CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
GIẢI PHÁP HỮU ÍCH:
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 7 VIẾT BÀI VĂN
BIỂU CẢM TỐT HƠN.
1. HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN THỊ NGUYỆT
2. CHỨC VU: Giáo viên
3. ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: Trường THCS Liêng Srônh
4. LÍ DO CHỌN GIẢI PHÁP:
Môn Văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học,
Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn tập làm văn là phân
môn khó khăn nhất đối với học sinh, đặc biệt là thể loại văn biểu cảm. Cố thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn chủ yếu là dạy cho học sinh
diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ,
chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói”. ( Dạy văn là một quá trình rèn luyện
toàn diện… , Nghiên cứu giáo dục, số 28, 11/1973) .
Qua quá trình giảng dạy môn Ngữ Văn 7. Tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm,
cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách
bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc” ( Văn 7 –
tập 1). Kĩ năng làm văn biểu cảm còn yếu, chưa biết cách lập dàn ý, một số học
sinh chưa biết mở bài, kết bài, khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ
1
ràng, rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Chính vì thế, điểm các
bài kiểm tra và điểm trung bình môn Văn của các em còn thấp. Thực tế đó quả là
đáng lo ngại. Thực trạng vấn đề này ra sao ? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn
trong việc làm Văn biểu cảm ? Cần phải làm gì để nâng cao chất lượng Dạy và
Học Văn biểu cảm cho học sinh THCS ? Đó là những vấn đề tôi trăn trở, day dứt,
muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp trong giải pháp này.
5. NỘI DUNG GIẢI PHÁP:
5.1.
Thuận lợi và những khó khăn:
Thuận lợi:
- Mỗi năm học phòng giáo dục thường có những buổi tập huấn chuyên môn,
điều đó giúp cho giáo viên có điều kiện để gặp gỡ, trao đổi về chuyên môn.
- Trong tổ nhiều giáo viên cùng bộ môn nên thuận lợi cho việc trao đổi chuyên
môn qua việc dự giờ rút kinh nghiệm, cũng như trao đổi những băn khoăn trong
quá trình thực hiện giải pháp này.
- Được sự quan tâm chỉ đạo của Ban Giám hiệu, sự hợp tác hoạt động của các
giáo viên trong tổ chuyên môn và các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường
nên việc áp dụng giải pháp diễn ra thuận lợi.
- Bản thân nắm vững phương pháp dạy học, luôn trau dồi kiến thức qua sách, báo,
mạng intenet…Luôn học hỏi để tìm ra những phương pháp giảng dạy phù hợp, dễ
hiểu giúp các em học sinh tiếp thu bài một cách nhanh nhất.
- Bản thân được đứng lớp nhiều năm liên tiếp khối 7 nên có điều kiện để tìm ra
những cái khó trong bộ môn giảng dạy mà các em học sinh còn bối rối, từ đó có
biện pháp kịp thời để giáo dục, uốn nắn cho các em. Đặc biệt là kĩ năng viết văn
biểu cảm của học sinh.
Khó khăn:
2
- Tài liệu tham khảo về văn biểu cảm phục vụ cho việc nghiên cứu và viết giải
pháp còn hạn chế.
- Học sinh chưa chú ý đến học tập, chưa chịu khó học hỏi, tìm hiểu để xây dựng
kĩ năng viết văn biểu cảm, vì thế dẫn đến tình trạng nhận diện các phương thức
biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài tập làm văn của một
bộ phận không nhỏ học sinh còn yếu.
- Dù mới học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong nhưng nhiều
học sinh không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm. Vì thế sự cần thiết
tìm ra biện pháp để giúp học sinh làm bài văn biểu cảm đúng và tốt hơn là rất cần
thiết.
5.2. Phạm vi áp dụng của giải pháp:
Trong giải pháp này, tôi chỉ đề cập đến nội dung Văn biểu cảm trong sách giáo
khoa Ngữ Văn 7 tập 1. Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của giải
pháp chỉ gói gọn ở đối tượng học sinh lớp 7 trường THCS Liêng Srônh, phạm vi
áp dụng trong một lớp.
5.3. Thời gian áp dụng:
Giải pháp được áp dụng trong học kì I năm học 2013 – 2014, tại lớp 7a1, trường
THCS Liêng Srônh.
5.4. Giải pháp thực hiện:
5.4.1. Tính mới của giải pháp:
Qua nhiều năm giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 7, tôi nhận thấy kĩ năng nhận
diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong
bài tập làm văn của một bộ phận không nhỏ học sinh còn yếu.
Dù mới học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong nhưng nhiều
học sinh không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm.
Các em cảm nhận và viết văn như nghĩa vụ, làm qua loa cho xong rồi đem nộp.
Kể cả học sinh khá, dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng
làm bài nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm. Vì thế từ thực tế giảng dạy, tôi mạnh
dạn đưa ra giải pháp: “ Biện pháp giúp học sinh lớp 7 viết bài văn biểu cảm tốt
hơn”. Trọng tâm của giải pháp như sau: Dù dạy văn biểu cảm về sự vật và con
3
người hay văn biểu cảm về tác phẩm văn học, giáo viên luôn phải định hướng và
hướng dẫn các em nắm vững quy trình để làm một bài văn biểu cảm đúng và hay,
quy trình đó bao gồm: Tìm hiểu đề, tìm ý. Lập dàn bài và cuối cùng là viết bài.
Trên cơ sở đó giáo viên xây dựng một đề văn biểu cảm cụ thể, sau đó đặt ra
những câu hỏi để dẫn dắt học sinh lần lượt làm sáng tỏ quy trình trên. Khi quy
trình đó đã hoàn thành tức là học sinh đã có những cơ sở vững chắc để viết bài
văn biểu cảm hoàn chỉnh.
5.4.2. Khả năng áp dụng:
Biện pháp giúp học sinh viết bài văn biểu cảm tốt hơn:
Một số biện pháp chung:
a.Tìm hiểu đề và tìm ý
* Tìm hiểu đề
Một đề bài thường ra dưới dạng khái quát để thích hợp với tất cả đối tượng học
sinh. Do đó, quá trình tìm hiểu đề bài sẽ diễn ra như một hoạt động nhằm cá thể
hóa đề bài cho từng học sinh kết quả của quá trình này là mỗi học sinh có một đề
bài cho riêng mình. Trong đề bài văn biểu cảm, giáo viên cần định hướng cho các
em tìm hiểu đề bằng cách tìm ra lời giải cho các câu hỏi sau: Em định phát biểu
cảm nghĩ, tình cảm, mong muốn về đồ vật (con vật, loài cây, cảnh vật…) nào ? về
người nào ? về tác phẩm nào ? Em viết bài biểu cảm đó nhằm mục đích gì? (giãi
bày cảm xúc, tình cảm nào?) Em viết bài biểu cảm đó để ai đọc ?(cô giáo, thầy
giáo, bố mẹ, bạn bè…)
Lời giải đáp cho ba câu hỏi trên sẽ quyết định nội dung bài viết (trình bày cảm
xúc gì ?), giọng điệu bài viết (viết cho bạn bè phải là giọng văn thân mật, có thể
suồng sã; còn viết cho thầy cô hoặc bố mẹ phải thân thiết nhưng nghiêm trang )
* Tìm ý:
Tìm ý cho bài văn biểu cảm chính là tìm cảm xúc, tìm những ý nghĩ và tình cảm
để diễn đạt thành nội dung của bài. Ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm muôn màu muôn
vẻ trong các bài văn biểu cảm đều bắt nguồn từ việc quan sát cuộc sống xung
quanh, từ những gì người viết đã sống và trải qua, đã tiếp xúc trong tác phẩm. Vì
thế, muốn tìm ý cho bài văn biểu cảm không phải cứ ngồi một chỗ mà đợi ý nghĩ,
4
cảm xúc đến. Sau khi có một đề bài, hãy quan sát kĩ đối tượng đề bài nêu ra để từ
đó, cảm xúc xuất hiện. Nếu không có điều kiện quan sát trực tiếp, hãy lục lọi
trong trí nhớ, trong kỉ niệm những gì mình biết về đối tượng và từ từ nhớ lại các
chi tiết. Nếu cả kỉ niệm trong kí ức cũng không có thì tìm đọc sách báo, xem phim
ảnh về đối tượng để ghi nhận các chi tiết cần thiết.
