ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HUÂN
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI QUẢ TANG TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Hình Sự
Mã số
: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trịnh Quốc Toản
Hà Nội – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Huân
i
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................................. I
MỤC LỤC ....................................................................................................................... II
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ....................................................... IV
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................. 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn....................................................................... 3
6. Kết cấu của luận văn...................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1 ...................................................................................................................... 5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI QUẢ TANG
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................... 5
1.1. Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người và bắt người phạm tội quả tang trong luật
tố tụng hình sự................................................................................................................... 5
1.1.1. Quan niệm về biện pháp bắt người trong luật tố tụng hình sự ............................... 5
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các nguyên tắc của biện pháp bắt người phạm tội
quả tang ....................................................................................................................... 10
1.1.3. Phân biệt với bắt người trong trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt khẩn
cấp, bắt người đang bị truy nã ...................................................................................... 16
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về biện pháp bắt người
phạm tội quả tang trong Luật TTHS Việt Nam từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến
trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ...................................................... 19
1.3. Các quy định về biện pháp bắt người phạm tội quả tang trong luật tố tụng hình sự một
số nước............................................................................................................................ 28
CHƯƠNG 2 .................................................................................................................... 33
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI QUẢ TANG THEO
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .................... 33
2.1. Những quy định về biện pháp bắt người phạm tội quả tang theo Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 ........................................................................................................................ 33
ii
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp bắt người phạm tội quả tang trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003.......................................................................................... 45
2.2.1. Tình hình bắt người phạm tội quả tang trong thời gian từ 2008 đến 2012............ 45
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định về biện pháp bắt người phạm
tội quả tang theo Bộ luật TTHS năm 2003 ................................................................... 52
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
bắt người phạm tội quả tang ......................................................................................... 62
CHƯƠNG 3 .................................................................................................................... 69
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI QUẢ TANG VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG .............................................................................. 69
3.1. Yêu cầu và định hướng công tác bắt người phạm tội quả tang ở nước ta hiện nay ..... 69
3.1.1. Yêu cầu của công tác bắt người đang phạm tội quả tang trong giai đoạn hiện nay
.................................................................................................................................... 69
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả về công tác bắt người đang phạm tội quả tang trong
giai đoạn hiện nay ........................................................................................................ 71
3.2. Một số kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện
pháp bắt người phạm tội quả tang .................................................................................... 74
3.3. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác bắt người phạm tội quả tang trong
thời gian tới ở Việt Nam .................................................................................................. 81
3.3.1. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong công tác bắt người đang
phạm tội quả tang......................................................................................................... 81
3.3.2. Nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho các lực lượng then chốt trong công tác bắt
người phạm tội quả tang............................................................................................... 84
3.3.3. Nâng cao vai trò của quần chúng và đảm bảo kinh phí trong công tác đấu tranh và
phòng chống tội phạm .................................................................................................. 85
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 89
iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
BCA
Bộ công an
BLHS
Bộ luật hình sự
BNV
Bộ Nội vụ
BPNC
Biện pháp ngăn chặn
CSND
Cảnh sát nhân dân
CTTP
Cấu thành tội phạm
HĐND
Hội đồng nhân dân
HĐXX
Hội đồng xét xử
QĐND
Quân đội nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TTHS
Tố tụng hình sự
UBND
Ủy ban nhân dân
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
STT
Tên Biểu đồ
Trang
1
Biểu đồ số 2.1: Số lượng người bị bắt từ năm 2008 - 2012
47
2
Biểu đồ số 2.2: Tỷ lệ giải quyết xử lý hình sự từ năm 2008 - 2012
48
3
Biểu đồ số 2.3: Số lượng bắt, tạm giữ theo các hình thức bắt từ
48
2008 - 2012
4
Biểu đồ số 2.4: Tương quan các hình thức bắt từ 2008 - 2012
v
49
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các biện
pháp ngăn chặn (BPNC) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, vì nó giúp cơ quan tiến
hành tố tụng có điều kiện thuận lợi để giải quyết vụ án hình sự. Việc áp dụng
đúng đắn, chính xác các BPNC đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ của hoạt động TTHS để phát hiện nhanh chóng, ngăn chặn và xử lý kịp
thời nghiêm minh đối với người phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm
oan người vô tội. Trong những BPNC thì biện pháp bắt người chiếm vị trí quan
trọng nhất và được áp dụng thường xuyên để đấu tranh và phòng chống tội
phạm. Việc bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội,
bắt người đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan sai có ảnh
hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Qua thực tiễn 9 năm thực hiện Bộ luật TTHS 2003 thì những quy định về
BPNC, trong đó có việc áp dụng biện pháp bắt người phạm tội, cho thấy có
nhiều vấn đề còn bất cập, đặc biệt là những quy định về việc áp dụng BPNC bắt
người trong trường hợp phạm tội quả tang. Bên cạnh đó còn có nhiều nguyên
nhân chủ quan, khách quan khác nhau cũng làm phát sinh các vi phạm, ảnh
hưởng đến hiệu quả của việc áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang.
Hiện nay, cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm coi là nhân
tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa (XHCN) Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để tiếp tục thực hiện, đẩy mạnh hơn công
cuộc cải cách tư pháp, ngày 02-01-2002 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08NQ/TƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và
Nghị quyết số 49-NQ/TƯ ngày 02-06-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020. Các nghị quyết trên đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của TTHS cần phải
được nghiên cứu một cách toàn diện để thể chế hóa vào quy định của Bộ luật
1
TTHS, tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án hình sự.
Việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn những vấn đề lý luận đối với quy định
của pháp luật về BPNC bắt người nói chung và quy định BPNC bắt người phạm
tội quả tang nói riêng nhằm đánh giá những mặt tích cực, hạn chế, xác định
những nguyên nhân tồn tại để đưa ra các kiến nghị giải pháp hoàn thiện về pháp
luật và thực tiễn áp dụng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng mang tính
cấp thiết. Trong phạm vi tìm hiểu, nghiên cứu chúng tôi xin trình bày đề tài:
“Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật Tố Tụng hình sự
Việt Nam”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
công tác bắt người đang phạm tội quả tang, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả công tác bắt người phạm tội quả tang trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những quy định lý luận về pháp lý để làm rõ khái niệm, đặc điểm,
yêu cầu, nguyên tắc và cơ sở pháp lý của công tác bắt người phạm tội quả tang;
- Phân tích thực trạng các quy định và thực trạng áp dụng các BPNC bắt
người phạm tội quả tang trong TTHS qua đó đưa ra những điểm khác biệt giữa
bắt người phạm tội quả tang với bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người
đang bị truy nã cũng như các trường hợp bắt người khác trong TTHS và đưa ra
đánh giá có cần thiết phải tách riêng quy định rõ ràng và các nhận xét về ưu
điểm, những hạn chế của công tác bắt người phạm tội quả tang ở nước ta trong
thời gian qua;
- Trên cơ sở đó tổng hợp kết quả nghiên cứu, dự báo tình hình và đề xuất
một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bắt người phạm tội
quả tang trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm những nội dung sau: Những vấn
2
đề lý luận về BPNC bắt người, bắt người phạm tội quả tang theo pháp luật TTHS
Việt Nam; cơ sở pháp lý quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người phạm
tội quả tang trong luật TTHS; thực trạng áp dụng những quy định về biện pháp
bắt người phạm tội quả tang trong thời gian qua và một số kiến nghị giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác áp dụng BPNC bắt người phạm tội quả tang trong
thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu: dựa trên nguồn văn bản pháp luật về TTHS và các văn
bản pháp luật khác từ những năm 1957 đến nay; dựa trên các báo cáo tổng kết về
công tác bắt, tạm giam, tạm giữ của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) Tối cao
từ năm 2008 đến 2012; báo cáo hoạt động trong công tác bắt giữ người phạm tội
của Bộ công an, Bộ Quốc Phòng trong năm 2010 và 2011; một số vụ bắt phạm
tội quả tang và xét xử trong những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và các quy định của pháp luật
của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngoài ra, luận văn cũng dựa
trên các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Luật hình sự, TTHS và các phương
pháp nghiên cứu cụ thể khác như: sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp lịch sử.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và những
đánh giá thực tiễn của công tác bắt người phạm tội quả tang để đưa ra những dự
báo về tình hình bắt người phạm tội quả tang trong thời gian tới. Từ đó, đưa ra
một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả cho công tác bắt người phạm tội
quả tang, phục vụ tốt hơn cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Luận
văn góp phần làm phong phú và từng bước hoàn thiện lý luận chuyên ngành,
cung cấp các luận cứ để cán bộ thực tế tham khảo và vận dụng vào thực tiễn
công tác bắt người phạm tội quả tang. Với ý nghĩa như vậy, luận văn có thể được
dùng làm tài liệu tham khảo khi học tập, nghiên cứu về chuyên ngành luật hình
3
sự, TTHS cho các cơ sở đào tạo của ngành công an và cơ sở đào tạo khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người phạm tội quả tang
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Những quy định về biện pháp bắt người phạm tội quả tang theo
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người phạm tội quả tang và nâng cao hiệu
quả áp dụng.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI
QUẢ TANG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người và bắt người phạm tội quả
tang trong luật tố tụng hình sự
1.1.1. Quan niệm về biện pháp bắt người trong luật tố tụng hình sự
Bắt người là BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc, vì vậy việc bắt người
nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ mà pháp luật quy
định. Bắt người nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trốn tránh pháp luật, nhằm tạo điều kiện bảo đảm
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Theo quy định
của Bộ luật TTHS thì bắt người là một trong những BPNC do cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người
chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn hành vi tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm
tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự được thuận lợi, đúng pháp luật. Hậu quả của việc bắt người
nhầm lẫn, oan sai sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền hiến định của công dân,
hạn chế một số quyền tự do của cá nhân có tác hại rất lớn đến tính nghiêm minh
của pháp luật, ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan pháp
luật. Đó là quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người mà Điều 71 của
Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của
Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ
trường hợp do phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp
luật”. Chỉ được bắt người theo TTHS khi có quyết định của Tòa án, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát và chỉ duy nhất trường hợp bắt người phạm
tội quả tang thì không cần có quyết định của Tòa án, quyết định phê chuẩn của
VKSND. Nếu bắt người trái pháp luật sẽ gây tác hại nghiêm trọng về nhiều mặt:
Quyền và lợi ích của công dân bị xâm phạm, hiệu lực của pháp luật, uy tín của
5
Nhà nước nói chung và của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng bị suy giảm.
Đối tượng của công tác bắt là con người cho nên việc bắt đòi hỏi phải đảm
bảo chặt chẽ, chính xác của pháp luật đảm bảo được quyền bất khả xâm phạm.
Bắt người không phải là một biện pháp hoặc hình thức trừng phạt của pháp luật
đối với người phạm tội. Việc bắt đúng có tác dụng tích cực cho việc ngăn chặn
và chống những âm mưu, thủ đoạn chống đối của người phạm tội, không cho họ
tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, che giấu, trốn tránh hoặc gây khó khăn cho
việc xác định làm rõ sự thật của vụ án.
Trong khoa học luật TTHS thủ tục bắt người được nhiều tác giả nghiên cứu
và có những quan niệm, ý kiến khác nhau, cụ thể:
Theo quan niệm của Ths.Nguyễn Mai Bộ: Bắt người là giữ người phạm pháp
lại, không cho tiếp tục tự do hoạt động, chặn đứng hành động phạm tội đề phòng
người đó lẩn trốn, tự sát, tiêu hủy chứng cứ hoặc gây trở ngại cho việc điều tra.
Bắt người là một trong những biện pháp cưỡng chế cần thiết nhất của Nhà nước
để trấn áp, ngăn chặn những hành động phạm tội… Bắt người là một trong
những BPNC do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can,
bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn
ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật [11, tr. 31-32].
Trong Giáo trình Luật TTHS Việt Nam - Khoa luật, Đại học Quốc Gia Hà
Nội thì bắt người là BPNC trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo,
người bị nghi thực hiện tội phạm hoặc người phạm tội quả tang hoặc người đang
có lệnh truy nã nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ phạm tội, tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình
sự [21, tr.199].
Còn theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trung tâm Đào tạo từ xa Đại
học Mở Hà Nội, bắt người là BPNC trong TTHS do Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố
nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật,
6
bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi
và đúng pháp luật [48, tr.214].
Tác giả Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội lại quan
niệm “bắt người là BPNC trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo,
người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì
áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm ngăn chặn hành vi
phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [50, tr.197].
Cả bốn quan niệm trên về biện pháp bắt người đều có những hạt nhân hợp lý,
tuy nhiên có điểm không hợp lý khi cho rằng một trong những mục đích của bắt
người là “Tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
bản án hình sự”. Đồng thời quan điểm cho rằng việc áp dụng BPNC bắt người
đều do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đã làm thiếu đi vai trò
và thẩm quyền của công dân khi tham gia bắt người phạm tội quả tang và bắt
truy nã.
TS. Trần Quang Tiệp đưa ra quan niệm bắt là BPNC trong TTHS, do người
có thẩm quyền áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể đối với bị can, bị cáo
hoặc người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang)
theo những trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định, nhằm ngăn chặn tội
phạm, người thực hiện tội phạm trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc tiến hành
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [45, tr.89].
Với quan niệm này có thể thấy biện pháp bắt là một BPNC độc lập trong
TTHS.
Theo TS. Nguyễn Văn Điệp cho rằng: “Bắt là biện pháp cưỡng chế được quy
định trong pháp luật TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền do luật định áp
dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố; người đang có hành vi
phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ do Bộ luật TTHS quy định,
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [23, tr.12-13].
7
Hai quan niệm trên có sự tương đồng và thống nhất người có quyền áp dụng
là “cơ quan, người có thẩm quyền”. Việc quy định này đã khắc phục được hạn
chế trong những quan niệm trước đây. Tuy nhiên việc liệt kê đối tượng bị áp
dụng lại khá dài.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, có thể đưa ra khái niệm về biện pháp
bắt người trong TTHS như sau: Bắt người là biện pháp ngăn trong tố tụng hình
sự do người có thẩm quyền áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội
theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự quy định, nhằm ngăn chặn
tội phạm, người thực hiện tội phạm trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc tiến
hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Nhà nước ta từ lâu đã coi bắt người là một chế định pháp lý quan trọng không
những trong TTHS mà cả trong tố tụng hành chính. Chế định bắt người chiếm
một vị trí xứng đáng trong các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành. Bắt
không theo quy định của pháp luật: bắt nhầm (bắt oan, sai) người vô tội sẽ gây
một tác hại rất lớn, ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo
vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài nhân
quyền để chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, khi bắt người phải thể hiện thái độ
kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, song cũng phải thận trọng khi xem xét
đánh giá chứng cứ. Quá trình thực hiện bộ luật TTHS các cơ quan tư pháp như:
Bộ công an, VKSND tối cao, TAND tối cao, Bộ Tư pháp, đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật đơn ngành, liên ngành để hướng dẫn việc áp dụng
BPNC trong đó có biện pháp bắt người [45].
Quy định và áp dụng BPNC bắt người trong TTHS có ý nghĩa lớn trong việc
đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm:
Một là, thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN trong việc đấu tranh
và phòng chống tội phạm. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
tới các quan hệ xã hội bền vững mà nhà nước bảo vệ. Do đó, công tác đấu tranh,
chống và phòng ngừa những hành vi phạm tội nhằm tiến tới loại trừ những hiện
tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng
8
nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng.
Hai là, bảo đảm cho các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được
thuận lợi, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh, phòng
chống tội phạm. Thông thường, người phạm tội ý thức rất rõ về hậu quả pháp lý
mà mình phải chịu do việc thực hiện tội phạm nên họ tìm đủ mọi cách để có thể
nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội lại vừa có thể che giấu, trốn tránh được
sự phát hiện và trừng phạt của pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
cần thiết nhằm ngăn chặn những hành vi phạm tội, đang phạm tội hoặc trốn tránh
kịp thời và hiệu quả. Góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà
người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án.
Ba là, bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được
hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú
và đi lại, thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN. Quy định BPNC bắt người
không chỉ đơn thuần tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện tốt nhiệm vụ theo chức năng của mình mà còn nhằm đảm bảo sự
tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã
được quy định trong hiến pháp. Sự tuân thủ các quy định của pháp luật TTHS
khi áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ một BPNC nào đó về các phương diện như: sự
cần thiết phải áp dụng, thay đổi, hủy bỏ, đối tượng áp dụng…; căn cứ áp dụng;
thẩm quyền; thủ tục áp dụng… trước hết là xuất phát từ sự tôn trọng các quyền
và lợi ích hợp pháp của con người [50].
Việc bắt người có tác động trực tiếp đến quyền tự do về thân thể bởi vậy khi
áp dụng cần phải cân nhắc hết sức thận trọng khi quyết định việc bắt. Bắt người
đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống và ngăn
ngừa tội phạm. Chính vì vậy, việc quy định những cơ sở pháp lý cho việc áp
dụng BPNC bắt người là một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong TTHS Việt
Nam. TS. Nguyễn Vạn Nguyên và một số tác giả khác chia biện pháp bắt người
thành bốn loại: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã [28]. Nhưng theo
9
Chương VI, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định ba trường hợp bắt người gồm:
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
- Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Căn cứ vào đối tượng bị bắt, có thể chia các biện pháp bắt người thành các
loại: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt
người đang phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và bắt một số đối tượng đặc
biệt [28, tr.198].
Như vậy, dù phân loại có khác nhau, nhưng tất cả các tác giả và nhà làm luật
đều khẳng định bắt người phạm tội quả tang là một trong những trường hợp bắt
được phân loại và quy định rõ trong Bộ luật TTHS.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các nguyên tắc của biện pháp bắt
người phạm tội quả tang
* Theo từ điển Tiếng Việt “quả tang” có nghĩa là: có tang vật dành dành,
tức có chứng cứ dành dành [68, tr.90]. Suy ra, phạm tội quả tang là phạm tội có
chứng cứ dành dành, rõ ràng, không cần phải kiểm tra, xác minh.
Bắt người phạm tội quả tang là trường hợp bắt người áp dụng đối với người
đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện
hoặc bị đuổi bắt. Những hành vi phạm tội đó phải trực tiếp xâm hại đến các quan
hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ được quy định trong các chương về tội phạm cụ
thể. Lỗi của người phạm tội trong trường hợp bắt phạm tội quả tang thường là lỗi
cố ý trực tiếp. Quả tang thông thường được hiểu là những tang vật (tài sản chiếm
đoạt: xe máy, tiền, điện thoại, vàng bạc; công cụ phương tiện phạm tội: con dao,
côn,… của người phạm tội) được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể, được nhìn
thấy rõ ràng trước mắt. Bởi vậy, tang vật khi bắt giữ người phạm tội quả tang
được coi là nguồn chứng cứ rất quan trọng làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng
để giải quyết vụ án hình sự nhất là trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự theo
thủ tục rút gọn.
Theo Điều 2 Sắc lệnh số 40-SL ngày 29-3-1946 có định nghĩa phạm pháp
10
quả tang: “Khi nào sự phạm pháp đương xảy ra hoặc vừa mới xảy ra trước mắt,
hoặc khi nào kẻ phạm pháp còn đương bị công chúng theo đuổi hay còn đương
giữ tang vật, thì gọi là phạm pháp quả tang” [9].
Điều 1 Sắc luật 002-SL ngày 18-6-1957 đã quy định cụ thể những trường hợp
phạm pháp quả tang: Đang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm pháp thì bị
phát giác ngay; đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp; đang bị tạm giữ mà lẩn trốn;
đang có lệnh truy nã [9].
Do thuật ngữ “phạm pháp” trong hai văn bản luật nói trên được hiểu là bất cứ
vi phạm pháp luật nào, cho nên đã dẫn đến không ít trường hợp lạm dụng bắt
người phạm pháp quả tang. Để khắc phục nhược điểm này, sắc luật số 02-SL/76
ngày 15-3-1976 của Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam đã sử dụng thuật ngữ “phạm tội” thay cho thuật ngữ “phạm
pháp”. Sắc luật số 02-SL/76 quy định những trường hợp phạm tội quả tang:
Đang làm việc phạm tội hoặc sau khi phạm tội thì bị phát giác; đang bị đuổi bắt
sau khi phạm tội; đang bị giam giữ mà lẩn trốn; đang có lệnh truy nã. Cả hai sắc
luật trên đều quy định người đang bị giam giữ mà lẩn trốn là một trường hợp
phạm tội quả tang riêng biệt và không phân biệt được người phạm tội quả tang
với bắt người đang có lệnh truy nã, bởi lẽ hành vi lẩn trốn của người bị giam về
mặt thực chất cũng là trường hợp đang thực hiện tội phạm và bắt người phạm tội
quả tang cũng khác về bản chất so với bắt người đang có lệnh truy nã. Để khắc
phục điểm này, Khoản 1 Điều 64 Bộ luật TTHS năm 1988 và khoản 1 Điều 82
Bộ luật TTHS năm 2003 quy định cụ thể ba trường hợp phạm tội quả tang:
Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện; Người ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện; Người đã hoặc đang thực hiện hành vi thì bị phát hiện, bỏ
chạy và đang bị đuổi bắt [45].
TS. Trần Quang Tiệp có đưa ra khái niệm bắt người phạm tội quả tang như
sau: “Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó thực hiện tội phạm
hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt” [45].
* Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang: Việc áp
11
dụng BPNC nói chung và biện pháp bắt người quả tang nói riêng thực chất là sự
tác động trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, không thể có sự
tùy tiện khi quyết định áp dụng các biện pháp này. Việc áp dụng phải dựa vào
những quy định của pháp luật đảm bảo cho việc ra quyết định áp dụng biện pháp
bắt người có căn cứ pháp luật. Căn cứ áp dụng gồm có:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm;
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố và xét xử;
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội;
- Để đảm bảo thi hành án.
* Những đặc điểm nổi bật của biện pháp bắt người phạm tội quả tang:
Thứ nhất, bắt người trong trường hợp quả tang là BPNC nhằm ngăn chặn
những hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần phải mất nhiều thời gian điều
tra, xác minh được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự. Bởi vậy, để bắt người
trong trường hợp phạm tội quả tang thì vấn đề đầu tiên là chúng ta cần phải nhận
thức và hiểu rõ về khái niệm tội phạm mà luật hình sự điều chỉnh. Hành vi phạm
tội bắt trong trường hợp quả tang phải có đầy đủ các dấu hiệu tội phạm, được
người bắt giữ chứng kiến tận mắt quá trình phạm tội.
Thứ hai, bắt người phạm tội quả tang mang tính cưỡng chế nghiêm khắc
được quy định và áp dụng dựa trên những căn cứ pháp lý của pháp luật để kịp
thời ngăn chặn những hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị
cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử cũng như để bảo đảm thi hành án. Đối tượng bắt phạm
tội quả tang bao gồm các trường hợp sau:
- Người đang thực hiện phạm tội thì bị phát hiện;
- Người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện;
- Người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt.
Thứ ba, việc bắt người phạm tội quả tang diễn ra liên tục, được phép bắt vào
ban đêm. Được coi là bắt người phạm tội quả tang thì yêu cầu về mặt thời gian là
12
rất quan trọng. Quá trình phát hiện hành vi phạm tội và bắt người phạm tội phải
xảy ra theo tính liên tục về thời gian, về địa điểm không được gián đoán. Nếu
hành vi phạm tội quả tang bị phát hiện không bị bắt giữ ngay mà kéo dài sang
ngày khác bắt thì không được coi là bắt người trong trường hợp phạm tội quả
tang. Với tính chất kịp thời và liên tục về thời gian cho nên việc quy định được
phép bắt vào ban đêm là một quy định hợp lý đảm bảo cho việc ngăn chặn hành
vi phạm tội hiệu quả nhất. Đây chính là đặc điểm đặc biệt so với các biện pháp
bắt người khác mà pháp luật TTHS quy định.
Thứ tư, việc áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang không cần lệnh
bắt của cá nhân hoặc cơ quan tổ chức nào. Tuy nhiên, việc áp dụng phải dựa trên
những căn cứ chung được quy định cụ thể về trình tự về thẩm quyền, thủ tục bắt,
thời gian bắt và những việc làm ngay sau khi bắt và phù hợp với giai đoạn cụ thể
trong tố tụng.
Nhằm hoàn thiện những khái niệm nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm cụ
thể về biện pháp bắt người phạm tội quả tang:
Bắt người phạm tội quả tang là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
đối với những người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc ngay sau khi thực
hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Để kịp thời ngăn chặn
tội phạm và bảo đảm cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử bất kỳ ai cũng có
quyền bắt giữ người phạm tội quả tang. Việc bắt quả tang phải đảm bảo đúng
quy định về trình tự, thủ tục do luật TTHS quy định.
* Việc quy định biện pháp bắt người phạm tội quả tang trong luật TTHS có ý
nghĩa:
- Phát hiện, bắt giữ và xử lý nhanh chóng, kịp thời những trường hợp bắt
người phạm tội quả tang.
- Bảo đảm cho các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận
lợi; góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm;
- Thể hiện chính sách xã hội hóa toàn dân trong công tác đấu tranh và phòng
13
chống tội phạm, đặc biệt là vai trò của quần chúng trong công tác bắt người
phạm tội quả tang.
- Đối với những trường hợp bắt người phạm tội quả tang khi người phạm
tội ít nghiêm trọng, có lí lịch rõ ràng, chứng cứ rõ ràng thì sẽ áp dụng thủ tục xét
xử rút gọn, tạo điều kiện cho việc giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự.
* BPNC bắt người đang phạm tội quả tang là một BPNC trong TTHS do luật
hình sự và luật TTHS điều chỉnh. Bởi vậy, khi áp dụng BPNC bắt người phạm
tội quả tang cũng cần đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS, trong việc áp dụng các bước
bắt người phạm tội quả tang. Đây là nguyên tắc bao trùm được thể hiện trong tất
cả các giai đoạn của TTHS, từ những quy định chung cho đến những quy định cụ
thể. Nguyên tắc này được biểu hiện cụ thể trong quá trình áp dụng biện pháp bắt
người phạm tội quả tang:
Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia TTHS phải nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của bộ
luật TTHS về trường hợp bắt người phạm tội quả tang;
Tất cả các biện pháp được áp dụng, thời gian, trình tự, thủ tục bắt, các biên
bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản bàn giao người phạm tội quả tang, văn
bản thông báo, quyết định áp dụng các BPNC khác… của cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án phải dựa trên cơ sở của luật hình sự và luật TTHS;
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cũng như biện pháp nghiệp vụ trong đấu
tranh bắt giữ tội phạm nhất thiết phải theo đúng quy định của luật pháp, đảm bảo
cưỡng chế chỉ áp dụng đối với kẻ phạm tội, nghiêm cấm xử phạt người vô tội.
Hai là, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân: Không ai
bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện
kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Do việc bắt người trong trường hợp
phạm tội quả tang không cần có quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát, cho nên trong quá trình áp dụng cần phải đảm bảo
nghiêm túc và chính xác, tránh việc lạm dụng dẫn đến xâm phạm trái pháp luật
14
- Xem thêm -