trên. Đây là các kết quả nghiên cứu có giá trị tham khảo lớn đối với đề tài luận án của nghiên cứu sinh. 1.1.1.2. Các nghiên cứu liên quan trực tiếp đến biện pháp ngăn chặn tạm giam Về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam Tại những quốc gia như Nga và Ukraine, các tác giả có xu hướng cho rằng việc áp dụng BPNCTG cần căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Chẳng hạn như tác giả Victor V. Filippov cho rằng: “BPNCTG có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo nếu hành vi phạm tội mà họ thực hiện có mức hình phạt tước tự do có thời hạn từ một năm trở lên. Trong một số trường hợp ngoại lệ, BPNCTG có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo mà hành vi phạm tội do họ thực hiện có mức hình phạt tước tự do dưới một năm” [116]. Quan điểm này được củng cố trong một số báo cáo của các tổ chức phi chính phủ khi nghiên cứu vấn đề tội phạm và hình phạt tại một số quốc gia cũng chỉ ra rằng: “Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị can, bị cáo thực hiện thông qua mức hình phạt tước tự do có thể được áp dụng đối với tội phạm đó hiện đang được nhiều quốc gia áp dụng như một căn cứ quan trọng nhất” [103]. Ngược lại, thận trọng hơn, dù thừa nhận mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là một yếu tố quan trọng để áp dụng BPNCTG, nhưng không đủ. Nhóm các tác giả Rusudan Mchedlishvili, Anna Tvaradze, Sopo Verdzeuli, Giorgi Turazashvilli, Nino Elbakidze đã nêu ra quan điểm như sau: “Biện pháp ngăn chặn tạm giam là một trong những loại biện pháp ngăn chặn và chỉ được áp dụng khi đã cân nhắc đến các lợi ích liên quan đến quyền tự do của con người” [104]. Khẳng định này là cách gián tiếp để các tác giả chỉ ra rằng BPNCTG là biện pháp có tác động lớn đến quyền tự do của con người, do đó chỉ được áp dụng khi đã cân nhắc nhiều yếu tố. Từ lý luận nền tảng trên, các tác giả đưa ra bốn căn cứ áp dụng BPNCTG bao gồm: (i) Có đe dọa cho rằng người phạm tội sẽ trốn; (ii) Có đe dọa cho rằng người phạm tội sẽ không xuất hiện trước tòa; (iii) Có đe dọa cho rằng chứng cứ của vụ án sẽ bị hủy hoại; (iv) Ngăn chặn một tội phạm mới sẽ được 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan