Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Biện pháp nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12, ...

Tài liệu Biện pháp nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12, tp. hồ chí minh

.PDF
81
180
80

Mô tả:

CHƢƠNG 1 : TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Chương này giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu bằng cách vẽ một bức tranh tổng thể về những nội dung sẽ trình bày: (1) Lý do tác giả chọn đề tài tuân thủ thuế của doanh nghiệp tại Chi cục thuế quận 12 làm đề tài nghiên cứu; (2) Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu của đề tài; (3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài; (4) Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu của mình; (5) Những đóng góp của đề tài; (6) Kết cấu của đề tài. 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, kết quả số thu ngân sách hàng năm tại các cơ quan thuế từ Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho đến các Chi cục Thuế quận, huyện là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan thuế. Nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên trên thực tế, một số người nộp thuế vẫn có quan niệm xem việc nộp số tiền thuế vào ngân sách Nhà nước là sự mất đi một số tiền nhất định, thực hiện việc nộp thuế chỉ là nghĩa vụ không thể tránh né được nếu có cơ hội không nộp thuế hoặc giảm bớt được số tiền thuế phải nộp mà không bị xử lý thì họ có thể sẽ không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Cục Thuế TP.HCM nói chung và Chi Cục Thuế quận 12 nói riêng phải đối mặt với một trong những thách thức lớn trong công tác quản lý thuế là làm thế nào để hạn chế thất thoát nguồn thu thuế và nhờ đó nâng cao mức độ tuân thủ thuế. Mức tuân thủ thấp ảnh hưởng nhất định đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chi cục thuế quận 12 đang thực hiện cơ chế quản lý thuế mới, người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế với chủ trương tăng cường tính chủ động, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật trong thực hiện nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp được chủ động và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của mình theo quy định của pháp luật. Mục đích của cơ chế này nhằm để doanh nghiệp tự kê khai, tự tính toán số thuế phải nộp, tự nộp thuế cho ngân sách nhà nước theo đúng thời hạn luật quy định và tự chịu trách nhiệm về việc kê khai, nộp thuế của 1 mình; cơ quan quản lý thuế không can thiệp trực tiếp vào việc kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp trừ trường hợp phát hiện ra các sai sót, vi phạm hoặc có dấu hiệu không tuân thủ thuế. Tuy nhiên, trong trường hợp động cơ tuân thủ của doanh nghiệp kém cùng với năng lực quản lý của cơ quan thuế cũng yếu kém, không thể phát hiện các hành vi gian lận thuế của doanh nghiệp, cơ chế tự khai tự nộp sẽ không phát huy được hiệu quả. Chính vì vậy, nền tảng của quản lý thuế hiện đại là hướng đến và phát huy cao nhất tính tự giác tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra hàng đầu trong công tác quản lý thuế hiện nay tại Chi Cục thuế quận 12 là làm thế nào để người nộp thuế tự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình đúng theo pháp luật quy định, có như vậy công tác quản lý thuế mới mang lại hiệu quả. Xuất phát từ vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12, TP. Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sỹ kinh tế. 1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI: Mục tiêu của đề tài: Mục tiêu tổng quát của đề tài là xác định và lượng hóa các yếu tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12. Cụ thể: - Xác định các yếu tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12. - Điều chỉnh thang đo các yếu tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12. Câu hỏi nghiên cứu: 2 Một là, yếu tố nào liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12? Hai là, thang đo nào được sử dụng để đo lường các yếu tố tác động liên quan đến hành vi tuân thủ thuế? Ba là, giải pháp nào là cần thiết để nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12? 1.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hành vi tuân thủ thuế của các doanh nghiệp. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu của đề tài được thực hiện trong phạm vi sau đây: - Về không gian: Các doanh nghiệp trên địa bàn quận 12, TP.Hồ Chí Minh. - Về thời gian: Nghiên cứu định tính: Thực hiện thảo luận nhóm cùng đại diện các doanh nghiệp kê khai thuế trên địa bàn quận 12 trong tháng 12/2015. Nghiên cứu định lượng: Thực hiện khảo sát doanh nghiệp kê khai thuế trên địa bàn quận 12 trong tháng 2/2016. 1.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Quy trình nghiên cứu: Quy trình nghiên cứu của tác giả sẽ được thực hiện qua 2 giai đoạn bao gồm nghiên cứu định tính và định lượng. Dữ liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS for Window 20.0. Trong bước thứ nhất, tác giả tập hợp cơ sở lý luận (bao gồm hai nội dung nghiên cứu cơ bản): (i) Tập hợp cơ sở lý luận về hành vi tuân thủ thuế của các doanh nghiệp; (ii) Thực hiện tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm để thiết kế dàn bài thảo luận nhóm với doanh nghiệp kê khai thuế phục vụ cho nghiên cứu 3 định tính nhằm xác định các yếu tố liên quan đến việc tuân thủ thuế của các doanh nghiệp kê khai thuế trên địa bàn quận 12. Trong bước thứ hai, tác giả tiến hành kiểm định thang đo và các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu trên cỡ mẫu khảo sát là 300 mẫu theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện. Dữ liệu thu thập được sử dụng để đánh giá thang đo bằng công cụ phân tích độ tin cậy, phân tích nhân tố khám phá EFA và hồi quy tuyến tính OLS để đo lường các nhân tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12. Mẫu nghiên cứu: Giai đoạn nghiên cứu định tính: Tác giả thực hiện nghiên cứu định tính thông qua thảo luận nhóm với 10 người là kế toán trưởng của các doanh nghiệp kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận 12. Giai đoạn nghiên cứu định lượng: Tác giả sẽ thực hiện khảo sát trên cỡ mẫu là 300 mẫu. Đối tượng khảo sát: Doanh nghiệp kê khai thuế trên địa bàn quận 12 theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện. Kỹ thuật xử lý dữ liệu: Dữ liệu sau khi thu thập từ doanh nghiệp kê khai thuế trên địa bàn quận 12, các bảng câu hỏi sẽ được xem xét và loại đi những bảng không đạt yêu cầu. Sau đó dữ liệu sẽ được mã hóa và làm sạch bằng phần mềm SPSS for Windows 20.0. Kế tiếp, dữ liệu thu thập được sử dụng để đánh giá thang đo bằng công cụ phân tích độ tin cậy (Reliability Analysis) thông qua hệ số Cronbach Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratary Factor Analysis), và hồi quy tuyến tính để kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu. 1.5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI 4 - Đề tài xác định được các yếu tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn quận 12, TP.HCM; - Đề tài giúp nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp kê khai thuế trên địa bàn quận 12, TP.HCM; - Đề tài là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên và các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực thuế. 1.6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI: Đề tài được kết cấu thành 05 chương Chƣơng 1: Tổng quan đề tài nghiên cứu Tác giả sẽ trình bày lý do chọn đề tài; mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài; phương pháp nghiên cứu của đề tài; đóng góp của đề tài và kết cấu của đề tài. Chƣơng 2: Cơ sở lý luận về tuân thủ thuế Tác giả trình bày cơ sở luận về hành vi tuân thủ thuế bao gồm: Mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, đề xuất mô hình và các giả thuyết nghiên cứu của mình. Chƣơng 3: Phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả sẽ trình bày về phương pháp nghiên cứu được sử dụng để đo lường các yếu tố liên quan đến việc tuân thủ thuế của các doanh nghiệp tại Chi Cục Thuế quận 12. Chƣơng 4: Kết quả nghiên cứu Tác giả sẽ trình bày về thực trạng hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp tại Chi cục Thuế Quận 12; kết quả khảo sát các hành vi tuân thủ thuế của các doanh nghiệp. Chƣơng 5: Kết luận và biện pháp nhằm cải thiện việc tuân thủ thuế của các doanh nghiệp tại Chi Cục Thuế quận 12, TP. Hồ Chí Minh. 5 Tác giả trình bày gợi ý một số biện pháp nhằm nâng cao hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp; hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo. 6 CHƢƠNG 2 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUÂN THỦ THUẾ 2.1. LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI TUÂN THỦ THUẾ 2.1.1. Định nghĩa tuân thủ thuế Tuân thủ thuế được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Andreoni & Ctg (1998) nhấn mạnh tuân thủ thuế nên được định nghĩa là sự sẵn lòng của người nộp thuế tuân theo pháp luật về thuế để đạt được trạng thái cân bằng kinh tế của một đất nước. Trong khi đó Jackson & Milliron (1986), Alm (1991) lại cho rằng tuân thủ thuế là báo cáo tất cả thu nhập, thanh toán toàn bộ nghĩa vụ thuế bằng cách thực hiện các điều khoản quy định của luật, pháp lệnh, hoặc phán quyết của tòa án. Theo James & Alley (1999), “tuân thủ thuế theo cách hiểu đơn giản nhất là mức độ người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ thuế được quy định trong luật thuế” [23]. Kirchler (2007) đưa ra một định nghĩa đơn giản hơn, tuân thủ thuế là một thuật ngữ trung lập nhất miêu tả việc người nộp thuế sẵn sàng nộp tiền thuế Theo góc độ rộng về tuân thủ thuế, Song & Yarbrough (1978) cho rằng do khía cạnh hoạt động đáng chú ý của hệ thống thuế Hoa Kỳ là người nộp tự xác định nghĩa vụ thuế của mính và tự nguyện tuân thủ thuế, điều này có thể hiểu là khả năng người nộp thuế và sự sẵn lòng tuân thủ luật thuế được xác định bởi vấn đề đạo đức, môi trường pháp lý, và các yếu tố tình huống khác tại từng thời gian và địa điểm cụ thể. Với quan điểm một số cơ quan thuế cũng xem tuân thủ thuế là khả năng và sự sẵn lòng của đối tượng nộp thuế thực hiện theo quy định của pháp luật thuế; kê khai thu nhập chính xác mỗi năm và thanh toán đủ số tiền thuế đúng thời gian quy định [41]. Ở góc độ chi tiết hơn, Singh và cộng sự (2003) cho rằng tuân thủ thuế là hành động của một người nộp tờ khai thuế, công khai chính xác tất cả các khoản thu nhập chịu thuế và thanh toán tất cả các khoản thuế phải nộp trong thời hạn quy định mà không phải chờ đợi hành động của cơ quan thuế. Trên cơ sở đó, 7 tuân thủ thuế được tách biệt thành 2 quan điểm: tuân thủ quan điểm về quản lý hành chính và tuân thủ theo quan điểm hoàn thành chính xác tờ khai thuế. Tuân thủ theo quan điểm quản lý hành chính bao gồm đăng ký và thông báo với cơ quan thuế tình trạng của người nộp thuế, nộp tờ khai thuế mỗi năm (nếu cần) và tuân thủ khuôn khổ về thời gian thanh toán theo yêu cầu [9]. Nghĩa là, tuân thủ thuế đòi hỏi người nộp thuế phải đạt được một mức độ trung thực nhất định, có kiến thức thuế đầy đủ và khả năng sử dụng kiến thức này để hoàn thành tờ khai thuế và các hồ sơ có liên quan kịp thời, chính xác và đầy đủ [30]. Cùng quan điểm với Singh & Ctg (2003) cho rằng tuân thủ thuế trở thành một vấn đề chủ yếu trong hệ thống tự khai thuế bởi vì tổng số tiền thuế phải nộp phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tuân thủ của người nộp thuế mặc dù không thể tránh khỏi việc cơ quan thuế sẽ tìm kiếm thông tin từ những người nộp thuế khác trong khu vực để giảm thiểu rủi ro xảy ra các trường hợp không tuân thủ, hoặc họ sẽ thường xuyên thực hiện việc kiểm tra nhiều loại thuế khác nhau, và bằng những hình thức khác chẳng hạn giáo dục kiến thức thuế nhằm tạo ra những tác động nhất định đến việc tuân thủ thuế của người nộp thuế [41]. Một số tác giả khác đã xem xét tuân thủ thuế từ một góc độ khác. Allingham & Sandmo (1972) mô tả tuân thủ thuế là một vấn đề “báo cáo thu nhập thực tế” và cũng tuyên bố rằng hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế bị ảnh hưởng bởi một số tình huống mà trong đó có thể người nộp thuế đưa ra quyết định trong tình trạng không chắc chắn [10]. Tức là người nộp thuế có thể sẽ được hưởng một khoản tiền thuế tiết kiệm được do khai báo thấp thu nhập tính thuế hoặc đối với các khoản thu nhập không khai báo, họ sẽ bị phạt với một tỷ lệ cao hơn so với khoản thu nhập được kê khai đầy đủ và chính xác về thời gian. McBarnet (2001) đề nghị tuân thủ thuế nên được nhìn nhận trong 3 cách, cụ thể là: cam kết tuân thủ_sẵn sàng nộp thuế mà không khiếu nại; tuân thủ có điều kiện miễn cưỡng nộp tờ khai và nộp thuế; tuân thủ có sáng tạo để giảm thiểu nghĩa vụ thuế bằng cách tận dụng khả năng để xác định lại thu nhập và khấu trừ các khoản chi phí theo quy định của luật thuế. Spice & Lundstedt 8 (1976) nhận thức mức độ tuân thủ thuế là một hình thức đặc biệt của sự may rủi (trong đó có liên quan đến khả năng phát hiện và xử phạt), đòi hỏi cơ quan thuế phải hiểu được các yếu tố tác động đến quyết định tuân thủ thuế của người nộp thuế [42]. Tuân thủ thuế không phải là một quá trình tự thân mà trái lại, nó chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài. Allingham & Sandmo (1972), Spicer & Lundstedt (1976), Lewis (1982) và Andreoni & Ctg (1998) mô tả các đặc điểm và giải thích tuân thủ thuế là kết quả của tương quan giữa các biến bao gồm nhận thức về sự công bằng, hiệu quả và sự tương tác giữa chúng. Các khía cạnh khác thi hành thuế chẳng hạn như hình phạt và khả năng phát hiện cũng ảnh hưởng đến tuân thủ thuế trong khi các yếu tố khác về hành vi của thị trường lao động như tiền lương của một cá nhân và biểu thuế cũng góp phần vào tuân thủ thuế [35]. Hệ thống thuế hiệu quả cũng ít công bằng hơn khi xảy ra trường hợp những người giàu trốn tránh một phần thuế lớn hơn so với người nghèo [1]. Bất kỳ nỗ lực không tuân thủ thuế nào đều ảnh hưởng đến hiệu quả thuế và chi phí tuân thủ. Các khoản thu nhập không được báo cáo sẽ bóp méo số thu thuế [1]. Tóm lại, tuân thủ thuế là một khái niệm rộng và có thể được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm tài chính công, kinh tế học, pháp lý và cũng có thể là tâm lý học và được tóm tắt trong bảng 2.1. Bảng 2.1. Mô tả các cách tiếp cận khác nhau về tuân thủ thuế Tuân thủ thuế Cách tiếp cận kinh tế Cách tiếp cận hành vi Góc độ tiếp cận Tuân thủ 100% quy định Tự nguyện, sẵn sàng hành về thuế so với thực tế, động theo tinh thần và từng xét trên góc độ hẹp. quy định của luật thuế, xét trên góc độ rộng hơn. Quyết định tuân thủ Dựa trên sự hợp lý về lợi Dựa trên hành vi hợp tác ích kinh tế. giữa người nộp thuế và cơ quan thuế. Mức độ chi tiết Cân nhắc lựa chọn: 9 Mỗi cá nhân không chỉ đơn (1) Lợi ích mong đợi từ thuần là một cá thể độc lập việc trốn thuế. chỉ biết tối đa hoá lợi ích cá (2) Rủi ro bị phát hiện và nhân. Họ tương tác theo thái độ, niềm tin, tiêu chuẩn mức bị phạt. và vai trò khác nhau. Thành (3) Tối đa hóa thu nhập công dựa trên sự hợp tác. và của cải cá nhân. Tuân thủ thuế Hiệu quả trong việc phân Hợp lý, công bằng và phạm phối nguồn lực. vi tác động tích cực. Hình ảnh người nộp thuế Ích kỷ tính toán lợi ích “Công dân tốt”. và thiệt hại bằng tiền. (Nguồn: [23]) Trong phạm vi đề tài này, tập trung chủ yếu là để khai thác thêm về cách tiếp cận thứ hai với khía cạnh hành vi được nhấn mạnh hơn so với cách tiếp cận hợp lý về kinh tế. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã nỗ lực để định nghĩa tuân thủ thuế, dựa trên mục đích của nghiên cứu này phù hợp với định nghĩa của IRS (2009), ATO (2009), IRB (2009), ALM (1991), Jackson & Milliron (1986), Kirchler (2007). Khái niệm tuân thủ thuế được đo lường qua việc đánh giá sự sẵn lòng của người nộp thuế để tuân theo luật thuế, khai báo chính xác thu nhập, xác nhận chính xác các khoản khấu trừ, giảm thuế và thanh toán các khoản thuế đúng hạn. 2.1.2. Các nhân tố liên quan đến hành vi tuân thủ thuế Các nhân tố tác động đến hành vi tuân thủ thuế là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Hầu hết các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến tuân thủ thuế đều tiếp cận vấn đề theo hai cách tiếp cận cơ bản. Một là phân tích quyết định tuân thủ dựa trên việc phân tích kinh tế, so sánh lợi ích và chi phí của việc tuân thủ và không tuân thủ, những giá trị có thể nhận được khi tuân thủ hoàn toàn (chẳng hạn như các phần thưởng mang tính chất khích lệ). Cách tiếp cận còn lại nghiên cứu các nhân tố tác động đến quyết định tuân thủ liên quan đến cách cư xử của người nộp thuế hoặc cơ quan thuế. Cách tiếp cận này thiên về khoa học 10 hành vi hơn là khoa học kinh tế. Và hầu hết những nghiên cứu mới nhất liên quan đến vấn đề tuân thủ thuế đều thực hiện theo cách tiếp cận thứ hai [38], [27]. 2.1.2.1. Các nhân tố liên quan đến chính sách thuế Vấn đề thuế suất Tác động của thuế suất đến hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế đã được xác nhận trong nhiều nghiên cứu. Tuy nhiên, mức độ và hướng tác động lại không hoàn toàn giống nhau ở các nghiên cứu. Bằng chứng thực nghiệm cho thấy việc áp dụng thuế suất lũy tiến so với thuế suất cố định là biến cấu trúc có liên quan đáng kể đến hành vi tuân thủ thuế [10]. Clotfelter (1983) cũng cho rằng việc “cắt giảm thuế suất không phải là chính sách duy nhất có khả năng hạn chế trốn thuế”, nhưng thuế suất là nhân tố quan trọng trong việc xác định hành vi tuân thủ thuế mặc dù tác động chính xác vẫn chưa rõ ràng và còn gây tranh cãi. Clotfelter (1983) khẳng định giữa thuế suất và trốn thuế tồn tại một mối quan hệ đáng kể bởi vì thuế suất được sử dụng như một công cụ có thể được thao tác cho những mục tiêu chính sách nhất định. Vấn đề không chắc chắn và mâu thuẫn này đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu tìm kiếm nhiều bằng chứng cụ thể và chắc chắn hơn về tác động của thuế suất đến việc tuân thủ thuế. Một nghiên cứu được thực hiện bởi Tanzi (1980) sử dụng mô hình kinh tế lượng để giải thích mối quan hệ giữa các mức thuế suất với việc trốn thuế. Bằng số liệu tổng hợp từ Hoa Kỳ, ông ta đã kết luận rằng tồn tại mối tương quan dương giữa thuế suất và việc trốn thuế. Khi mức thuế suất biên cao, lợi ích đạt được từ kê khai thấp thu nhập và kê khai cao các khoản khấu trừ càng lớn, và vì vậy số tiền trốn thuế càng lớn. Trong phạm vi một quốc gia, người ta cho rằng những người nộp thuế với thuế suất biên cao hơn sẽ gian lận nhiều hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu ngược lại với những giả định này lại cho thấy một xu hướng khác. Người ta cũng có thể cho rằng những người nộp thuế có thu nhập thấp hơn sẽ gian lận nhiều hơn, vì mỗi đô – la tiền thuế sẽ có độ thỏa dụng cao hơn đối với họ. 11 Trong khi hầu hết nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng thuế suất tăng sẽ dẫn đến trốn thuế [4], [22]. Allingham & Sandmo (1972) cho rằng thuế suất không có ý nghĩa đáng kể đối với việc trốn thuế. Họ đã tìm hiểu mối quan hệ giữa thu nhập thực tế, thuế suất, hình phạt và điều tra trốn thuế bằng cách sử dụng mô hình thống kê và kết luận rằng người nộp thuế có thể chọn một trong hai cách báo cáo đầy đủ thu nhập hoặc báo cáo thu nhập thấp hơn số thực tế phát sinh, bất kể thuế suất. Cùng quan điểm này, Porcano (1988) cho rằng thuế suất không tác động đến việc tuân thủ thuế của người nộp thuế. Bởi vì tác động của thuế suất đến việc tuân thủ thuế vẫn là vấn đề gây tranh cãi (tác động tích cực hay tiêu cực, hay không tác động), Kirchler & Ctg (2008); McKerchar & Evans (2009) cho rằng mức độ tin tưởng giữa người nộp thuế vào chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc chứng thực tác động của thuế suất đến hành vi tuân thủ. Khi niềm tin thấp, một mức thuế suất cao có thể được xem là không công bằng và khi niềm tin cao, mức thuế suất cao như vậy có thể được xem như một khoản đóng góp cho cộng đồng [25]. Thay đổi chính sách hiện hành của chính phủ Thực tế không có quá nhiều nghiên cứu đi sâu vào mối quan hệ trực tiếp giữa thay đổi chính sách của chính phủ hiện hành và việc tuân thủ hay không tuân thủ thuế của người nộp thuế. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến cho rằng sự ổn định về chính trị và đảng cầm quyền hiện tại ở một quốc gia nào đó có thể đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hành vi trốn thuế [17]. Lập luận cho rằng nếu một cá nhân đang ủng hộ đảng cầm quyền hiện tại, anh ta có thể tuân thủ thuế vì khi đó, cá nhân này tin rằng chính phủ đáng tin cậy, hiệu quả và công bằng. Ngược lại, người nộp thuế ở phe đối lập có thể ít tuân thủ hơn bởi vì anh ta cho rằng chính phủ này không vì quyền lợi của anh ta. Tuy nhiên, những trường hợp này chỉ xảy ra ở các quốc gia tồn tại chế độ đa đảng. Hasseldine & Hite (2003) cũng nhận thấy tuổi tác, thu nhập và tình trạng hoàn thuế dự kiến trong tương lai cũng bị tác động đáng kể bởi đảng phái chính trị. Phân tích hồi quy về thái độ 12 tổng thể đối với hệ thống thuế thu nhập hiện hành và thái độ đối với việc giảm thuế đã hỗ trợ cho những kết quả nghiên cứu trước đó. Các biến độc lập như đảng phái chính trị, khung hiệu lực, tình trạng hoàn thuế dự kiến, độ tuổi, mức thu nhập một lần nữa tác động hồi qui đến việc trốn thuế; và các đảng phái chính trị có tác động đáng kể đến thái độ về việc cắt giảm thuế. Hasseldine &Hite (2003) kết luận: thứ nhất, đảng chính trị có tác động đáng kể đến hành vi người nộp thuế; thứ hai, các quy định về thuế càng chặt chẽ với đảng chính trị cụ thể nào thì càng thuận lợi hơn cho các thành viên của đảng đó; thứ ba, những thay đổi về chính sách trong một số trường hợp nhất định (chẳng hạn giảm thuế) được người nộp thuế đánh giá tích cực (tạo được niềm tin cho người nộp thuế và gia tăng tuân thủ tự nguyện) và khi đó họ nhận thấy hệ thống thuế cũng công bằng hơn. Ngoài ra, những động thái tích cực từ phía chính phủ, chẳng hạn gia tăng miễn giảm thuế dường như cũng mang lại kết quả tích cực trong việc gia tăng tính tuân thủ. Bên cạnh những vấn đề về chính trị, những thay đổi trong chính sách hiện tại của chính phủ cũng tác động nhất định đến hành vi tuân thủ thuế. Chẳng hạn, ở Malaysia, giá xăng dầu và một số mặt hàng thiết yếu khác như đường, bột mì, gạo và dầu ăn được kiểm soát bởi chính phủ; giá cả thường xuyên tăng theo tình hình kinh tế toàn cầu và tài chính của chính phủ. Vì vậy, khi giá cả những mặt hàng này tăng sẽ tác động tiêu cực đến khả năng mua sắm của người nộp thuế và cuối cùng khuyến khích họ trốn thuế. Kim (2008) nghiên cứu về hành vi trốn thuế ở 50 quốc gia mỗi năm đã minh họa cho quan điểm này và kết luận rằng hành vi trốn thuế bị tác động bởi việc kiểm soát giá, dịch vụ công, thuế thu nhập công ty, GDP bình quân đầu người, hệ thống thuế và cơ cấu chi tiêu chính phủ (tác động theo chiều dương). Tóm lại, những nghiên cứu trước đã chứng minh rằng quyết định của chính phủ và những thay đổi về chính sách trong từng tình huống kinh tế, chính trị nhất định có tác động đến việc tuân thủ thuế. Những động thái tích cực của chính phủ, chẳng hạn chính sách miễn giảm thuế, dường như sẽ mang lại hiệu ứng tích cực trong việc gia tăng tính tuân thủ tự nguyện 13 của người nộp thuế. Tuy nhiên, do đặc điểm của Việt Nam không cho phép tồn tại đa nguyên đa đảng nên đề tài không nghiên cứu đến tác động của yếu tố này đến tuân thủ thuế. 2.1.2.2. Các nhân tố liên quan đến quản lý thuế Tính đơn giản của việc kê khai thuế Theo thời gian, hệ thống thuế ở nhiều quốc gia đã phát triển ngày càng trở nên phức tạp. Khi đó, tính phức tạp được nhận thấy như là một nguyên nhân có thể dẫn đến không tuân thủ [22]. Trong bối cảnh của việc tuân thủ thuế, tính phức tạp bao gồm 2 khía cạnh: quá nhiều chi tiết trong luật thuế hoặc yêu cầu tính toán quá nhiều. Người nộp thuế nên có thể tự hiểu những quy tắc tính thuế để xác định chính xác tiền thuế phải nộp. Những quy tắc này cần hướng đến tính đơn giản, dễ hiểu và rõ ràng nhằm tăng cường tuân thủ thuế. Clotfelter (1983) phát hiện tính phức tạp của hệ thống thuế có liên quan đến việc không khai báo thuế. Milliron (1985), Richarson (2006) cũng phát hiện mối quan hệ giữa tính phức tạp của hệ thống thuế với quyết định tuân thủ thuế hoặc trốn thuế. Tổ chức OECD (2001) cho rằng pháp luật thuế ở nhiều nước còn chưa chính xác và chưa rõ ràng, và đây chính là mãnh đất màu mỡ cho các công ty tích cực lợi dụng để trốn hoặc tránh thuế. Điều này đặc biệt đúng ở các nước đang phát triển với công tác quản lý và trách nhiệm giải trình yếu kém, thiếu văn hóa thuế, và chế độ thuế rất phức tạp. Ở nhiều quốc gia phát triển, tính phức tạp đã trở thành một nhân tố quan trọng của hành vi tuân thủ thuế. Khi áp dụng cơ chế tự khai tự nộp, đòi hỏi tối thiểu đặt ra là tờ khai thuế phải đơn giản bởi vì người nộp thuế đến từ nhiều thành phần khác nhau, trình độ giáo dục khác nhau, thu nhập và quan trọng nhất là mức độ am hiểu kiến thức thuế là khác nhau. Để hỗ trợ người nộp thuế hoàn thành chính xác tờ khai thuế, cơ quan thuế nên tiến đến việc xây dựng tờ khai thuế đơn giản nhưng đầy đủ. Thông tin yêu cầu trong tờ khai phải ở mức độ nhỏ nhất và có thể có sẵn từ sổ sách cá nhân hoặc sổ sách sản xuất kinh doanh của cá 14 nhân. Đan Mạch, Canada và New Zealand là những quốc gia đi đầu trong việc đưa ra tờ khai thuế đơn giản bằng cách giảm số trang cho đơn giản và gia tăng tính tuân thủ tự nguyện giữa những người nộp thuế [29]. Chẳng hạn, ở Anh, HMRC đã nhiều năm liền nỗ lực đưa ra những tờ khai thuế đơn giản giúp người nộp thuế hiểu tốt hơn. Silvani & Baer (1997) thảo luận về tầm quan trọng của cơ quan thuế khi ban hành tờ khai thuế đơn giản và hệ thống thuế đơn giản từ quan điểm của người nộp thuế. Mặc dù từ “ đơn giản” chứa đựng nhiều nghĩa giải thích khác nhau, ít nhất người nộp thuế phần lớn yêu cầu tờ khai thuế càng đơn giản có thể càng tốt. Cơ quan thuế cho rằng tờ khai thuế là đơn giản và dễ dàng hoàn thành nhưng chưa hẳn người nộp thuế đồng tình. Vì vậy,tốt nhất, trước khi phiên bản cuối cùng được cung cấp cho người nộp thuế, cơ quan thuế cần thử nghiệm để đảm bảo rằng tờ khai thuế thật sự đơn giản và dễ thực hiện đối với người nộp thuế. Ngoài ra, Silvani & Baer (1997) cũng cho rằng tờ khai thuế đơn giản sẽ khuyến khích người nộp thuế tự hoàn thành tờ khai thay vì sử dụng các đại lý thuế, nhờ đó tiết kiệm chi phí tuân thủ. Nếu cơ quan thuế phát hiện nhiều lỗi sai trên tờ khai thuế, và những lỗi này lặp lại trong nhiều năm ở những người nộp thuế khác nhau, điều đó có nghĩa là cách diễn đạt và câu văn trong tờ khai ít nhiều mang một phần lỗi nào đó. Tương tự, Slemrod (1989) tin rằng tờ khai thuế đơn giản và các quy định về thuế đơn giản sẽ tăng tính tuân thủ, đặc biệt đối với hệ thống tự khai tự nộp bởi vì khi đó, người nộp thuế không phải mất nhiều thời gian trong việc chứng thực tính chính xác của thu nhập tính thuế theo quy định. Vấn đề đặt ra là bởi vì quy định về thuế và pháp luật ở hầu hết các quốc gia được sửa đổi, bổ sung hàng năm, người nộp thuế có thể dễ mắc sai sót trong quá trình xác định nghĩa vụ thuế. Vì vậy, một lần nữa, việc đơn giản hóa quản lý thuế có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việv quản lý và tăng cường hiệu quả quản lý cũng như cắt giảm chi phí [29]. Chính vì vậy, không tuân thủ thuế dưới hình thức kê khai thuế không chính xác đôi khi không hoàn toàn là hành vi trốn thuế của người nộp thuế mà có thể là những sai lầm từ phía cơ quan thuế và sự yếu kém trong việc phát triển 15 và thiết kế hệ thống. Richardson (2008) trong nghiên cứu của ông mở rộng nghiên cứu của Riahi-Belkaoui(2004); Jackson & Milliron (1986), phát hiện ra rằng trong mười bảy biến thử nghiệm trên 45 quốc gia, (bao gồm cả tuổi tác, giới tính, giáo dục, văn hóa, công bằng và tôn giáo), tính phức tạp được tìm thấy là yếu tố quan trọng tác động nhiều nhất đến trốn thuế, vì vậy ông ta kết luận rằng một hệ thống thuế càng đơn giản càng hạn chế trốn thuế. Hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế Hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế được hiểu ở góc độ cơ quan thuế có hoàn thành tốt vai trò của mình trong việc quản lý thuế cũng như hỗ trợ người nộp thuế. Đối với tuân thủ thuế,về mặt lý thuyết vẫn còn tồn tại những tranh luận xung quanh vấn đề làm cách nào đánh giá tác động hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế lên hành vi tuân thủ của người nộp thuế. Vai trò của cơ quan thuế trong việc giảm thiểu khoản cách thuế _tax gap và gia tăng tính tuân thủ tự nguyện rõ ràng rất quan trọng. Hasseldine & Li (1999) minh họa rằng để tối thiểu việc trốn thuế, cần đặt chính phủ và cơ quan thuế vào vị trí chính yếu phải quản lý hệ thống thuế một cách hiệu quả liên tục. Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc thiết kế hệ thống thuế, thực thi cụ thể và quản lý cơ chế thu [17]. Một nghiên cứu gần đây của Richardson (2008) cũng đề nghị rằng vai trò của chính phủ có tác động đáng kể đến việc quyết định thái độ của người nộp thuế đối với tuân thủ thuế. Nghiên cứu của ông nỗ lực điều tra các yếu tố của hành vi trốn thuế ở 47 quốc gia trong đó có Mỹ, Anh, Achentina, Thái Lan, Canada, Chile và Brazil. Richardson đề nghị chính phủ nên tăng cường danh tiếng và tăng uy tín của họ để có thể đạt được niềm tin từ người nộp thuế [36]. Công tác kiểm tra thuế Các nhân tố về kinh tế trong mối quan hệ với tuân thủ thuế đề cập đến những hành động của người nộp thuế có liên quan đến việc cân nhắc chi phí và lợi ích của việc biểu hiện hành động đó [26]. Hasseldine (1993), Song & 16 Yarbrough (1978) và Torgler & Schneider (2005) cho rằng người nộp thuế nỗ lực tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế của họ bằng cách hướng đến việc khai báo thấp thu nhập tính thuế và hưởng lợi từ phần tiết kiệm thuế tương ứng khi cơ quan thuế không phát hiện hành vi của họ. Mặt khác, họ sẽ sẵn lòng thanh toán nhiều hơn, kể cả khoản tiền phạt nếu họ bị phát hiện [41]. Các nhân tố về kinh tế liên quan đến tuân thủ thuế bao gồm: thuế suất, kiểm tra thuế, và nhận thức về chi tiêu chính phủ. Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên và liên tục của bất kỳ cơ quan thuế nào. Tác động của kiểm tra thuế đến hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế có thể xem xét ở các góc độ: tỷ lệ kiểm tra, năng lực cán bộ kiểm tra và vòng lập kiểm tra. Witte & Woodbury (1985) phát hiện mối quan hệ dương đáng kể giữa rủi ro kiểm tra thuế và tỷ lệ tuân thủ tự nguyện. Một số nghiên cứu của tác giả Jackson & Jaouen (1989), Shanmugam (2003), Dubin (2004) cho rằng kiểm tra thuế có tác động tích cực đến hành vi trốn thuế nghĩa là người nộp thuế đã từng bị kiểm tra thuế bởi các cơ quan thuế thường sẽ tuân thủ thuế tốt hơn. Những phát hiện này đề nghị rằng trong hệ thống tự khai tự nộp, kiểm tra thuế đóng vai trò quan trọng và vai trò trung tâm của nó là gia tăng tính tuân thủ tự nguyện. Kiểm tra thuế cũng có thể làm thay đổi hành vi tuân thủ thuế từ tiêu cực sang tích cực [8]. Những phát hiện này bổ sung cho nghiên cứu của Wittle & Woodbury (1985) và Beron & Ctg (1988), họ phát hiện rằng đối với những người sản xuất nhỏ, kiểm tra thuế có tác động đáng kể đến việc tuân thủ thuế. Tỷ lệ kiểm tra và tính triệt để của cuộc kiểm tra sẽ khuyến khích người nộp thuế thận trọng hơn trong việc hoàn thành tờ khai thuế, báo cáo toàn bộ thu nhập, khai báo đúng các khoản giảm trừ để xác định nghĩa vụ thuế của họ. Ngược lại, người nộp thuế chưa từng bị kiểm tra thuế có thể lại tiếp tục khai báo thấp thu nhập thực tế hoặc kê khai sai các khoản khấu trừ. Một nghiên cứu khác của Dubin & Ctg (1987) ước lượng các yếu tố liên quan đến việc khai báo thu nhập dưới dạng hàm tỷ lệ kiểm tra thuế cho giai đoạn 19771985 phát hiện rằng tỷ lệ kiểm tra thuế cao thường tác động tích cực đến việc báo cáo thu nhập chịu thuế nhưng trong một số trường hợp, tác động này có thể 17 thay đổi tùy vào loại kiểm tra thuế và đôi khi không phải lúc nào cũng có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc kiểm tra thuế cũng có tác động lan tỏa nhất định, người nộp thuế không tự kiểm tra việc tuân thủ thuế của họ sẽ phải chi trả nhiều hơn khi tỷ lệ kiểm tra gia tăng. Như vậy, việc kiểm tra thuế rõ ràng giữ vai trò nhất định trong việc gia tăng tính tuân thủ tự nguyện. Tỷ lệ kiểm tra đóng vai trò quan trọng trong hành vi báo cáo thuế của người nộp thuế bởi vì người nộp thuế sẽ khai báo toàn bộ nếu họ cho rằng họ sẽ là một trong những người bị kiểm tra thuế trong năm nào đó. Slemrod & Ctg (1998) điều tra mối quan hệ giữa tỷ lệ bị kiểm tra và phản ứng của người nộp thuế. Nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng hành vi của người nộp thuế thay đổi theo mức thu nhập và tỷ lệ bị kiểm tra thuế đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hành vi trốn thuế. Nghiên cứu của Evan & Ctg (2005) ở Australia phát hiện rằng lịch sử kiểm tra thuế bao gồm tính chất thường xuyên, kết quả kiểm tra và loại hình kiểm tra có tác động gián tiếp đáng kể đến tuân thủ thuế (cụ thể là việc lưu trữ sổ sách kế toán). Những người không sẵn lòng nộp thuế và hay tìm cách để thoát khỏi các đợt kiểm tra thuế hoặc hình phạt thường cố gắng để hiểu quy trình lựa chọn đối tượng kiểm tra thuế, và ngay cả khi việc kiểm tra mang tính ngẫu nhiên, họ vẫn cố gắng để dự đoán khi nào cuộc kiểm tra kế tiếp sẽ xảy ra. Kirchler & Ctg (2005) dự đoán rằng tuân thủ thuế lệ thuộc vào tỷ lệ kiểm tra, các biện pháp trừng phạt và khoảng thời gian giữa các lần kiểm tra. Trường hợp việc kiểm tra thuế diễn ra thường xuyên, tuân thủ thuế sẽ lập tức giảm ngay sau cuộc kiểm tra đó và nhanh chóng tăng lại ở đợt tiếp theo. Trường hợp kiểm tra thuế không thường xuyên, tuân thủ thuế cũng giảm sau khi đã được kiểm tra thuế và cũng tăng trở lại nhưng với tốc độ chậm hơn [25]. Kết quả nghiên cứu của Andreoni & Ctg (1998) cho thấy kinh nghiệm từ những lần bị kiểm tra trước và việc vẫn tiếp tục bị quản lý từ phía cơ quan thuế đối với hoạt động của họ có tác dụng gia tăng mức độ tuân thủ của người nộp 18 thuế. Bergman (1998) tiến hành nghiên cứu hành vi tuân thủ thuế ở Achentina sử dụng 2 cách thức: 1) cách thức tăng cường tuân thủ thuế đối với người nộp thuế là các tổ chức và 2) các chiến dịch mở rộng và kiểm tra thuế sẽ gia tăng xác suất phát hiện đối với người nộp thuế cá nhân. Kết quả cho thấy rằng khi biết tỷ lệ kiểm tra thuế và khả năng bị phát hiện gia tăng, người nộp thuế sẽ tuân thủ các quy định của luật thuế và khai báo chính xác thu nhập. Ngoài ra, người nộp thuế cũng nhận thấy rằng khi họ sẽ không bị phát hiện vì cơ quan thuế ít khi kiểm tra hoặc thanh tra thuế, họ có thể thực hiện những hành vi trốn thuế phức tạp hơn để hạn chế số thuế phải nộp. Những phát hiện này phù hợp với các đề xuất lý thuyết cho rằng việc lo sợ bị phát hiện sẽ tác động đến các mức độ của hành vi tuân thủ thuế, cũng có nghĩa là những người trốn thuế sẽ đề phòng cẩn thận hơn khi họ nhận thấy rủi ro phát hiện cao. Nói chung, tỷ lệ kiểm tra cao hơn sẽ khuyến khích tuân thủ thuế. Ngoài ra, năng lực của cán bộ kiểm tra thuế cũng tác động nhất định đến hành vi tuân thủ thuế. Tuân thủ thuế xét trong mối tương quan với năng lực phát hiện của cán bộ kiểm tra thuế đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Allingham & Sandmo (1972) cho rằng người nộp thuế sẽ luôn khai báo thu nhập của họ chính xác nếu khả năng bị phát hiện cao [1]. Palil (2010) chỉ ra rằng người nộp thuế thường trốn hoàn toàn nghĩa vụ thuế và lý do duy nhất để họ không thực hiện hành vi này là xác suất hành vi bị phát hiện rất cao. Sự tăng lên trong xác suất phát hiện sẽ gia tăng tính tuân thủ thuế và năng lực của cán bộ kiểm tra thuế để phát hiện hành vi gian lận là một trong những biện pháp phát hiện hiệu quả được thực hiện bởi cơ quan thuế. Thực tế, kiểm tra thuế được xem là biện pháp vừa có tác dụng ngăn chặn trực tiếp đối với những người nộp thuế đã bị kiểm tra vừa có tác dụng gián tiếp đối với những người nộp thuế chưa bị kiểm tra [4]. Xác suất của sự trót lọt trong việc không tuân thủ là yếu tố quan trọng nhất khiến cho tình trạng không tuân thủ luật ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, nghiên cứu của Beron & Ctg (1990) tiết 19 lộ rằng kiểm tra thuế chỉ có hiệu ứng khiêm tốn đối với tuân thủ thuế. Năng lực của cán bộ kiểm tra thuế khác nhau sẽ tạo ra những mức độ tuân thủ khác nhau. Palil (2010) cũng cho thấy kiểm tra thuế nói chung là cách thức ngày càng trở nên quan trọng trong việc tối thiểu hóa các hành vi không tuân thủ thuế. Tầm quan trọng của các chương trình kiểm tra không chỉ chỉ có ý nghĩa đối với những đối tượng nộp thuế bị kiểm tra thuế mà còn tác động đến cả các đối tượng nộp thuế còn lại. 2.1.2.3. Các nhân tố liên quan đến ngƣời nộp thuế Kiến thức về thuế của ngƣời nộp thuế Ảnh hưởng của kiến thức đến hành vi tuân thủ thuế đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu khác nhau [28]. Kiến thức và quan niệm về thuế của người nộp thuế sẽ tạo nền tảng cho việc đánh giá, nhận thức về tính công bằng và sự sẵn lòng cũng như năng lực để tuân thủ các quy định của thuế. Kiến thức chủ quan về thuế, tức là sự hiểu biết về thuế của người dân bình thường nhất, rất quan trọng để hiểu tại sao họ lại cư xử như cách họ đã và đang làm. Harris (1989) chia kiến thức thuế thành 2 khía cạnh, kiến thức thuế nhận được thông qua quá trình giáo dục phổ thông hoặc giáo dục chính thức và kiến thức thuế chuyên biệt được đào tạo trực tiếp hướng đến các cơ hội có thể trốn thuế. Ở khía cạnh thứ nhất, trình độ giáo dục người nộp thuế tiếp nhận được là một nhân tố quan trọng đóng góp vào sự hiểu biết chung về thuế đặc biệt liên quan đến pháp luật và thuế [11]. Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng kiến thức chung về thuế có quan hệ mật thiết đến khả năng hiểu pháp luật và các quy định về thuế, và từ đó tuân thủ thuế tốt hơn [38]. Eriksen & Fallan (1996) nhận định kiến thức về pháp luật thuế khá quan trọng đối với thái độ và sự ưu ái đối với thuế. Họ cho rằng kiến thức tài chính có tương quan với thái độ thuế và hành vi về thuế có thể được cải thiện bằng một sự hiểu biết về thuế tốt hơn. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan