Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Biện pháp nâng cao chất lượng quản lý cán bộ, công chức tại ủy ban nhân dân quận...

Tài liệu Biện pháp nâng cao chất lượng quản lý cán bộ, công chức tại ủy ban nhân dân quận ngô quyền

.PDF
78
211
71

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Những năm qua, Nhà nước ta luôn quan tâm nâng cao chất lượng quản lý cán bộ công chức và đã đạt nhiều kết quả. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý cán bộ công chức còn nhiều hạn chế cần phải tiếp tục giải quyết. Đo đó, nghiên cứu và đánh giá một cách khoa học về công tác quản lý cán bộ công chức là rất quan trọng. Trên cơ sở đó, Nhà nước xây dựng chiến lược đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ công chức có đầy đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu đề ra. Các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ công chức. Nằm trong tình trạng chung đó, Quận Ngô Quyền đang từng bước cùng với các cơ quan của thành phố đang giải quyết các bài toán như: quản lý và sử dụng cán bộ công chức sao cho hợp lý, phát huy hết khả năng; đào tạo phải đo đôi với sử dụng; chính sách thu hút nhân tài về công tác tại quận,... Thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu phát triển của Quận Ngô Quyền theo tinh thần Công văn số 2468/UBND-TH ngày 16/4/2014 của UBND thành phố Hải Phòng “về việc đồng ý cho UBND Quận Ngô Quyền lập điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2025”. Muốn đạt mục tiêu trên, Quận Ngô Quyền cần quan tâm đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu. Điều này, đặt ra bài toán “Làm thế nào để nâng cao chất lượng quản lý cán bộ công chức để đáp ứng yêu cầu phát triển của quận”. Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi đã chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao chất lượng quản lý cán bộ, công chức tại Ủy ban nhân dân Quận Ngô Quyền”. Trong đó, tập trung đánh giá thực trạng và đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng quản lý CBCC tại UBND Quận Ngô Quyền giai đoạn 2016 - 2020. 1 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng “Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến công tác quản lý cán bộ công chức. Đánh giá thực trạng quản lý cán bộ công chức tại Uỷ ban nhân dân Quận Ngô Quyền”. - Phạm vi nghiên cứu “Thực trạng quản lý cán bộ công chức tại Uỷ ban nhân dân Quận Ngô Quyền giai đoạn 2011 – 2015”. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu “Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý cán bộ công chức Nhà nước. Đánh giá thực trạng chất lượng quản lý cán bộ công chức tại UBND Quận Ngô Quyền giai đoạn 2011 - 2015, đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng quản lý cán bộ công chức giai đoạn 2016 – 2020”. Nhiệm vụ “Nghiên cứu một cách có hệ thống lý thuyết về quản lý cán bộ công chức. Đánh giá được thực trạng về những kết quả đạt được cũng như hạn chế trong quản lý cán bộ công chức tại UBND Quận Ngô Quyền để từ đó đề ra biện pháp nâng cao chất lượng quản lý cán bộ công chức Quận Ngô Quyền giai đoạn 2016 – 2020”. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu lý luận “thu thập tài liệu để phân tích thông tin và hệ thống hóa các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài”. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn “Phương pháp điều tra phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp…” 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Về mặt khoa học “Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý cán bộ công chức; xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng quản lý CBCC để làm rõ những nội dung của công tác quản lý cán bộ công chức, điều kiện khách quan của việc quản lý cán bộ công chức tại UBND Quận Ngô Quyền giai đoạn 2016 – 2020”. - Về mặt thực tiễn “Đánh giá thực trạng quản lý cán bộ công chức tại UBND Quận Ngô Quyền giai đoạn 2011 - 2015. Chỉ ra được những hạn chế trong quản lý 2 cán bộ công chức làm cơ sở đề đưa ra những biện pháp có giá trị thực tiễn cao nhằm mục đích nâng cao chất lượng quản lý cán bộ công chức quận giai đoạn 2016 – 2020”. 6. Bố cục của luận văn Luận văn bao gồm 3 phần chính như sau: Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về quản lý cán bộ công chức ở Việt Nam. Chƣơng 2. Thực trạng quản lý cán bộ công chức tại Uỷ ban nhân dân Quận Ngô Quyền giai đoạn 2011 - 2015. Chƣơng 3. Biện pháp nâng cao chất lượng quản lý cán bộ công chức tại Ủy ban nhân dân Quận Ngô Quyền giai đoạn 2016 - 2020. 3 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÁN BỘ CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại cán bộ, công chức 1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức: Theo Điều 4 Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010) thì: - Cán bộ: “là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. - Công chức: “là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. - Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã): “là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội”. Công chức cấp xã “là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ 4 một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. 1.1.2. Đặc điểm của cán bộ, công chức: Cán bộ công chức nhà nước “là lực lượng trực tiếp thực thi pháp luật, quản lý và điều hành tổ chức theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động liên tục, hiệu quả trên cơ sở đảm bảo kỷ cương phép nước. Các mệnh lệnh, quyết định quản lý trong mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội là do công chức hành chính là người triển khai thực hiện”. Do vậy, cán bộ công chức hành chính nhà nước có 06 đặc điểm cơ bản sau: - Thứ nhất “là chủ thể của nền công vụ, là những người thực thi công vụ và được Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ”. - Thứ hai, “là lực lượng lao động chuyên nghiệp, có chuyên môn hóa cao”. - Thứ ba, “tương đối ổn định, mang tính kế thừa, nhưng luôn đòi hỏi không ngừng nâng cao về chất lượng”. - Thứ tư, “Hoạt động của đội ngũ công chức hành chính diễn ra thường xuyên, liên tục trên phạm vi rộng và mang tính phức tạp”. - Thứ năm, “Họ am hiểu và tôn trọng luật pháp và thông lệ quốc tế”. - Thứ sáu, “Trung thành với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân”. 1.1.3. Phân loại cán bộ, công chức: Phân loại công chức dựa trên ngạch được bổ nhiệm và vị trí công chức (Theo Điều 34, Luật Cán bộ, công chức năm 2008), cụ thể: - Theo ngạch được bổ nhiệm, công chức được phân thành các loại: + Loại A “gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao cấp hoặc tương đương”. + Loại B “gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên chính hoặc tương đương”. + Loại C “gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên hoặc tương đương”. 5 + Loại D “gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc tương đương và ngạch nhân viên”. - Theo vị trí công tác, công chức được phân thành 2 loại: + Công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. + Công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. - Theo ngành, lĩnh vực: + Ngành thanh tra. + Ngành thuế. + Ngành tư pháp. + Ngành hải quan. + Ngành nông nghiệp. ....... Ngoài ra, công chức còn có thể được phân loại theo trình độ đào tạo hoặc theo hệ thống cơ cấu tổ chức, gồm: - Công chức làm việc ở cơ quan, tổ chức ở trung ương. - Công chức làm việc ở cơ quan, tổ chức cấp tỉnh. - Công chức làm việc ở cơ quan, tổ chức cấp huyện. - Công chức làm việc ở cơ quan, tổ chức cấp xã. Trong từng ngành chuyên môn có một hoặc một số ngạch phân ra từ cao đến thấp, thể hiện trình độ và năng lực chuyên môn của công chức. Mỗi một ngạch có những mức lương khác nhau, được xếp theo bậc lương. Theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008 và các văn bản hướng dẫn của Chính phủ “việc nâng từ mức lương thấp lên mức lương cao hơn trong ngạch được thực hiện gắn với thâm niên công tác, trừ trường hợp được nâng lương trước thời hạn do có thành tích, cống hiến trong công tác”. Nâng lương được tiến hành thường kỳ theo quy định của pháp luật. Áp dụng nâng từ ngạch thấp lên ngạch cao hơn được tiến hành thông qua kỳ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh. 6 1.2. Khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức: 1.2.1. Khái niệm quản lý công chức: Hoạt động công vụ, công chức được nhiều chủ thể quản lý dưới nhiều phương diện khác nhau như quản lý nhà nước; quản lý nhân sự của các cơ quan sử dụng cán bộ, công chức; quản lý theo hệ thống tổ chức Đảng, đoàn thể… Nếu quản lý công chức “là quản lý hệ thống nhân lực trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước”. Thì việc quản lý công vụ lại tập trung vào khía cạnh khác, đó là “những quy tắc, quy trình hoạt động công vụ; quản lý hành vi và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức hành chính; thái độ ứng xử giữa công chức với nhân dân, giữa các công chức với nhau và giữa các đơn vị, tổ chức hành chính trong quá trình hoạt động của bộ máy nhằm đạt tới mục tiêu xây dựng và vận hành một nền hành chính Nhà nước mang tính phục vụ, hiệu quả, hiệu lực”. Quản lý công vụ, công chức thực chất “là quản lý hệ thống nhân sự và chất lượng hoạt động của bộ máy các cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước”. Vì vậy, công chức và công vụ là hai phạm trù khác nhau nhưng cùng là đối tượng điều chỉnh mang tính trực tiếp hoặc gián tiếp của các văn bản pháp lý liên quan, trong đó quản lý công chức cũng bao hàm ý nghĩa quản lý công vụ và ngược lại, quản lý công vụ cũng có nội dung quản lý công chức. Cơ quan sử dụng cán bộ, công chức “là cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao thẩm quyền quản lý, phân công, bố trí, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức”. Cơ quan quản lý cán bộ, công chức “là tổ chức, đơn vị được giao thẩm quyền tuyển dụng, bổ nhiệm, nâng ngạch, nâng lương, cho thôi việc, nghỉ hưu, giải quyết chế độ, chính sách và khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức”. 1.2.2. Mục tiêu quản lý cán bộ, công chức: “Quản lý cán bộ, công chức cũng giống như quản lý nguồn nhân lực của tổ chức nhằm tạo ra một nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của tổ chức”. Quản lý cán bộ, công chức nhằm đạt 5 mục tiêu sau: 7 - Thứ nhất “Đáp ứng đòi hỏi của tổ chức về phát triển nguồn nhân lực. Quản lý cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của tổ chức để thực hiện mục tiêu của tổ chức đã đề ra”. - Thứ hai “Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thích ứng với yêu cầu của từng giai đoạn xây dựng và hoàn thiện nhà nước, cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức và yêu cầu quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội”. - Thứ ba “Tạo cơ hội để cán bộ, công chức phát triển tài năng”. - Thứ tư “Bảo đảm thực thi công vụ đúng pháp luật nhà nước quy định”. - Thứ năm “Xây dựng một môi trường làm việc văn hóa, hiệu quả trên cơ sở hợp tác, phối hợp giữa từng cán bộ, công chức với nhau trong cơ quan, tổ chức”. 1.2.3. Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức: “Cán bộ, công chức là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực làm trong các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, một mặt phải tuân thủ các nguyên tắc đặc trưng trong khoa học quản lý nguồn nhân lực. Do đó quản lý cán bộ, công chức phải tuân thủ một số nguyên tắc có tính đặc thù riêng”. Điều 5 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định việc quản lý cán bộ, công chức phải tuân thủ 5 nguyên tắc sau đây: - Thứ nhất “Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước”. - Thứ hai “Kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế”. - Thứ ba “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng”. - Thứ tư “Việc sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ”. - Thứ năm “Thực hiện bình đẳng giới”. 1.2.4. Nội dung quản lý cán bộ công chức: 1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về công chức. 2. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch công chức. 8 3. Quy định ngạch, chức danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức. 4. Xác định số lượng và quản lý biên chế công chức. 5. Tổ chức thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng công chức. 6. Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức. 7. Tổ chức thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với công chức. 8. Tổ chức thực hiện việc khen thưởng, kỷ luật đối với công chức. 9. Thực hiện chế độ thôi việc, nghỉ hưu đối với công chức. 10. Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê và quản lý hồ sơ công chức. 11. Thanh tra, kiểm tra việc thi hành quy định của pháp luật về công chức. 12. Chỉ đạo, tổ chức giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với công chức. 1.2.5. Tổ chức bộ máy quản lý công vụ, công chức: Hiện nay, hệ thống quản lý công vụ, công chức ở nước ta gồm có các cơ quan sau: - “Quản lý nhân sự cấp cao”: Ban Tổ chức Trung ương Đảng. - “Quản lý nhà nước về công chức, công vụ”: Bộ Nội vụ. - “Quản lý chế độ tài chính”: Bộ Tài chính. - “Quản lý chế độ tiền lương”: Bộ Nội vụ. - “Quản lý chế độ sau công vụ”: Bảo hiểm Xã hội. Ngoài ra còn có cơ quan quản lý ngành dọc về tổ chức, cán bộ gồm “ Sở Nội vụ các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị chuyên ngành nội vụ ở cấp huyện; Vụ Tổ chức - Cán bộ ở các bộ, cơ quan ngang bộ, bộ phận tổ chức - cán bộ thuộc các đơn vị sự nghiệp”. 1.3. Các tiêu chí đánh giá công tác quản lý cán bộ công chức: 1.3.1. Về cơ sở pháp lý về quản lý cán bộ, công chức: * Giai đoạn 1998 – 2008: Năm 1998, Nhà nước ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn quản lý công chức với 9 nhiều nội dung đổi mới. Các vấn đề “về quản lý biên chế, về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức; về kỷ luật cán bộ, công chức; về chế độ thôi việc, nghỉ hưu; về đào tạo, bồi dưỡng;...” đều được Chính phủ quy định chi tiết và các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện. Năm 2003, thực hiện chủ trương của Đảng “về tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thực hiện xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, đẩy mạnh phân cấp quản lý cán bộ, công chức, đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước”, Nhà nước đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức để đáp ứng yêu cầu đó. Theo đó, Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003 đã “phân định cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước với cán bộ, công chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước; quy định chế độ công chức dự bị; bổ sung cán bộ chuyên trách cấp xã vào phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh; đồng thời đổi mới một bước cơ chế quản lý biên chế và tuyển dụng công chức vào các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của nhà nước”. Đến năm 2004, Nhà nước tiếp tục “cải cách chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang”. Có thể nói, “Từ năm 1998 đến năm 2008, Pháp lệnh cán bộ, công chức đã thực sự là cơ sở pháp lý rất quan trọng để bước đầu đổi mới hoạt động công vụ, công chức ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển đất nước”. * Giai đoạn từ năm 2008 đến nay: Từ năm 2008 đến nay, để chuẩn hóa và đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức, Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để điều chỉnh công tác này. Điển hình là Luật cán bộ công chức năm 2008 thay thế cho Pháp lệnh cán bộ công chức. Để bảo đảm thống nhất trong quản lý công chức, Luật cán bộ, công chức quy định rõ “Đối với cán bộ, việc quản lý thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền của Đảng và của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Đối với công chức, việc quản lý nhà nước về công chức do Chính phủ quản lý thống nhất”. 10 Tiếp đến, Chính Phủ cũng đã ban hành các văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành Luật cán bộ công chức năm 2008, cụ thể: - Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25-01-2010 của Chính phủ quy định “Về những người là công chức”; - Nghị định số 08/2010/NĐ-CP ngày 05-03-2010 của Chính phủ quy định “về đào tạo bồi dưỡng công chức”; - Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 8-3-2010 của Chính Phủ “về quản lý biên chế công chức”: - Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15-3-2010 của Chính phủ “về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức”; - Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15-4-2010 của Chính phủ quy định “Chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua – khen thưởng”; - Nghị định 34/2011/NĐ-CP ngày 17-5-2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức”; - Nghị định số 36/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định “về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức”; - Nghị định số 56/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định “về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức”; 1.3.2. Quản lý biên chế và xác định vị trí việc làm: Biên chế “là số lượng người làm việc trong mỗi cơ quan, tổ chức”. Vị trí việc làm “là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, đơn vị”. Việc quản lý biên chế công chức phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Thứ nhất “Tuân thủ các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và quy định của cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam”. - Thứ hai “Bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa quản lý biên chế công chức với tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức”. - Thứ ba “Kết hợp giữa quản lý biên chế công chức với tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm của công chức”. 11 - Thứ tư “Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, bảo đảm biên chế công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị”. - Thứ năm “Công khai, minh bạch, dân chủ trong quản lý biên chế công chức”. Do đó, việc xác định “biên chế công chức” trong từng cơ quan, đơn vị phải dựa vào “vị trí việc làm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị được cấp có thẩm quyền quy định”. Theo Nghị định số 36/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định “về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức”, việc xác định “vị trí việc làm” và “cơ cấu ngạch công chức” bao gồm những bước sau: Bước 1 - Thống kê công việc theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Bước 2 - Phân nhóm công việc. Bước 3 - Xác định các yếu tố ảnh hưởng. Bước 4 - Thống kê, đánh giá thực trạng đội ngũ công chức. Bước 5 - Xác định danh mục vị trí việc làm và phân loại các vị trí việc làm cần có để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức. Bước 6 - Xây dựng bản mô tả công việc của từng vị trí việc làm. Bước 7 - Xây dựng khung năng lực của từng vị trí việc làm. Bước 7 - Xác định ngạch công chức tương ứng. 1.3.3. Công tác quy hoạch cán bộ: * Các khái niệm về quy hoạch cán bộ: Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý “là công tác phát hiện sớm nguồn cán bộ trẻ có đức, có tài, có triển vọng về khả năng lãnh đạo, quản lý, đưa vào quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài của từng địa phương, cơ quan, đơn vị và của đất nước”. 12 Đề án quy hoạch cán bộ “là kế hoạch tổng thể, dài hạn về đội ngũ cán bộ có triển vọng đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng số cán bộ đó theo quy hoạch”. Quy hoạch "mở" được hiểu là một chức danh cần quy hoạch một số người và một người có thể quy hoạch vào một số chức danh; giới thiệu cán bộ vào quy hoạch không khép kín trong từng địa phương, cơ quan, đơn vị, không chỉ đưa vào quy hoạch những cán bộ tại chỗ mà cần xem xét, đưa vào quy hoạch cả các đồng chí có đủ tiêu chuẩn, điều kiện và triển vọng đảm nhiệm chức danh quy hoạch ở địa phương, cơ quan, đơn vị khác. Quy hoạch "động" là quy hoạch đựợc định kỳ rà soát, bổ sung, điều chỉnh theo sát sự phát triển của cán bộ; kịp thời đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện, không có triển vọng phát triển hoặc uy tín thấp qua lấy phiếu tín nhiệm hằng năm; bổ sung vào quy hoạch những cán bộ có triển vọng phát triển. Quy hoạch cán bộ “là tạo nguồn để chủ động chuẩn bị cán bộ cho việc bổ nhiệm, bố trí nhân sự nêu trên”. Bố trí nhân sự “là lựa chọn cán bộ trong quy hoạch để bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử đảm đương ngay vị trí lãnh đạo, quản lý khi có nhu cầu hoặc khi đến kỳ đại hội đảng, bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp... ” * Các yêu cầu đối với công tác quy hoạch: Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực tế đội ngũ cán bộ; phải gắn với các khâu khác trong công tác cán bộ, bảo đảm sự liên thông quy hoạch của cả đội ngũ cán bộ trong hệ thống: - Để quy hoạch cán bộ sát với thực tiễn và có tính khả thi, phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ để xác định tiêu chuẩn, cơ cấu đội ngũ cán bộ trong quy hoạch (trình độ, ngành nghề, lĩnh vực công tác, độ tuổi, nam, nữ, dân tộc...); phải nắm chắc đội ngũ cán bộ hiện có, dự báo được nhu cầu cán bộ trước mắt và lâu dài, trên cơ sở đó mới tiến hành lựa chọn, giới thiệu cán bộ vào 13 quy hoạch, đồng thời xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ theo quy hoạch. - Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý phải được xây dựng trên cơ sở quy hoạch cấp ủy đảng các cấp, lấy quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch ở cấp trên, bảo đảm sự liên thông, gắn kết giữa quy hoạch của các địa phương, ban, bộ, ngành với nhau; giữa quy hoạch cán bộ lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương với quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Phải đánh giá đúng cán bộ trước khi đưa vào quy hoạch. - Quy hoạch cán bộ phải bảo đảm phương châm "mở" và "động": “Đối với cán bộ có trong quy hoạch ở nơi khác, được đề xuất, giới thiệu vào quy hoạch của địa phương, cơ quan, đơn vị mình, cơ quan tham mưu về tổ chức cán bộ (ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy, vụ (ban) tổ chức cán bộ các ban, bộ, ngành, đoàn thể trung ương) cần liên hệ với cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị nơi cán bộ đang công tác để thẩm định, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định đưa vào quy hoạch, thông báo cho địa phương, cơ quan, đơn vị nơi cán bộ đang công tác và cá nhân cán bộ đó biết, không tổ chức lấy phiếu giới thiệu đối với nhân sự đó (cả nơi cán bộ đang công tác và nơi đưa cán bộ vào quy hoạch). Cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch có trách nhiệm bổ sung nhân sự từ nơi khác vào quy hoạch của cấp dưới”. - Thống nhất thực hiện chủ trương quy hoạch cán bộ lên chức vụ cao hơn, không quy hoạch tái cử, tái bổ nhiệm chức vụ đang đảm nhiệm khi xây dựng quy hoạch nhiệm kỳ tới và các nhiệm kỳ tiếp theo, cũng như khi rà soát, bổ sung quy hoạch của nhiệm kỳ hiện tại. Các đồng chí đương nhiệm về nguyên tắc đã phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện của chức vụ đang đảm nhiệm, nếu có triển vọng phát triển thì đưa vào quy hoạch chức vụ cao hơn; nếu đủ tiêu chuẩn, điều kiện tiếp tục tái cử thì là nguồn đương nhiên để xem xét khi tiến hành công tác nhân sự của khóa mới. 14 - Đối với cán bộ đảm nhiệm chức danh có quy định một người không giữ chức vụ quá 2 nhiệm kỳ liên tiếp, cần xem xét đưa vào quy hoạch chức vụ khác, hoặc bố trí giữ chức vụ đó ở địa phương, cơ quan, đơn vị khác. - Số lượng nguồn đưa vào quy hoạch: + Đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý, tối thiểu phải quy hoạch 2-3 người vào 01 chức danh; không quy hoạch 01 người cho 01 chức danh. + Không quy hoạch 1 người vào quá 3 chức danh; không quy hoạch 01 chức danh quá 4 người (ví dụ: chức danh Phó Chủ tịch UBND tỉnh theo quy định có 3 người, thì số lượng đưa vào quy hoạch không quá 3 x 4 = 12 người). - Yêu cầu về độ tuổi và cơ cấu cán bộ nữ trong quy hoạch: + “Cần đưa vào quy hoạch những đồng chí có triển vọng, nhưng phải trẻ tuổi, để có quỹ thời gian cho việc đào tạo, bồi dưỡng về lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh qua thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở cấp dưới. Để đến khi bố trí cán bộ vào chức danh quy hoạch, phải bảo đảm những đồng chí lần đầu tham gia cấp ủy hoặc lần đầu bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử các chức danh lãnh đạo, quản lý phải đủ tuổi công tác từ hai nhiệm kỳ trở lên, ít nhất cũng trọn một nhiệm kỳ (mỗi nhiệm kỳ là 5 năm)”. + Những đồng chí đã có trong quy hoạch nhưng không đủ tuổi bổ nhiệm hoặc ứng cử lần đầu vào chức danh quy hoạch, cần đưa ra khỏi quy hoạch. + Về cơ cấu 3 độ tuổi: “Duy trì nghiêm cơ cấu ba độ tuổi trong quy hoạch cấp ủy và ban lãnh đạo, quản lý các cấp. Chức danh lãnh đạo, quản lý phải bảo đảm cơ cấu 3 độ tuổi; dãn cách giữa các độ tuổi là 5 năm, cấp có thẩm quyền chỉ phê duyệt quy hoạch khi đáp ứng yêu cầu này”. + Về tỷ lệ cán bộ nữ: Bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ không dưới 15%. + Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch cán bộ. - Đảm bảo công khai trong quy hoạch cán bộ. 1.3.4. Tuyển dụng công chức: Tuyển dụng “là quá trình bổ sung những người đủ tiêu chuẩn, điều kiện vào đội ngũ công chức”. Việc tuyển dụng công chức phải căn cứ vào “nhiệm vụ, vị trí 15 việc làm và chỉ tiêu biên chế”; “không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo đều được đăng ký dự tuyển công chức” và người được tuyển dụng phải đảm bảo 6 điều kiện: - Thứ nhất là “Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. - Thứ hai là “Đủ 18 tuổi trở lên”. - Thứ ba là “Có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng”. - Thứ tư là “Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp”. - Thứ năm là “Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt”. - Thứ sáu là “Đủ sức khoẻ để thực hiện nhiệm vụ”. Theo Luật quốc tịch Việt Nam quy định “Nhà nước Việt Nam cho phép công dân Việt Nam được phép mang quốc tịch của nước khác” nhưng để tuyển dụng vào công chức thì người đăng ký dự tuyển chỉ được mang một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. Trước đây, độ tuổi tuyển dụng quy định “từ đủ 18 tuổi đến 40 tuổi”. Nhưng đến nay, tuổi dự tuyển công chức chỉ quy định “từ đủ 18 tuổi trở lên” mà không khống chế tuổi “trần”. Quy định như vậy là để phù hợp với “Luật bảo hiểm xã hội về loại hình bảo hiểm tự nguyện”, tạo điều kiện