VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ VĂN VỊNH
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ VĂN VỊNH
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9 38 01 04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS HỒ TRỌNG NGŨ
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn liệu,
kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về
tất cả những dẫn liệu, kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Ngô Văn Vịnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN..................................................................................................................................8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................................................8
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu...........................................................................22
1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án.....................................................24
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM...........................................27
2.1. Khái niệm, đặc trưng pháp lý, phân loại biện pháp bắt người và mối quan
hệ giữa biện pháp bắt người với các biện pháp ngăn chặn khác trong tố tụng
hình sự..........................................................................................................................................................27
2.2. Điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự.............45
2.3. Các yếu tố cơ bản tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong tố
tụng hình sự Việt Nam..........................................................................................................................57
Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG.................69
3.1. Khái quát quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp
bắt người trước năm 2015...................................................................................................................69
3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp
bắt người......................................................................................................................................................77
3.3. Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam.....................................................................................................................................................92
Chương 4: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM.............................................................................................1155
4.1. Dự báo tình hình áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình
sự ở Việt Nam......................................................................................................................................1155
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật
tố tụng hình sự ở Việt Nam...........................................................................................................1222
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................1488
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.......................................................................................15050
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................1511
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ANND
An ninh nhân dân
BCA
Bộ Công an
BLHS
Bộ luật Hình sự
BPNC
Biện pháp ngăn chặn
CAND
Công an nhân dân
CQĐT
Cơ quan điều tra
CSĐT
Cảnh sát điều tra
CSND
Cảnh sát nhân dân
ĐHQG
Đại học Quốc gia
ĐTHS
Điều tra hình sự
ĐTV
Điều tra viên
KSV
Kiểm sát viên
KHXH
Khoa học xã hội
NXB
Nhà xuất bản
TAND
Tòa án nhân dân
TTHS
Tố tụng hình sự
VKS
Viện kiểm sát
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ
PHẦN I: HỆ THỐNG CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Số liệu điều tra, truy tố, xét xử trên toàn quốc
Bảng 3.2: Số đối tượng bị bắt trên toàn quốc
Bảng 3.3: Tương quan giữa các chủ thể bắt người phạm tội quả tang
Bảng 3.4: Tương quan giữa các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam và
chủ thể áp dụng
Bảng 3.5: Tương quan giữa các chủ thể bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Bảng 3.6: Tương quan giữa chủ thể bắt người đang bị truy nã
Bảng 3.7: Tình hình áp dụng biện pháp bắt
Bảng 3.8: Tình hình áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bảng 3.9: Thống kê chức danh ĐTV của cán bộ, chiến sĩ Cơ quan CSĐT
trong CAND (tính đến tháng 10/2017)
Bảng 3.10: Trình độ nghiệp vụ Công an của cán bộ, chiến sĩ Cơ quan CSĐT
(tính đến tháng 10/2017)
PHẦN II: HỆ THỐNG CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Diễn biến số vụ án và số bị can đã khởi tố
Biểu đồ 3.2: Số đối tượng bị bắt trong toàn quốc
Biểu đồ 3.3: Số đối tượng bị bắt quả tang trong toàn quốc
Biểu đồ 3.4: Số đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm
giam trong toàn quốc
Biểu đồ 3.5: Số đối tượng bị bắt khẩn cấp trong toàn quốc
Biểu đồ 3.6: Số đối tượng bị bắt truy nã trong toàn quốc
Biểu đồ 3.7: Tương quan giữa các trường hợp bắt
Biểu đồ 3.8: Tương quan giữa các chủ thể bắt người phạm tội quả tang
Biểu đồ 3.9: Tương quan giữa các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Biểu đồ 3.10: Tương quan giữa các chủ thể bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Biểu đồ 3.11: Tương quan giữa các chủ thể bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Biểu đồ 3.12: Tương quan giữa các chủ thể bắt người đang bị truy nã
Biểu đồ 3.13: Số đối tượng Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp
Biểu đồ 3.14: Số đối tượng Viện kiểm sát phê chuẩn bắt khẩn cấp sau trả tự do
không xử lý hình sự
Biểu đồ 3.15: Số đối tượng bắt quả tang trả tự do chuyển xử lý hành chính
Biểu đồ 3.16: Số bị can Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam
Biểu đồ 3.17: Số bị can bị bắt tạm giam do CQĐT đình chỉ vì không tội
Biểu đồ 3.18: Số bị can bị bắt tạm giam do Viện kiểm sát đình chỉ vì không tội
Biểu đồ 3.19: Trình độ nghiệp vụ Công an của CBCS Cơ quan CSĐT (tính
đến tháng 10 năm 2017)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp bắt người là một trong các BPNC trong TTHS được áp dụng rất phổ
biến trong thực tiễn và đã phát huy được vai trò to lớn trong việc giải quyết vụ án
hình sự. Việc áp dụng biện pháp bắt người đúng đắn, kịp thời là sự bảo đảm rất quan
trọng cho việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện nhanh chóng,
chính xác và xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội
cũng như không để lọt tội phạm; góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và chế độ XHCN. Bên cạnh đó,
việc áp dụng biện pháp bắt người cũng là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị xã hội, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến một số quyền con người và quyền cơ bản
của công dân được quy định trong Hiến pháp, như: quyền bất khả xâm phạm về thân
thể; quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người...;
nó liên quan nhiều đến việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt việc điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt
người trong TTHS còn thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế vì nó liên
quan trực tiếp đến vấn đề nhân quyền. Do đó, những vi phạm pháp luật về biện pháp
bắt người, nhất là những vi phạm xâm phạm đến quyền con người trong TTHS dễ bị
các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà
nước ta.
Hiện nay, dưới góc độ khoa học, việc nhận thức về biện pháp bắt người còn
tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, hệ thống lý luận về biện pháp bắt người còn
chưa được hoàn thiện. Đặc biệt nhiều chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt
người còn chưa nhận thức đầy đủ về: bản chất pháp lý; mục đích áp dụng biện pháp
bắt người; ý nghĩa của điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người;… như còn
có những nhận thức sai lầm khi cho rằng mục đích áp dụng BPNC nói chung và biện
pháp bắt người nói riêng là “tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành bản án hình sự” [51, tr. 199] nên đã dẫn đến sự lạm dụng biện pháp
bắt người, dùng biện pháp bắt người để thay thế cho các hoạt động điều tra
1
khác… Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành với nhiều
quy định mới về biện pháp bắt người cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Nhận thức rõ được vai trò, tầm quan trọng của biện pháp bắt người, Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm đến việc hoàn thiện hoạt động TTHS nói chung và biện pháp bắt
người nói riêng, theo đó đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và đề ra nhiều
biện pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế việc vi phạm pháp luật khi áp dụng biện pháp bắt
người. Cụ thể, để chấn chỉnh một bước quan trọng công tác tư pháp nhằm xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN có nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, tăng
cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, khắc phục tình trạng vi phạm
pháp luật trong việc áp dụng các BPNC nói chung và biện pháp bắt người nói riêng, Bộ
Chính trị đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo công tác tư pháp, trong đó có việc chỉ
đạo, chấn chỉnh các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam và coi đó là những nội dung quan
trọng và cấp thiết, như: Chỉ thị số 53/CT - TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị về
những nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2000; Nghị quyết số 08 - NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới; Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020..., đặc biệt, khi Hiến pháp năm 2013 được ban
hành với một trong những nội dung quan trọng là đề cao quyền con người đã có những
tác động không nhỏ đến việc áp dụng BPNC nói chung và biện pháp bắt người trong
TTHS nói riêng. Do đó, trong những năm gần đây, việc áp dụng biện pháp bắt người
ngày càng được chấn chỉnh, đạt được những kết quả nhất định, góp phần quan trọng vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của quá
trình TTHS. Việc áp dụng biện pháp bắt người nhìn chung đã đảm bảo được các quy
định của pháp luật TTHS về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, việc áp dụng biện pháp bắt người vẫn có những tồn tại, hạn chế và vi phạm
nhất định, như: tình trạng lạm dụng biện pháp bắt người còn kéo dài, gây bất bình trong
dư luận xã hội; có lúc, có nơi, một số địa phương vẫn còn để xảy ra tình trạng vi phạm
về thủ tục áp dụng biện pháp bắt người… Theo Thống kê của Cục Thống kê tội phạm
và công nghệ thông tin
- VKS nhân dân tối cao, từ năm 2008 đến hết năm 2017, VKS các cấp đã không phê
chuẩn lệnh bắt khẩn cấp đối với 1.162 đối tượng, (chiếm tỷ lệ là 0,62% trong tổng số
2
đối tượng bị bắt khẩn cấp), trong đó có 400 đối tượng mặc dù có sự phê chuẩn lệnh
bắt khẩn cấp của VKS nhưng sau đó phải trả tự do không xử lý hình sự (chiếm tỷ lệ
0,21% trong tổng số đối tượng bị bắt khẩn cấp); hay số đối tượng bị bắt phạm tội
quả tang sau đó trả tự do và chuyển xử lý hành chính là 29.472 đối tượng (chiếm tỷ
lệ 7,42% trong tổng số đối tượng bị bắt quả tang)... Điều này đã gây ra những hậu
quả tiêu cực, như: xâm phạm nghiêm trọng nguyên tắc pháp chế XHCN; trực tiếp
xâm phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và người bị bắt
nói riêng; đồng thời làm giảm uy tín của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng… Những tồn tại, thiếu sót và vi phạm nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó phải kể đến việc vận dụng không đúng các quy định của pháp
luật TTHS về biện pháp bắt người; những sơ hở, thiếu sót trong chính các quy định
của pháp luật TTHS về biện pháp bắt người; trình độ pháp luật, nghiệp vụ của một
số cán bộ áp dụng còn hạn chế; sự thiếu trách nhiệm và sa sút về đạo đức nghề
nghiệp của không ít cán bộ áp dụng biện pháp bắt người...
Về biện pháp bắt người, cho đến nay cũng đã có nhiều công trình trong và
ngoài nước nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này đã tiếp cận, nghiên cứu từ
nhiều phương diện khác nhau, làm rõ nhiều vấn đề lý luận, pháp luật thực định và
thực trạng áp dụng biện pháp bắt người ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên do
khác nhau về phương pháp tiếp cận, về giới hạn địa bàn nghiên cứu, về thời gian và
phạm vi khảo sát cho nên nhiều vấn đề có liên quan đến biện pháp bắt người còn
chưa được đề cập, nghiên cứu tới.
Như vậy, hiện nay vẫn cần một công trình nghiên cứu chuyên biệt về biện
pháp bắt người trong pháp luật TTHS Việt Nam. Chính vì vậy, việc tác giả lựa chọn
đề tài “Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận
án tiến sĩ là toàn cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật về biện pháp bắt người trong TTHS để kiến nghị các
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong thực tiễn.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu của luận án, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
được xác định:
Thứ nhất, nghiên cứu, đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu có liên
quan đến biện pháp bắt người ở cả trong nước và ngoài nước, từ đó rút ra những vấn
đề cần tiếp tục được nghiên cứu trong luận án;
Thứ hai, phân tích làm rõ thêm những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người
trong pháp luật TTHS Việt Nam, như: khái niệm, đặc trưng pháp lý; phân loại biện
pháp bắt người; mối quan hệ giữa biện pháp bắt người với các BPNC khác trong
TTHS; điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người trong TTHS; các yếu tố cơ
bản tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS.
Thứ ba, phân tích những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về biện pháp
bắt người;
Thứ tư, khảo sát, đánh giá đúng thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong
pháp luật TTHS Việt Nam; những ưu điểm, những tồn tại, hạn chế và vi phạm pháp
luật trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người cũng như nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế, vi phạm đó;
Thứ năm, đưa ra những dự báo khoa học về tình hình áp dụng biện pháp bắt
người trong pháp luật TTHS Việt Nam và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng biện pháp bắt người ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, pháp luật thực định
về biện pháp bắt người trong TTHS và thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người của
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về pháp luật thực định, luận án tập trung nghiên cứu các quy định về biện
pháp bắt người trong Bộ luật TTHS năm 2003 và Bộ luật TTHS năm 2015. Tuy
nhiên đối với thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS, luận án chỉ khảo
sát, đánh giá về thực trạng áp dụng biện pháp bắt người theo quy định trong Bộ luật
TTHS năm 2003 (từ năm 2008 đến hết năm 2017) trên phạm vi toàn quốc.
4
Biện pháp bắt người trong TTHS do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành, tuy
nhiên luận án tập trung nghiên cứu việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS
của CQĐT, trong đó tập trung nghiên cứu, khảo sát số liệu từ thực tiễn áp dụng của
Cơ quan CSĐT.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước
và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật với tư tưởng nhân dân là chủ thể của quyền lực xã
hội, mọi hoạt động của nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân và việc hoàn
thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân; các quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp, nhà nước
pháp quyền và vấn đề quyền con người.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả luận án đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, phương pháp tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để
nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu nhằm hệ thống hóa các quan điểm,
căn cứ lý luận, các kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học đã được công bố
có liên quan đến biện pháp bắt người; đồng thời tổng hợp các tài liệu, số liệu phản
ánh thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS để rút ra kết luận tổng quát;
Thứ hai, phương pháp phân tích. Phương pháp này được sử dụng bao quát
trong tất cả các chương của luận án để phân tích các tài liệu, số liệu, phát hiện, luận
giải thuyết phục về các nội dung có liên quan đến đề tài luận án;
Thứ ba, phương pháp phân tích lịch sử. Phương pháp này được sử dụng trong
Chương 3 để khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định của pháp
luật TTHS nước ta về biện pháp bắt người;
Thứ tư, phương pháp luật học so sánh. Đây là phương pháp được sử dụng
trong Chương 4 để làm sáng tỏ một số quy định về biện pháp bắt người trong pháp
5
luật của một số nước trên thế giới, từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt
Nam để hoàn thiện pháp luật;
Thứ năm, phương pháp thống kê hình sự. Phương pháp này được sử dụng để
thu thập các số liệu liên quan đến thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong
TTHS của cơ quan có thẩm quyền;
Thứ sáu, phương pháp chuyên gia. Đây là phương pháp được sử dụng trong tất
cả các chương của luận án để tổ chức lấy ý kiến một số nhà khoa học, nhà nghiên
cứu lý luận và cán bộ thực tiễn có chuyên môn sâu về lĩnh vực nghiên cứu để bổ
sung, hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu;
Thứ bảy, phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình. Để có cơ sở cho việc đưa
ra những nhận xét, đánh giá trong luận án, tác giả luận án đã nghiên cứu, tìm hiểu
hồ sơ một số vụ án điểm trong đó có áp dụng biện pháp bắt người đạt kết quả cao
hoặc bộc lộ những thiếu sót dẫn đến hạn chế kết quả hoạt động TTHS. Đồng thời,
tác giả luận án đã lựa chọn nghiên cứu các hồ sơ điển hình theo từng trường hợp bắt
người với số lượng đối tượng khác nhau, trên cơ sở đó chỉ ra những ưu điểm cũng
như những tồn tại, hạn chế để có biện pháp khắc phục. Phương pháp này còn được
sử dụng để nghiên cứu việc áp dụng biện pháp bắt người ở một số đơn vị và địa
phương điển hình;
Thứ tám, phương pháp tọa đàm khoa học. Để bảo đảm tính khoa học của luận
án, tác giả luận án đã tiến hành hội thảo đề tài luận án tại Khoa Luật. Qua đó, tác giả
luận án đã tham khảo được ý kiến góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học về
các nội dung luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện
về biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS Việt Nam. Do đó, luận án đã có nhiều
đóng góp mới về mặt khoa học, cụ thể như:
Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện thêm một số vấn đề lý luận về biện pháp bắt
người trong pháp luật TTHS Việt Nam, trong đó lần đầu tiên luận án phân tích, luận
giải về điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người trong TTHS;
6
Thứ hai, phân tích làm rõ những sửa đổi, bổ sung mới trong các quy định về
biện pháp bắt người của Bộ luật TTHS năm 2015;
Thứ ba, bổ sung luận cứ khoa học và luận cứ thực tiễn cho việc nâng cao hiệu
quả áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS của các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng nói chung và CQĐT nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Thứ nhất, về lý luận. Kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần bổ sung,
hoàn thiện hơn hệ thống lý luận về biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS Việt
Nam;
Thứ hai, về thực tiễn. Nội dung của luận án là cơ sở để các nhà lập pháp
nghiên cứu, xem xét sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam hiện hành về biện pháp bắt người, cũng như kịp thời ban hành các văn bản
dưới luật hướng dẫn cụ thể về biện pháp này. Đồng thời, những giải pháp mà luận
án đề xuất từ việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp bắt trong pháp
luật TTHS có thể được CQĐT các cấp nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn áp dụng
tại cơ quan mình nhằm nâng cao chất lượng áp dụng biện pháp này trong thực tiễn.
Ngoài ra, nội dung của luận án có thể được sử dụng trong nghiên cứu, học tập của
sinh viên, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy tại các trường CAND, các cơ sở đào tạo về
luật, các cán bộ thực tiễn làm công tác điều tra.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
cấu trúc thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2. Những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam
Chương 3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt
người và thực trạng áp dụng
Chương 4. Dự báo tình hình và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Trong thời gian qua ở nước ta đã có rất nhiều các công trình khoa học, như:
giáo trình, sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khoa
học, bài báo khoa học… nghiên cứu, đề cập đến biện pháp bắt người trong TTHS.
Có thể sắp xếp các công trình khoa học có liên quan mật thiết đến biện pháp bắt
người theo các nhóm sau đây:
1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người
Hệ thống lý luận về biện pháp bắt người vô cùng phong phú, đề cập đến rất
nhiều vấn đề. Do đó, xuất phát từ nhiệm vụ nghiên cứu, luận án chỉ tập trung khai
thác các công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận được đề cập đến trong luận
án, cụ thể:
- Về khái niệm và đặc trưng pháp lý của biện pháp bắt người.
Khái niệm biện pháp bắt người được đề cập đến trong rất nhiều công trình
khoa học, trong đó phải kể đến các giáo trình luật TTHS, bởi vì đây là các công trình
nghiên cứu những lý luận căn bản nhất về biện pháp bắt người. Có thể kể đến một số
giáo trình như: “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Học viện CSND,
xuất bản năm 2005 [39]; “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” do TS. Phạm
Mạnh Hùng - Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia sự
thật xuất bản năm 2016 [43]; “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của
Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND xuất bản năm 2008 [84]… Ngoài ra, một
số từ điển, luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo cũng có đưa ra khái niệm về biện pháp
bắt người, tiêu biểu như: Từ điển Bách khoa CAND của Nxb. CAND xuất bản năm
2005 [86]; luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong
tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của
8
Nguyễn Văn Điệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005 [34]; sách chuyên khảo “Áp
dụng biện pháp bắt trong hoạt động điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy” do TS. Nguyễn Quang Nghĩa chủ biên, Nxb. CAND
xuất bản năm 2011 [48]; sách chuyên khảo “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn
Trọng Phúc, Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2015 [51]; sách chuyên khảo “Về
tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp,
Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2011 [78]… Mặc dù, các công trình nêu trên
đưa ra các khái niệm khác nhau về biện pháp bắt người nhưng cơ bản đều thống nhất
chỉ ra các đặc trưng pháp lý của biện pháp bắt người, bao gồm: một là, bắt người là
một BPNC trong TTHS; hai là, đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người là bị can,
bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố; ba là, mục đích áp dụng là nhằm ngăn chặn tội
phạm, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Có thể thấy việc xác định đối tượng bị áp
dụng biện pháp bắt người bao gồm cả người chưa bị khởi tố là quá rộng. Hơn nữa,
một số khái niệm chưa thể hiện được chủ thể áp dụng biện pháp bắt người hoặc thể
hiện chưa chính xác chủ thể áp dụng biện pháp này khi cho rằng chủ thể áp dụng là
những cơ quan có thẩm quyền: “Bắt là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do
những cơ quan có thẩm quyền tiến hành đối với bị can, bị cáo…” [48, tr.7]. Bên
cạnh đó, nếu xác định mục đích áp dụng biện pháp bắt người là tạo điều kiện thuận
lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự thì sẽ dẫn đến việc lạm
dụng biện pháp bắt người, lấy bắt người để thay thế cho các hoạt động điều tra…
Mặc dù các kết quả nghiên cứu nêu trên chưa đầy đủ, thậm chí một số kết quả
nghiên cứu chưa chính xác nhưng các kết quả này cũng là cơ sở lý luận quan trọng
để luận án tham khảo nhằm luận giải đưa ra khái niệm biện pháp bắt người và làm rõ
các đặc trưng pháp lý của biện pháp này.
- Về phân loại biện pháp bắt người.
Việc phân loại biện pháp bắt người cũng đã được một số công trình nghiên
cứu đề cập đến. Theo đó, có thể chia các công trình này thành bốn nhóm: nhóm thứ
nhất, chia biện pháp bắt người thành bốn trường hợp, bao gồm: bắt bị can, bị cáo để
9
tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt
người đang bị truy nã [49, tr.62]; nhóm thứ hai, cũng chia biện pháp bắt người thành
bốn trường hợp nhưng bao gồm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong
trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; bắt một số
đối tượng đặc biệt [108, tr.229], [19, tr.55], [44, tr.32]; nhóm thứ ba, chia biện pháp
bắt người thành ba trường hợp, bao gồm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người
trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã [1,
tr.19], [84, tr.201-202]; nhóm thứ tư, chia biện pháp bắt người thành năm trường
hợp, bao gồm: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả
tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu
dẫn độ [43, tr.206]. Khái quát chung có thể thấy khi phân loại biện pháp bắt người,
cả bốn nhóm nêu trên mới chỉ căn cứ vào tiêu chí là đối tượng bị bắt mà chưa tiến
hành phân loại theo các tiêu chí khác.
- Về các yếu tố cơ bản tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS.
Đây là vấn đề lý luận về biện pháp bắt người được ít các công trình khoa học
đề cập đến. Trong số đó, đáng chú ý là hai công trình sau:
Luận văn thạc sĩ “Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” của Lê Thị
Thu Nguyệt, Học viện KHXH, năm 2017 [50]. Tác giả luận văn cho rằng có ba yếu
tố tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS: một là, chất lượng
của các quy phạm pháp luật TTHS về các BPNC trong TTHS [50, tr.14]; hai là, chất
lượng của các quy phạm pháp luật TTHS về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các BPNC; mối quan hệ tố tụng liên quan đến
thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn TTHS trong các cơ quan
tiến hành TTHS [50, tr.14]; ba là, năng lực, trách nhiệm, ý thức của người áp dụng
các BPNC [50, tr.14]. Có thể thấy đây là các yếu tố tác động ảnh hưởng đến việc áp
dụng biện pháp bắt người trong TTHS, tuy nhiên theo tác giả luận án yếu tố thứ nhất
và yếu tố thứ hai cần khái quát chung thành chất lượng của điều chỉnh pháp luật đối
biện pháp bắt người trong TTHS. Ngoài ra, do đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ
luận văn thạc sĩ cho nên việc phân tích nội dung cụ thể của các yếu tố này còn
10
chưa sâu sắc, như chưa làm rõ được các tiêu chí xác định chất lượng của các quy
phạm pháp luật TTHS về các BPNC…
Luận văn thạc sĩ “Áp dụng pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam của
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở tỉnh Vĩnh Phúc” của Nguyễn Thái Thịnh,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010 [72]. Tác giả
luận văn đã chỉ ra và phân tích các điều kiện bảo đảm áp dụng pháp luật trong việc
bắt, tạm giữ, tạm giam. Theo đó, bao gồm các điều kiện sau: thứ nhất, sự hoàn thiện
của hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan [72, tr.36]; thứ hai, năng lực, trình
độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của ĐTV, KSV, Thẩm
phán [72, tr.39]; thứ ba, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành [72, tr.41]; thứ tư, cơ
sở vật chất, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với ĐTV, KSV, Thẩm phán [72,
tr.43]. Đặc biệt, tác giả luận văn đã phân tích tương đối sâu sắc các điều kiện này,
như khi phân tích về điều kiện thứ nhất, tác giả đã tập trung luận giải bốn tiêu chuẩn
cơ bản để xác định mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật có liên quan, như: tính
toàn diện; tính đồng bộ; tính phù hợp và kỹ thuật xây dựng văn bản… Nghiên cứu
về các điều kiện này cho thấy về cơ bản đều tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt
người nói riêng và biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam nói chung. Do đó đây là
công trình khoa học tiêu biểu để luận án tham khảo làm rõ những yếu tố cơ bản tác
động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS.
- Về các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp bắt người.
Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp bắt người, ngoài
các công trình kể trên còn có các sách bình luận khoa học, như:“Bình luận Khoa
học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên,
Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2009 [2]; “Bình luận khoa học Bộ luật Tố
tụng hình sự” do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. CAND xuất bản năm 2007
[109]; “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” do TS. Trần Văn
Biên - TS. Đinh Thế Hưng đồng chủ biên, Nxb. Thế giới xuất bản năm 2017 [7]…;
các sách chuyên khảo, như: “Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự”
của ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 1997 [19]; “Về tự
do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp,
11
Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2011 [78];… và rất nhiều các bài báo khoa
học, điển hình như: “Các điểm mới trong quy định về những biện pháp ngăn chặn
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003” của ThS. Vũ Gia Lâm, Tạp chí Luật học
[46]; “Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự” của TS.
Trần Quang Tiệp, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2005 [76]; “Về việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” của PGS.TS.
Nguyễn Đức Thuận, Tạp chí Luật học số 7/2008 [75]; “Biện pháp ngăn chặn “Bắt”
trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của ThS. Phạm Thanh Bình, Tạp chí TAND, số
12/1997 [8]; “Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp” của TS. Trần
Quang Tiệp, Tạp chí TAND số 17/2006 [77]; “Một số vấn đề về bắt người trong
trường hợp khẩn cấp” của ThS. Đào Hữu Dân, Tạp chí Luật học, số 2/2000 [25]…
Các công trình này chủ yếu nghiên cứu các quy định của Bộ luật TTHS năm 1988
và Bộ luật TTHS 2003 về biện pháp bắt người với các nội dung, như: căn cứ áp
dụng; thẩm quyền áp dụng; trình tự, thủ tục áp dụng. Số ít các bài bài khoa học
nghiên cứu các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 về biện pháp bắt người,
như:“Chế định biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của
TS. Mai Đắc Điện, Tạp chí Kiểm sát số 5/2016 [33];“Một số vấn đề về áp dụng
biện pháp bắt người theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của TS.
Nguyễn Tiến Trường, Tạp chí CAND kỳ 2, số 3-2016 [83]… Có thể nói đây là hệ
thống phong phú các công trình khoa học nghiên cứu các quy định của pháp luật
TTHS về biện pháp bắt người mà tác giả luận án sẽ chọn lọc tham khảo để làm rõ
vấn đề này trong luận án của mình.
1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về thực trạng áp dụng biện pháp bắt
người trong pháp luật tố tụng hình sự
Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS là nội dung
nghiên cứu chủ yếu của các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và sách chuyên khảo.
Trong đó, tiêu biểu là các công trình nghiên cứu sau:
Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của Nguyễn Văn
Điệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005 [34]. Luận án đã khảo sát, đánh giá thực
12
trạng áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1999 đến
năm 2002. Theo đó, việc áp dụng biện pháp bắt người trong những năm gần đây đã
có những tiến bộ đáng kể, việc bắt sai, bắt oan về thủ tục đã giảm nhiều, tỷ lệ bắt sau
đó xử lý hình sự cao… tuy nhiên “công tác bắt nói riêng và áp dụng BPNC nói
chung vẫn còn nhiều vụ việc oan sai gây hậu quả nghiêm trọng, làm xôn xao dư luận
quần chúng” [34, tr.109]. Luận án cũng đã chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong
việc áp dụng biện pháp bắt người, như: thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm
giam; việc bắt khẩn cấp có thể tạm giữ ngay hay phải chờ VKS phê chuẩn việc bắt
khẩn cấp; khi bắt người phạm tội quả tang nhiều trường hợp rất khó phân biệt được
ngay giữa vi phạm hành chính và vi phạm hình sự… Qua nghiên cứu, luận án xác
định có ba nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, vướng mắc và tồn tại trong việc
áp dụng biện pháp bắt người nói riêng và BPNC bắt người, tạm giữ người, tạm giam
người nói chung, đó là: thứ nhất, nguyên nhân thuộc về công tác xây dựng pháp luật
[34, tr.146]; thứ hai, những nguyên nhân do ý thức chủ quan của chủ thể áp dụng
các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam [34, tr.148]; thứ ba, những nguyên nhân khách
quan [34, tr.149]. Nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong luận án
này có thể thấy số liệu mà luận án khảo sát đã cũ nên chưa phản ánh được sự thay
đổi, biến động trong thời gian gần đây; ở cấp độ luận án tiến sĩ thì thời gian khảo sát
là ngắn; việc xác định nguyên nhân nêu trên chưa đảm bảo tính khoa học vì nếu chia
nguyên nhân thì chỉ có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan… Tuy
nhiên kết quả nghiên cứu của luận án này cũng là tư liệu quan trọng để nghiên cứu
sinh xác định xu hướng áp dụng biện pháp bắt người, làm rõ những tồn tại, thiếu sót
khi áp dụng biện pháp bắt người và nguyên nhân của nó trong luận án của mình.
Sách chuyên khảo “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Trọng Phúc, Nxb. Chính trị
Quốc gia xuất bản năm 2015 [51]. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích, đánh giá
thực tiễn áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC nói chung và biện pháp bắt người nói
riêng từ năm 1998 đến năm 2008. Về số liệu đánh giá, tác giả đã khảo sát trong ba giai
đoạn: giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2002; giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2008; giai
đoạn từ năm 2009 đến năm 2013. Qua đó, tác giả tổng hợp số liệu để xác
13
- Xem thêm -