Đối với văn biểu cảm về tác phẩm văn học, cảm xúc và suy nghĩ về tác phẩm văn
học được nảy sinh từ bản thân tác phẩm. Tìm ý trong trường hợp này chính là đọc
kĩ, đọc đi đọc lại nhiều lần tác phẩm, ngẫm nghĩ tìm ra vẻ đẹp, tìm ra triết lí của
nội dung, tìm ra cái mới, cái độc đáo.
b. Lập dàn ý:
Bài văn biểu cảm cũng có kết cấu ba phần (mở bài, thân bài, kết bài ) như các
kiểu văn bản khác. Mở bài nhằm giới thiệu đối tượng và cảm xúc chính về đối
tượng. Phần thân bài là sự phát triển các cảm xúc, đặc điểm chính đã nêu ra ở
phần mở bài. Phần kết bài khép lại các ý đã trình bày.
c. Viết bài:
Viết bài văn biểu cảm là việc viết các đoạn văn và nối chúng với nhau, tạo thành
chỉnh thể thống nhất. Khi viết bài cần thực hành thành thạo kĩ năng hành văn, đặt
câu, sử dụng từ, chọn giọng điệu, cách bộc lộ cảm xúc phù hợp. Khi viết bài, kết
nối các đoạn trong bài văn biểu cảm cần chú ý đến lô gíc phát triển của cảm xúc,
của tình cảm. Theo lô gíc này, mỗi đoạn trong bài đều phải hướng vào làm nổi rõ
lên cảm xúc chính, tình cảm chính.
Biện pháp cụ thể:
Ví dụ: Hãy viết bài văn biểu cảm về loài cây mà em yêu thích nhất?
*. Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi để dẫn dắt học sinh lập dàn ý theo bố cục
3 phần như sau:
+ Yêu cầu của đề bài là gì?
- Phần mở bài:
+ Em sẽ mở bài như thế nào?
- Phần thân bài:
+ Đối với phần thân bài, có mấy cách lập ý? Em sẽ lập ý theo cách nào?
5
+ Em sẽ cảm nghĩ về loài cây với những đặc điểm nào? ( Thân, hoa, quả…vai trò
của cây trong cuộc sống của em, giá trị kinh tế đối với gia đình)
+ Tình cảm của bản thân với loài cây như thế nào? ( Yêu mến, chăm sóc, tự hào,
mong ước…)
+ Em sẽ kết bài ra sao ?
*. Sau khi dẫn dắt học sinh lập ý theo hệ thống câu hỏi trên, giáo viên đưa ra một
số mẫu cho học sinh tham khảo.
Mở bài: Thời thơ ấu khi còn đi học ở tiểu học đây chính là quãng thời gian hạnh
phúc nhất của mỗi con nguời. Khi nhớ đến kỉ niệm ấy, trong em lại hiện lên
Những hình ảnh về bạn bè, thầy cô, mái trường tha thiết với loài cây mà em yêu
quí, loài cây mà đã gắn bó với những ngày cắp sách đến trường của mỗi người,
loài cây mà một nhà văn đã gọi nó với cái tên thân thương cây " Hoa học trò."
Kết bài: Cánh cổng trường đã đóng lại, chưa bao giờ phượng đẹp như lúc này.
Phượng đẹp nhưng chằng ai ngắm nhìn phượng. Chỉ còn một mình phượng nhìn
theo bóng của mỗi người học trò. Tạm biệt cây phượng, tạm biệt những kỷ niệm
vui buồn dưới gốc phượng. dù có ai đi đâu xa, em sẽ luôn nhớ về ngôi trường
thân yêu, nơi có một người bạn vô cùng thân yêu.
5.4.3. Kết quả thực hiện:
Qua một năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu trên tôi
nhận thấy chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở môn văn khối 7 được nâng cao
rõ rệt. Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình
vững vàng hơn trong chuyên môn, tự tin say mê hơn với sự nghiệp trồng người.
Đối với các em học sinh, các em bước đầu đã ý thức được tầm quan trọng của
môn Văn, biết bộc lộ cảm xúc của mình đúng cách, đúng nơi, đúng lúc.
Năm học 2013 – 2014 tôi áp dụng giải pháp này, sau khi áp dụng kết quả cụ thể
như sau:
* Trước khi thực hiện:
6
Lôùp 7a1
SL
Só soá
25
Khaù
Giỏi
0
%
0
SL
3
Trung
%
12
bình
SL %
15
60
Yeáu
SL
7
%
28
Keùm
SL
0
%
0
* Sau khi thöïc hieän:
Lôùp 7a1
SL
Só soá
25
Khaù
Giỏi
%
2
SL
8
%
8
Trung
SL
32
Yeáu
bình
%
SL
13
7
52
%
2
SL
8
Keùm
%
0
0
6. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Bài học kinh nghiệm:
Qua thực hiện giải pháp trên tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
- Giáo viên cần tăng cường sưu tầm thêm tranh ảnh, đọan phim, bài ca dao,
dân ca, khúc nhạc, sơ đồ tư duy, tư liệu có liên quan đến bài học.
- Giáo viên cần chọn giải pháp dạy học thích hợp áp dụng riêng cho từng văn
bản, chứ không dạy cho tất cả các văn bản.
- Giáo viên không nên gò ép học sinh trong giờ học mà trái lại cần động viên,
khuyến khích học sinh tham gia tiết học với tâm lí vui vẻ, thoải mái, nhẹ nhàng.
- Khi dạy giáo viên cần làm rõ trọng tâm nội dung bài học, tránh để học sinh
hiểu sai vấn đề mà văn bản muốn đề cập đến.
- Khích lệ học sinh nên đọc sách, đọc báo, tìm hiểu tư liệu có liên quan đến bài
học của mình.
- Khi dạy văn biểu cảm cần lựa chọn nhiều mẫu để học sinh tham khảo.
Đề xuất, kiến nghị:
*. Đối với phụ huynh
- Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời
gian cho con cái học tập, không nên để cho các em phụ giúp nhiều công
việc gia đình.
- Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu
nắm, bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình
*. Đối với phòng giáo dục
8
- Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Văn trong từng năm để
giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích
cực nâng cao chất lượng dạy học môn Văn
- Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo
viên giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn Văn
- Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, đặc biệt là đầu tư hơn nữa về sách
tham khảo để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy Văn.
*. Đối với địa phương
- Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet và các điểm dịch vụ không
lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh.
- Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư
cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.
7. KẾT LUẬN:
Tóm lại, để học sinh học tốt hơn văn biểu cảm nói riêng và môn Văn nói chung,
không chỉ đòi hỏi phương pháp giảng dạy của người giáo viên, mà năng khiếu, kĩ
năng viết văn vốn có của học sinh là rất quan trọng.
Tuy nhiên, phương pháp khoa học, phù hợp của giáo viên sẽ góp phần không
nhỏ trong việc nâng cao kết quả học tập của học sinh, nhất là môn Văn, một môn
9
vừa đòi hỏi tư duy nhiều, vừa đòi hỏi năng khiếu thiên bẩm của người học. Vì vậy
theo tôi đây là một phương pháp giúp người dạy và người học khi tiếp cận với
phần văn biểu cảm sẽ đạt hiệu quả hơn.
Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã áp dụng thành công trong quá
trình giảng dạy năm học 2013 - 2014. Tôi hy vọng giải pháp này sẽ được phổ biến
và thực hiện thành công trong thực tiễn dạy học ở nhiều giáo viên khác. Rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của đồng nghiệp. Tôi xin
chân thành cảm ơn !
Liêng Srônh, ngày
tháng
năm 2014
Người thực hiện:
Nguyễn Thị Nguyệt
Ý KIẾN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ
10
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………….
11
12
III. Khả năng áp dụng.
Hiện nay không ít giáo viên đã và đang ứng dụng công nghệ thông tin vào
công tác giảng dạy của mình. Điều đó cho thấy khả năng áp dụng những phương
pháp giảng dạy trong đề tài này rất khả thi. Vì vậy chúng ta nên mạnh dạn đổi
mới phương pháp giảng dạy nhằm mang lại hiệu quả cao trong tiết dạy của mình
cũng như chất lượng học tập của học sinh ngày càng được nâng cao.
IV. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
- Thời gian :
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 9 /2011 đến tháng 8/2013.
- Địa điểm:
Đề tài này nghiên cứu tại Trường trung học cơ sở Liêng Srônh.
- Phạm vi đề tài và đối tượng nghiên cứu:
" Biện pháp dạy và học văn biểu cảm ở lớp 7 đạt hiệu quả”, áp dụng cho học sinh
lớp 7 tại Trường trung học cơ sở Liêng Srônh.
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu:
- Nơi nghiên cứu: Xã Liêng Srônh - huyện Đam Rông - tỉnh Lâm Đồng.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Cách tiến hành:
- Thu thập các bài viết của học sinh lớp 7.
- Đọc, thống kê chất lượng bài làm của học sinh.
2. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
- Khi nghiên cứu phương pháp này tôi đã nghiên cứu các tài liệu, giáo trình có
liên quan đến vấn đề nghiên cứu như sách giáo khoa Ngữ văn 7, sách giáo viên
13
Ngữ văn 7, chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS của Bộ GD & ĐT ban
hành năm 2006 và tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ
Văn ban hành năm 2010 bằng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh mô
hình hoá để rút ra những vấn đề lí luận có tính định hướng làm cơ sở để giải quyết
các nhiệm vụ nghiên cứu.
3. Phương pháp đàm thoại:
- Trao đổi với đồng nghiệp về những thuận lợi, khó khăn trong dạy học và cách sử
dụng phương pháp hiện nay.
4. Phương pháp quan sát:
- Thông qua các tiết dự giờ, thao giảng trên lớp có thể quan sát trực tiếp tình hình
học tập của học sinh trong một tiết học để qua đó biết được khả năng tiếp thu bài,
nắm bắt kiến thức qua bài giảng của học sinh. Bên cạnh đó tiếp thu học tập đồng
nghiệp và phát hiện ra những hạn chế trong giảng dạy của giáo viên.
5. Phương pháp thực nghiệm:
- Để kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của các bài đã thiết kế qua các bài điều
chỉnh cho hợp lí nhằm đạt kết quả cao trong dạy và học.
PHẦN B : NỘI DUNG
II. THỰC TRẠNG :
Qua nhiều năm giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 7, tôi nhận thấy kĩ năng
nhận diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc
trong bài tập làm văn của một bộ phận không nhỏ học sinh còn yếu.
14
Dù mới học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong nhưng nhiều
học sinh không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm.
Các em cảm nhận và viết văn như nghĩa vụ, làm qua loa cho xong rồi đem nộp.
Kể cả học sinh khá, dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng
làm bài nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm.
III. NGUYÊN NHÂN
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều song theo tôi, do một số
nguyên nhân chủ yếu sau:
1. Đối với người dạy
Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm
đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau:
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ
học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp
trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của
học sinh.
- Một số giáo viên chưa thực sự khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau
mỗi trái tim người học.
2. Đối với học sinh
- Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho
giờ học Văn
- Vì trường nằm trên địa bàn thuộc vùng kinh tế khó khăn, hầu hết các em
phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp nên không có thời gian học bài.
- Đa số các em lười hoặc không bao giờ đọc sách, kể cả văn bản trong sách
giáo khoa.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như
xem ti vi, chơi game… ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức
học bị lôi cuốn, xao nhãng việc học .
15
d. Sửa bài:
Đa số học sinh khi làm bài không biết cách phân phối thời gian hợp lí nên viết
xong là nộp bài, thậm chí hết thời gian nhưng vẫn chưa làm xong bài. Do đó,
khâu tự sửa bài sau khi viết không được coi trọng. Giáo viên cần nhắc nhở các
em chú trọng hơn đến việc sửa bài trước khi nộp.
Giáo viên cần hướng dẫn, khuyến khích và khuyến khích hơn nữa việc học sinh
đọc sách, bắt đầu từ việc đọc các văn bản trong sách giáo khoa. Thực tế cho thấy
học sinh rất lười đọc sách dẫn đến đọc yếu, gây khó khăn cho việc cảm thụ văn
bản. Chính vì thế, giáo viên cần khơi nguồn và nuôi dưỡng thói quen đọc sách của
học sinh bằng cách: Trong mỗi tiết dạy giáo viên lấy dẫn chứng, ví dụ, trích các
câu nói, đoạn thơ, đoạn văn hay từ các sách tham khảo, sách nâng cao, các tác
phẩm văn học và cho các em trực tiếp nhìn thấy. Khi giáo viên làm được như thế,
không cần phải “Khua chiêng gõ mõ”, tự các em sẽ tìm đến với sách, làm bạn với
sách.
Một học sinh muốn học tốt văn biểu cảm cần phải có kĩ năng diễn đạt trôi chảy,
hấp dẫn. Giáo viên nên giao các bài tập rèn viết ở nhà cho học sinh sau mỗi tiết
học. Đặc biệt, giáo viên nên hướng dẫn các em cách viết nhật kí để giúp các em
nuôi dưỡng tình cảm đẹp khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
1. Đối với học sinh
Để làm tốt một bài văn biểu cảm, khi làm bài, trước tiên, các em cần định rõ cho
mình các yêu cầu cụ thể để biến đề tài chung cho cả lớp thành đề bài của riêng
mình. Sau đó, cần xác định rõ những tình cảm cảm xúc, những rung động nào là
mạnh mẽ, là riêng của mình. Hãy tập trung trình bày những tình cảm, cảm xúc,
suy nghĩ đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (qua miêu tả cảnh vật, qua một câu
chuyện…). Các em cần chú ý đến sự riêng biệt, độc đáo của nội dung hơn là ham
viết dài. Đồng thời, cần lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh (so sánh ví von, so sánh
ngầm…) thích hợp để diễn tả những tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ của mình. Điều
quan trọng nhất để làm bài văn biểu cảm đạt kết quả cao là tự bản thân các em
hãy tích cực đọc sách, tích cực tham gia các hoạt động trong nhà trường, ngoài xã
16
hội để có thêm vốn sống, vốn hiểu biết. Qua đó, các em cần chú ý rèn luyện cho
tâm hồn mình trở nên chứa chan những tình cảm yêu, ghét, buồn, thương, hờn
giận, nhớ nhung…dạt dào những suy nghĩ đẹp đẽ cao thượng về tình bạn, tình yêu
thương cha mẹ thầy cô, yêu quê hương đất nước…Đó là cái gốc to, là những
chùm rễ sâu cung cấp chất bổ dưỡng cho cây văn biểu cảm luôn xanh tươi, nở
hoa, kết trái.
17
V. KẾT QUẢ
18
PHẦN C : KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN CHUNG
CẤU TRÚC
Phần A: Đặt vấn đề
I. Lí do chọn đề tài
II. Giới hạn nghiên cứu
III. Mục đích nghiên cứu
IV. Thời gian, địa điểm
V. Phương pháp nghiên cứu
Phần B : Nội dung nghiên cứu
I. Cơ sở lí luận
II. Thực trạng
III. Nguyên nhân
IV. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng Dạy và Học văn biểu cảm THCS
V. Kết quả
Phần C: Kết luận
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ Văn 7 tập 1
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004–
2007 ) môn ngữ văn – quyển 1 và 2 – NXB Giáo dục
3. Phương pháp dạy học Ngữ Văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và
tích cực – Đoàn Thị Kim Nhung - NXB Đại học quốc gia TPHCM
4. Dạy học tập làm văn ở trung học cơ sở - Nguyễn Trí – NXB Giáo dục
5. Văn biểu cảm trong chương trình Ngữ Văn trung học cơ sở - Nguyễn
Trí, Nguyễn Trọng Hoàn – NXB Giáo dục
20
- Xem thêm -