cho “những người khi đến tuổi nghỉ hưu nhưng chưa đủ điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội được tiếp tục đóng bảo hiểm”. Ngoài các điều kiện trên, theo yêu cầu của vị trí dự tuyển, “cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng có thể quy định thêm một số điều kiện khác, nhưng không được trái với các quy định của pháp luật”. Luật cũng quy định đối với những người không được đăng ký dự tuyển công chức: - Thứ nhất “Không cư trú tại Việt Nam”. - Thứ hai “Mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”. - Thứ ba “Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đang chấp hành hoặc đã chấp hành xong bản án, quyết định về hình sự của Tòa án mà chưa được xóa án tích; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục”. 16 Theo Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15-3-2010 của Chính phủ “về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức”, để thu hút người có tài năng, có trình độ tham gia vào trong hoạt động công vụ, cũng đã quy định “cho phép người đứng đầu cơ quan quản lý công chức được xem xét, tiếp nhận không qua thi tuyển đối với các trường hợp đặc biệt sau”: - Thứ nhất “Người tốt nghiệp thủ khoa tại các cơ sở đào tạo trình độ đại học ở trong nước”. - Thứ hai “Người tốt nghiệp đại học, sau đại học loại giỏi, xuất sắc ở nước ngoài”. - Thứ ba “Người có trình độ đào tạo từ đại học trở lên, có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng từ 05 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng”. Về chế độ tập sự “Người được tuyển dụng vào công chức phải thực hiện chế độ tập sự để làm quen với môi trường công tác, tập làm những công việc của vị trí việc làm được tuyển dụng”. Thời gian tập sự được quy định như sau: - “12 tháng đối với trường hợp tuyển dụng vào công chức” loại C. - “06 tháng đối với trường hợp tuyển dụng vào công chức” loại D. Do “Luật cán bộ, công chức năm 2008” không quy định chế độ “công chức dự bị”, do đó để bảo đảm quyền lợi cho những người đang là “công chức dự bị”, Chính phủ đã cho phép “người được tuyển dụng vào công chức dự bị trước ngày 01-01-2010 theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 thì được chuyển sang thực hiện chế độ tập sự. Thời gian đã thực hiện chế độ công chức dự bị được tính vào thời gian tập sự”. Ngoài ra để bảo đảm được mục đích và ý nghĩa của chế độ độ tập sự thì Luật quy định “thời gian nghỉ sinh con theo chế độ bảo hiểm xã hội và thời gian nghỉ ốm đau, bị tạm giam, tạm giữ, tạm đình chỉ công tác theo quy định của pháp luật không được tính vào thời gian tập sự”. Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, về thẩm quyền, nội dung, hình thức các môn thi trong kỳ thi tuyển công chức đã được đổi mới, quy định phù hợp với nguyên tắc tổ chức tuyển dụng theo vị trí việc làm, chú trọng về kỹ năng, nghiệp vụ thực tế của công việc. Về nội dung, hình thức tuyển dụng đã được đổi mới theo hướng tuyển dụng theo vị trí việc làm, đề cao trình độ chuyên môn, 17 nghiệp vụ trong tuyển dụng. Cụ thể là: Về thi tuyển công chức quy định thi môn kiến thức chung, môn nghiệp vụ chuyên ngành; còn môn ngoại ngữ và môn tin học chỉ là môn điều kiện. Môn nghiệp vụ chuyên ngành được tính hệ số 02. Nội dung thi môn nghiệp vụ chuyên ngành được gắn với từng ngạch, chức danh, vị trí việc làm cần tuyển, đảm bảo phù hợp với yêu cầu của cơ quan sử dụng công chức. Trong kỳ thi tuyển công chức, các thí sinh dự thi vào các vị trí việc làm khác nhau sẽ có đề thi khác nhau cho phù hợp, không thi chung đề như trước đây. Về xét tuyển công chức đã quy định khi xét tuyển phải căn cứ vào kết quả học tập và tổ chức phỏng vấn. Như vậy đã khắc phục được hạn chế khi xét tuyển theo đối tượng ưu tiên như trước đây, bảo đảm tuyển được công chức có năng lực, trình độ ở các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa. Khoản 2, Điều 62, Luật cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định “cán bộ, công chức cấp xã khi giữ chức vụ được hưởng lương và chế độ bảo hiểm; khi thôi giữ chức vụ, nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật được xem xét chuyển thành công chức và được miễn chế độ tập sự, được hưởng chế độ, chính sách liên tục; nếu không được chuyển thành công chức mà chưa đủ điều kiện nghỉ hưu thì thôi hưởng lương và thực hiện đóng bảo hiểm tự nguyện theo quy định của pháp luật; trường hợp là cán bộ, công chức được điều động, luân chuyển, biệt phái thì cơ quan có thẩm quyền bố trí công tác phù hợp hoặc giải quyết chế độ theo quy định của pháp luật”. Do vậy, Chính phủ cũng đã quy định cụ thể việc cán bộ, công chức cấp xã chuyển thành công chức từ cấp huyện trở lên nếu có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn sau: - Thứ nhất “Cơ quan sử dụng công chức có nhu cầu tuyển dụng theo cơ cấu ngạch công chức phù hợp với vị trí việc làm cần tuyển dụng”. - Thứ hai “Có đủ các tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch công chức tương ứng với vị trí việc làm”. - Thứ ba “Có thời gian làm cán bộ, công chức cấp xã từ đủ 60 tháng trở lên. Trường hợp cán bộ, công chức cấp xã có thời gian công tác không liên tục mà chưa nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội bắt buộc một lần thì được cộng dồn”. - Thứ tư “Có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao”. 18 - Thứ năm “Không trong thời gian xem xét kỷ luật hoặc đang bị thi hành quyết định kỷ luật của cơ quan có thẩm quyền, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang chấp hành hoặc đã chấp hành xong bản án, quyết định về hình sự của Toà án mà chưa được xoá án tích, đang bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng”. 1.3.5. Công tác Đào tạo, bồi dƣỡng: * Các khái niệm về đào tạo, bồi dƣỡng: - Đào tạo “là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”. - Bồi dưỡng “là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”. - Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch “là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động theo chương trình quy định cho ngạch công chức”. - Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý “là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định cho từng chức vụ lãnh đạo, quản lý”. - Bồi dưỡng theo vị trí việc làm “là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao”. * Mục tiêu đào tạo, bồi dƣỡng công chức: - Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ. - Góp phần xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp có đủ năng lực xây dựng nền hành chính tiên tiến, hiện đại. * Nguyên tắc đào tạo, bồi dƣỡng - Đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch công chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị. - Bảo đảm tính tự chủ của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. - Kết hợp cơ chế phân cấp và cơ chế cạnh tranh trong tổ chức đào tạo, bồi dưỡng. 19 - Đề cao vai trò tự học và quyền của công chức trong việc lựa chọn chương trình bồi dưỡng theo vị trí việc làm. - Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả. * Chế độ đào tạo, bồi dƣỡng - Hướng dẫn tập sự đối với công chức trong thời gian tập sự. - Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức. - Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý. - Bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu kiến thức, kỹ năng chuyên ngành hàng năm (thời gian thực hiện là 01 tuần/01 năm; một tuần được tính bằng 05 ngày học, một ngày học 08 tiết). - Thời gian tham gia các khóa bồi dưỡng khác nhau được cộng dồn. * Nội dung đào tạo, bồi dƣỡng - Nội dung đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước “Lý luận chính trị; Chuyên môn, nghiệp vụ; Kiến thức pháp luật; kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành; Tin học, ngoại ngữ, tiếng dân tộc”. - Nội dung bồi dưỡng ở ngoài nước “Kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý chuyên ngành; Kiến thức, kinh nghiệm hội nhập quốc tế”. 1.3.6. Bố trí, sử dụng cán bộ, công chức: Bổ nhiệm “là việc cán bộ, công chức được quyết định giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc một ngạch theo quy định của pháp luật”. Miễn nhiệm “là việc cán bộ, công chức được thôi giữ chức vụ, chức danh khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm”. Bãi nhiệm “là việc cán bộ không được tiếp tục giữ chức vụ, chức danh khi chưa hết nhiệm kỳ. Điều động “là việc cán bộ, công chức được cơ quan có thẩm quyền quyết định chuyển từ cơ quan, tổ chức, đơn vị này đến làm việc ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác”. Luân chuyển “là việc cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý được cử hoặc bổ nhiệm giữ một chức danh lãnh đạo, quản lý khác trong một thời hạn nhất định để tiếp tục được đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu nhiệm vụ”. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan