Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền trong giai đoạn hiện nay...

Tài liệu Biện pháp bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền trong giai đoạn hiện nay

.PDF
56
186
77

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2 ======= O0O ======== NGUYỄN THỊ HẠNH BIỆN PHÁP BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN ĐẤT LIỀN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh HÀ NỘI, 2018 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2 ======= O0O ======== NGUYỄN THỊ HẠNH BIỆN PHÁP BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN ĐẤT LIỀN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh Hướng dẫn khoa học: Thượng tá Đoàn Văn Sơn HÀ NỘI, 2018 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài này, bên cạnh sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của thầy ĐOÀN VĂN SƠN. Đồng thời, tôi còn nhận được sự giúp đỡ động viên, khích lệ của gia đình và những người thân trong suốt quá trình tìm hiểu và nghiên cứu. Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn những giúp đỡ quý báu đó. Do điều kiện thời gian nghên cứu có hạn, bài nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý phê bình của quý thầy cô để đề tài hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 15, tháng 5, năm 2018 Tác giả đề tài Nguyễn Thị Hạnh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài: “BIỆN PHÁP BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN ĐẤT LIỀN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu này mang tính thời sự cấp thiết và phù hợp với điều kiện khách quan của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đề tài không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn mọi trách nhiệm. Hà Nội, ngày15, tháng 5, năm 2018 Tác giả đề tài Nguyễn Thị Hạnh DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BGQG Biên giới quốc KVBG Khu vực biên giới CNH-HĐH Công nghiệp hóa-hiện đại hóa DBHB Diễn biến hòa bình CNXH Chủ nghĩa xã hội QĐND Quân đội nhân dân GDQP Giáo dục quốc phòng CTQG Chính trị quốc gia MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1.Lí do chọn đề tài .......................................................................................................1 2.Mục đích nghiên cứu ................................................................................................3 3.Nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................................................................3 4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………….3 5. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………3 6. Cấu trúc…………………………………………………………………………...4 Chương 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN ĐẤT LIỀN ................................................................................5 1.1.Cơ sở lí luận ..........................................................................................................5 1.1.1 Khái niệm biên giới quốc gia .............................................................................5 1.1.2. Khái niệm biên giới quốc gia trên đất liền ........................................................6 1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ biên giới quốc gia trong giai đoạn hiện nay ..............................................................................................................6 1.1.4. Vai trò lañ h đa ̣o của Đảng và nhà nước trong bảo vê ̣ biên giới quố c gia.….13 1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................15 1.2.1 Vai trò của biên giới trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc ..................................15 1.2.2 Tình hình biên giới quốc gia Việt Nam trong Giai đoạn hiện nay...................16 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..........................................................................................21 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN ĐẤT LIỀN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...................................................................................................................................23 2.1 Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, thống nhất nhận thức và hoạt động trong toàn đảng, toàn dân về bảo vệ biên giới Quốc gia trên đất liền. .......................................23 2.2 Xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới Quốc gia trong tình hình mới ............................................29 2.3 Xây dựng lực lượng vũ trang nòng cốt bảo vệ biên giới Quốc gia trong giai đoạn hiện nay. ....................................................................................................................33 2.4 Bảo vệ biên giới Quốc gia phải biết phát huy ưu chế chính trị, tinh thần, dực vào sức mạnh đoàn kết dân tộc………………………………………….……..……….43 2.5 Giải quyết các vấn đề về tranh chấp biên giới Quốc gia bằng phương pháp hòa bình, kết hợp đối ngoại biên giới và đối ngoại quân sự và đối ngoại nhà nước trong bảo vệ biên giới quốc gia…………………………………………………….…….44 KẾT LUẬN .. ...........................................................................................................50 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..53 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Quốc gia được hình thành bởi ba yếu tố cơ bản là “lãnh thổ, dân cư và quyền lực công cộng”. Trong đó yếu tố biên giới - lãnh thổ là nền tảng đầu tiên. Bản chất vấn đề biên giới - lãnh thổ là hệ trọng và hết sức nhạy cảm, việc bảo vệ sự toàn vẹn biên giới - lãnh thổ là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc. Tổ tiên ta từ xưa cũng đã xác định vùng biên giới là bờ cõi, là nơi địa đầu, hiểm yếu của đất nước. Có quan hệ sống còn, phát triển, an nguy của đất nước, của dân tộc trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Quan điểm, tư tưởng đó đã được thể hiện trong hiến pháp cơ bản của nước Việt Nam: Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đầu tiên đã ghi: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn hiện nay là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Trong điều 2 xác định: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất, Trung – Nam - Bắc không thể phân chia”. Hiến pháp 1980 và 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xác định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Biên giới quốc gia có vị trí trọng yếu chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Ngày nay khu vực biên giới tiếp tục được Đảng và nhà nước tiếp tục khẳng định: là địa bàn chiến lược về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh,….có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 1 Thời gian qua, Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách xây dựng cơ sở, phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phong – an ninh khu vực biên giới, bảo vệ quốc gia, đàm phán các vấn đề biên giới lãnh thổ và phân giới cắm mốc, tăng dày tôn tạo hệ thống mốc quốc gia,...với các nước láng giềng và đạt được những kết quả quan trọng: “Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia được giữ vững”. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn biên giới vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế cơ bản như: kinh tế - xã hội phát triển chậm và chưa gắn với củng cố quốc phòng và công tác bảo vệ biên giới còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Tranh chấp trên đất liền phức tạp, tiềm ẩn và tác động tiêu cực đến sự ổn định lãnh thổ và công tác bảo vệ chủ quyền. Lợi dụng những mặt còn hạn chế và công tác đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH của nước ta,các thế lực thù địch vẫn luôn âm mưu phá hoại Việt Nam: làm suy yếu tiến tới lật đổ chế độ XHCN ở nước ta, đẩy mạnh chiến lược “DBHB” trước mắt làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, nước ta, phá hoại khối đại đoàn kế dân tộc, gây rói loạn, bạo loạn để chia cắt đất nước,…cao hơn, có thể gây xung đột vũ trang, tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta. Để thực hiện âm mưu trên, các thế lực không từ bất cứ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng nước ta, song thời gian tới chúng tăng cường áp dụng các thủ đoạn phổ biến sau: Đẩy mạnh việc sử dụng các phương tiện phát thanh, truyền thanh, báo trí, văn hóa, văn nghệ, nhất là các nước tư bản phát triển, các đối tượng phản động trong người việt lưu vong ở nước ngoài để xuyên tạc, thổi phòng, bóp méo, nói xấu Đảng, nhà nước, tạo giả lẫn lộn, gây nghi ngờ, hoang mang trong nhân dân. Tiếp tục lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tự do, tôn giáo,…để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền phát triển tôn giáo trái pháp luật với ý đồ thâm độc dùng tôn giáo để tách quần chúng ra khỏi Đảng, nhà nước,t ạo thuận lợi cho sự xâm lược thôn tính nước ta sau này. 2 Các loại tội phạm như buôn lậu, tội phạm ma túy, mua bán phụ nữ trẻ em qua biên giới lợi dụng mở cửa, hội nhập tăng cường hoạt động xâm phạm chủ quyền kinh tế và trật tự xã hội ở khu vực biên giới và đi sâu vào nội địa nước ta. Vì vậy việc tăng cường bảo vệ an ninh biên giới quốc gia trên đất liền vững chắc, toàn diện, lâu dài là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ đó đặt ra yêu cầu phải nâng cao trình độ thức về lý luận, đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng và nhà nước, cũng như đề xuất một số biện pháp bảo vệ và xây dựng biên giới quốc gia trên đất liền lâu dài cho toàn dân. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu những khó khăn, bất cập trong giai đoạn hiện nay về bảo vệ biên giới qốc gia trên đất liền để từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn bảo vệ biên giới trên đất liền trong giai đoạn hiện nay 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, tình hình biên giới quốc gia trên đất liền ở Việt Nam. Đề xuất một số biện pháp về bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền trong giai đoạn hiện nay. 4. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Vấn đề bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền trong giai đoạn hiện nay. 4.2.Phạm vi nghiên cứu Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến nhận thức về vấn đề bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền đối với mọi công dân, từ đó có những biện pháp nâng cao nhận thức cho mọi công dân nói chung và sinh viên nói riêng trong giai đoạn hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu 3 Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm khách quan, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể. Vận dụng các phương pháp:nghiên cứu và tổng hợp tài liệu, lấy ý kiến chuyên gia. 6. Cấu trúc Gồm: - Phần mở đầu - Chương 1 - Chương 2 - Kết luận chương và kiến nghị - Tài liệu tham khảo 4 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN ĐẤT LIỀN 1.1.Cơ sở lí luận 1.1.1 Khái niệm biên giới quốc gia Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam: “Biên giới quốc gia là đường xác định giới hạn phạm vi chủ quyền của một quốc gia đối với vùng đất và lòng đất phía dưới, vùng biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển đó và khoảng không chiếu thẳng từ vùng đất và vùng biển đó”. Căn cứ vào lý luận và thực tiễn quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, luật biên giới quốc gia nước CHXHCNVN năm 2003 xác định: “Biên giới quốc gia của nước CHXHCN Việt Nam là đường và mặt phẳng thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước CHXHCN Việt Nam” [Luật biên giới quốc gia, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.8] Sự hình thành và phát triển của biên giới quốc gia BGQG là một phạm trù lịch sử. Việc xác lập BGQG nhằm phân định rõ giới hạn vùng đất, vùng nước, lòng đất và vùng trời thuộc chủ quyền toàn vẹn đầy đủ và riêng biệt của mỗi quốc gia gắn liền với lợi ích về chính trị, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng cuả mỗi quốc gia. Như vậy, biên giới quốc gia là sản phẩm do con người tạo ra trên cơ sở tôn trọng yếu tố lịch sử, chính trị, xã hội, địa lí, kinh tế, dân tộc. Do đó, sự ra đời BGQG gắn liền với sự ra đời của nhà nước.Khi các quốc gia cổ đại đầu tiên ra đời, giữa các nước có phần lãnh thổ vô chủ thường là chướng ngại vật tự nhiên như: sông, hồ, rừng núi, xa mạc,....phần lãnh thổ đó gọi là miền biên giới, hình thức sơ khai đầu tiên của BGQG. 5 Cùng với sự hình thành nhà chiếm hữu nô lệ, phong kiến, các quốc gia không ngừng củng cố và mở rộng lãnh thổ của mình, lãnh thổ vô chủ dần dần bị thu hẹp lại, lãnh thổ giữa các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau dẫn tới đường biên giới giữa các quốc gia ra đời. Các đường biên giới đầu tiên thường nằm trùng với ranh giới các công xã, làng mạc, thành phố hay tường thành, con sông, suối...và có chức năng chủ yếu phân chia lãnh thổ trên mặt đất. Sau này cùng với sự phát triển của xã hội, nhất là yêu cầu kinh tế, thương mại, quân sự, sự ra tăng dân số và trình độ khoa học, công nghệ ngày càng tiên tiến, lãnh thổ của các quốc gia không ngừng mở rộng ra hướng biển, lên không trung và xuống lòng đất. Biên giới vùng đã dần chuyển sang biên giới mặt kết hợp với đường và vùng. 1.1.2.Khái niệm biên giới quốc gia trên đất liền Căn cứ vào lý luận và thực tiễn về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, luật biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam năm 2003 xác định: “Biên giới quốc gia trên đất liền là phần lãnh thổ trên mặt đất liền của vùng đất quốc gia”. Trong thực tế biên giới quốc gia trên đất liền được xác định dựa vào các yếu tố địa hình (núi, sông, suối, hồ nước, thung lũng…); thiên văn (theo kinh tuyến, vĩ tuyến ); hình học (đường nối liền qua các điểm quy ước). Biên giới quốc gia trên đất liền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia có lãnh thổ tiếp giáp với nhau và được thể hiện bằng các điều ước hoạch định biên giới giữa các quốc gia có liên quan. Việt Nam có biên giới quốc gia trên đất liền tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Campuchia ở phía tây, phía đông giáp biển Đông. 1.1.3.Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ biên giới quốc gia trong giai đoạn hiện nay Trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa MácLênin về biên giới và bảo vệ biên giới quốc gia; kế thừa kinh nghiệm bảo vệ biên giới quốc gia của ông cha ta; xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, vấn đề bảo vệ biên giới quốc gia đã được Đảng và Nhà nước ta cụ thể hóa bằng các quan điểm cơ bản sau: 6 Một là, biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, phải được tổ chức bảo vệ nghiêm ngặt trong bất kỳ tình huống nào, điều kiện nào. Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản, là tư tưởng nhất quán của Đảng và nhà nước ta về bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ BGQG nói riêng. Lãnh thổ quốc gia và chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là vấn đề thiêng liêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Một dân tộc, một quốc gia có chủ quyền là dân tộc đó, quốc gia đó không bị nước ngoài can thiệp, không bị lệ thuộc phục tùng ý muốn của nước ngoài, độc lập, tự chủ xử lý, giải quyết mọi công việc của đất nước mình. Mọi hành vi xâm phạm đến BGQG đều là sự vi phạm đến chủ quyền quốc gia đó. Chính vì vậy, các quốc gia đều coi công việc bảo vệ biên giới là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Biên giới quốc gia và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ biên giới luôn là mối quan tâm hàng đầu của bất cứ quốc gia có chủ quyền nào. Bảo vệ chủ quyền biên giới thực chất và trước hết là giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia. Lãnh thổ, cư dân, chính quyền là ba yếu tố cơ bản của một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Trong đó, lãnh thổ là vấn đề quan trọng hàng đầu, là không gian cần thiết, là cơ sở thực tế cho sự tồn tại của mỗi quốc gia. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn coi biên giới lãnh thổ là “phên dậu” của đất nước, có quan hệ đến sự sống còn, an nguy của quốc gia, dân tộc. Khi biên cương, lãnh thổ của đất nước bị ngoại bang xâm lược, tổ tiên ta kiên quyết đánh trả để “bảo toàn lãnh thổ yên ủy nhân dân”. Quá trình hình thành và phát triển của sự nghiệp biên phòng Việt Nam là quá trình các thế hệ người Việt Nam đã đem bao công sức, mồ hôi, xương máu đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, BGQG, không cho phép bất cứ các thế lực ngoại bang nào động đến từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc. Đó là sự biểu hiện của kết quả của sức mạnh đoàn đoàn kết và ý chí độc lập tự chủ của dân tộc ta từ xưa cha đến ngày nay. Hiện nay, BGQG nước ta là vẫn nơi đầu sóng ngọn gió, trước sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; nguy cơ xung đột biên giới vẫn còn thì chủ quyền biên giới vẫn luôn bị đe dọa. Lịch sử cho ta bài học về bảo vệ BGQG: ngay lúc thời bình phải có ngay “kế sách”, “phương lược”, 7 phải tính đến khi có chiến sự, phải chăm lo đến công cuộc biên phòng. Vì vậy, bảo vệ BGQG có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, nhà nước và của toàn dân, trong đó quân đội nhân dân và công an nhân dân là lực lượng nòng cốt” [Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, HN, 1991, tr.40]. Xuất phát từ tư duy mới về bảo vệ tổ quốc của Đảng ta, bảo vệ biên giới hiện nay không chỉ bảo vệ về chủ quyền mà còn là bảo vệ trạng thái ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Bởi vì, ngoài những mối đe dọa quân sự mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta, thì những mối đe dọa phi quân sự bằng “diễn biến hòa bình”, kết hợp với gây rối, bạo loạn mới được chúng coi trọng. Nguy cơ chống phá nước ta, không chỉ từ sự đe dọa bằng sức mạnh quân sự, mà luôn tiềm ẩn và nảy sinh từ các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội…, trong đó ở khu vực biên giới là một trong những địa bàn trọng điểm. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ với cách mạng nước ta. Chúng thường xuyên lợi dụng các phần tử bất mãn, quần chúng nhẹ dạ cả tin, trình độ văn hóa thấp, hạn chế về nhận thức chính trị…để tuyên truyền, phát triển đạo trái pháp luật kích động quần chúng di, dịch tự do, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước, gây mất ổn định về an ninh trật tự ở khu vực biên giới, nhất là khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và những vùng sâu, vùng xa. Trong khi đó tình trạng vi phạm chủ quyền biên giới đất liền của các nước láng giềng đối với nước ta cũng diễn biến phức tạp như biên giới Tây Nam, Tây Nguyên và biên giới phía Bắc. Tình hình hoạt động của phi Lào, bọn phản động trong các tổ chức Khomer Krom ở Campuchia và nước ngoài còn diễn biến phức tạp. Các hoạt động vu cáo Việt Nam vi phạm chính sách dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền của bọn phản động vẫn tiếp tục. Hoạt động vượt biên của người dân tộc thiểu số còn diễn biến phức tạp, đe dọa đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, BGQG, gây căng thẳng đến mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực. 8 Mặt khác, ở khu vực biên giới hiện nay cũng đang phải chịu sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, nhất là sau hơn bốn năm Việt Nam ra nhập WTO làm nảy sinh những vấn đề đáng lo ngại về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tình hình buôn lậu, tham nhũng, gian lận thương mại, vận chuyển ma tuý, buôn bán biên giới qua biên…diễn biến phức tạp. Lợi dụng chính sách mở cửa hội nhập và tình hình đời sống đồng bào dân tộc còn khó khăn, trình độ dân trí thấp, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch được sự hỗ trợ đắc lực, trực tiếp về mọi mặt từ bên ngoài tăng cường hoạt động chống phá, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng và kinh tế để kích động, gây mất lòng tin của đồng bào đối với Đảng, chế độ chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc. Âm mưa và thủ đoạn của các thế lực thù địch ở vùng biên giới được hoạch định và thực hiện khá công phu, toàn diện. Vì vậy, bảo vệ BGQG phải kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng và nhiệm vụ an ninh, đồng thời phải chuẩn bị mọi mặt trong thời bình để ngăn chặn và đánh bại mọi hành động xâm lược, bảo vệ từng tấc đất thiên liêng của tổ quốc ngay từ tuyến đầu, mặt khác luôn cảnh giác, phối hợp các lực lượng tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm vô hiệu hóa mọi mầm mống từ mầm mống bên trong có thể dẫn đến phá hoại an ninh, trật tự an toàn xã hội, tạo cơ hội cho kẻ thù can thiệp, gây chiến. Như vậy, sự nghiệp bảo vệ BGQG hiện nay rất toàn diện, dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải quán triệt sâu sắc nhiệm vụ đấu tranh chính trị, kết hợp các nhiệm vị chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh. Quân sự và đối ngoại, bảo vệ an ninh trật tự, lợi ích quốc gia, bảo vệ an toàn xã hội, bảo vệ dân tộc, bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Hai là bảo vệ biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn dân, lấy nhân dân làm gốc, phát huy sức mạnh toàn dân;đồng thời có chính sách chăm lo bảo vệ biên giới Xây dựng và bảo vệ BGQG là nhiệm vụ quan trọng của đất nước, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân của các hệ thống từ trung 9 ương đến cơ sở để tạo lên sức mạnh của cả nước chăm lo sự nghiệp xây dựng, bảo vệ BGQG. Quan điểm dự vào sức mạnh tổng hợp toàn dân bảo vệ BGQG được bắt đầu từ truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta;từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạnh. Ông cha ta đã tổng kết dân là gốc, sức nhân dân như sức nước, chờ thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân.Lê nin chỉ rõ: “trong chiến tranh ai có nhiều lực lượng hơn ai kiên trì hơn, người đó sẽ thu thắng lợi”[V.I Lê nin(1997) toàn tập, Tập 39, Nxh tiến bộ, Hà Nội, tr/271]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: Chống bọn xâm lược và phá hoại là của quân đội, của công an nói riêng và của toàn dân chúng nói chung, là nhiệm vụ mà quân đội và công an phải dựa vào nhân dân mới hoàn thành tốt được. Ví dụ, một vạn công an chỉ có 2 vạn cái tay chân, nhưng nhân dân có hàng triệu tai, triệu mắt, hàng triệu tay chân cho nên ta phải biết dựa vào nhân dân để hoạt động, khi tổ chức được dân, đoàn kết được dân thì việc gì cũng làm được” [Biên phòng Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.32]. Đối với nhiệm vụ BVQG, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ, lực lượng cảnh vệ nội địa và biên phòng phải biết dựa vào nhân dân; tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chính quyền, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với quân đội nhân dân, với lực lượng công an và nhân dân địa phương”[Biên phòng Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.32]. Nghị quyết 11/NQ-TW ngày 8/8/1995 cảu bộ chính trị đã khẳng định: “Xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp các ngành, các cấp của nhà nước và toàn thể”[Biên phòng Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.32]. Đây là quan điểm thể hiện sức mạnh toàn dân, của các lực lượng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ BGQG. Tổ chức và bảo vệ BGQG hiện nay phải dựa vào nhân dân, mà trực tiếp là nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới. Sự nghiệp bảo vệ BGQG không thể không thành nếu không dựa vào sức mạnh của triệu tai, triệu mắt, triệu chân, tay của đồng bào của các dân tộc đang định cư ở khu vực biên giới. Đó 10 là kế sách hữu hiệu nhất tạo nên sức mạnh tổng hợp giữ vững biên cương tổ quốc. Để phát huy sức mạnh toàn dân bảo vệ BGQG, đều có ý nghĩa quan trọng là phải “nuôi sức dân”. Sức dân có cường thì lòng dân mới an và đồng lòng thì sức mới vô hạn. Ông cha ta từ ngàn xưa bảo vệ BGQG cũng thực hiện kế sách “yên dân giữ đất” ngày nay kế sách đó là quan điểm chiến lược bao trùm toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng cũng như trong sự nghiệp bảo vệ BGQG. Để “yên dân giữ đất” phải tạo dựng được cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho quần chúng nhân dân. Đó là mơ ước chính đang của đồng bảo dân tộc từ xa xưa đến nay. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, đồng bảo các dân tộc ta ở khu vực biên giới đã anh dũng chiến đấu, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc cũng vì mục đích cao cả đó. Do vậy, ngày nay đất nước đã hòa bình phải khẩn trương biến ước mơ đó thành hiện thực. Có như vậy mới phản ảnh đúng ưu việt của chế độ XHCN mà chúng ta đang xây dựng; mới đáp ứng đúng nguyện vọng cháy bỏng của đồng bào các dân tộc. Trong công cuộc đổi mới đất nước hơn 20 năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã rất quan tâm và có nhiều chính sách kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần tiến bộ xã hội đối với nhân dân các dân tộc khu vực biên giới. Trên thực tế, đời sống của đồng bào từng bước được cải thiện, đáp ứng được yêu cầu phần nào nguyện vọng của đồng bào các dân tộc. Đó là cái gốc, là nền tảng tạo nên sức mạnh chính trị tinh thần to lớn trong đồng bào; là kế sách hữu hiệu nhất tạo dựng “thế trận lòng dân” bền vững, giữ yên biên giới. Ba là, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ biên giới với nhiệm vụ xây dưng biên giới vững mạnh toàn diện. Xây dựng biên giới vững mạnh là cơ sở, nền tảng để bảo vệ biên giới vững chắc. Đặc điểm nổi bật trong lịch sử phát triển của dân tộc ta là công cuộc dựng nước và giữ nước luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. “Dựng nước luôn đi đôi với giữ nước đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta” [Võ Nguyên Giáp, Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Nxb QĐND, Hà Nội, 1979, tr.15-16]. 11 Do đó trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta phải luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống. Đảng và Nhà nước ta xác định phải kết hợp chặt chẽ bảo vệ biên giới với xây dựng khu vực khu vực biên giới vững mạnh toàn diện. Quan điểm của Đảng, Nhà Nước ta chính là xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ biên giới; xây dựng khu vực biên giới vững manh toàn diện là tạo thế và lực tại chỗ cho bảo vệ biên giới quốc gia. Ngược lại bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia sẽ tạo môi trường ổn định phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh của khu vực biên giới. Kết quả tổng hợp quốc phòng toàn dân là “Thế trận lòng dân” được củng cố vững chắc, nhân dân các dân tộc đoàn kết gắn bó, tinh tưởng ở Đảng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại biên giới của các thế lực thù địch và các loại đối tượng. Gắn xây dựng với bảo vệ biên giới còn nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ biên giới, Nhà nước ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội các xã, phường biên giới và hải đảo là nhiệm vụ trọng tâm cả nước trước mắt và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân”. Để kết hợp chặt chẽ xây dựng và bảo vệ biên giới, Đảng và Nhà nước ta chỉ rõ phải phát huy vai trò trách nhiệm của nhà nước, các cấp và các bộ, ngành; trong đó bảo vệ biên phòng là lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, vừa phải thực hiện tốt “nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, xây dựng lực lượng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở khu vực biên giới”. Bốn là, xây dưng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định; giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau. Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định là vấn đề đặc biệt quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là quan điểm nhất quán 12 của Đảng và Nhà nước. Quan điểm này phù hợp với lợi ích và pháp luật của Việt Nam, phù hợp với công ước và luật pháp quốc tế, cũng như lợi ích của các quốc gia có liên quan. Đảng và Nhà nước ta coi việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước. Từ Đại hội VI đến nay, nhà nước ta thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa trong mối quan hệ quốc tế: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Trước xu thế hô ̣i nhâ ̣p, mở cửa quan hê ̣ quố c tế trên nhiề u liñ h vực để xây dựng và phát triể n đấ t nước; quán triêṭ đường lố i, chủ trương chính sách đố i ngoa ̣i của Đảng, Nhà nước ta, công tác đố i ngoa ̣i biên phòng cầ n tăng cường mở rô ̣ng đáp ứng yêu cầ u bảo vê ̣ biên giới. Trong giải quyế t các vấ n đề tranh chấ p lañ h thổ , biên giới, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấ t quán thực hiê ̣n quan điể m giải quyế t các tranh chấ p bằ ng thương lươ ̣ng hòa bin ̀ h, tôn tro ̣ng đô ̣c lâ ̣p, chủ quyề n toàn, veṇ lañ h thổ và lơ ̣i ích chính đáng của nhau. Do vâ ̣y, mo ̣i bấ t đồ ng trong quan hê ̣ biên giới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thông qua đàm phán, thương lươ ̣ng giữa các nước hữu nghi ̣ trên cơ sở binh đẳ ng, tôn tro ̣ng đô ̣c lâ ̣p, chủ quyề n toàn, veṇ lañ h thổ và lơ ̣i ích chính đáng của nhau. Điề u này đã đươ ̣c thể hiê ̣n trong văn kiê ̣n của Đảng, pháp luâ ̣t của nhà nước. Văn kiê ̣n Đa ̣i hô ̣i Đảng lầ n thứ IX xác đinh ̣ chính sách nhấ t quán của Đảng và Nhà nước ta là: “Tôn tro ̣ng đô ̣c lâ ̣p, chủ quyề n toàn, veṇ lañ h thổ , không can thiêp̣ vào công viê ̣c nô ̣i bô ̣ của nhau…giải quyế t các bấ t đồ ng và tranh chấ p bằ ng thương lươ ̣ng hòa bình”. 1.1.4. Vai trò lãnh đa ̣o của Đảng và nhà nước trong bảo vê ̣biên giới quố c gia Biên giới quố c gia có vi ̣ trí đă ̣c biêṭ quan tro ̣ng đố i với sự tồ n ta ̣i và phát triể n của đấ t nước. Mă ̣t khác, biên giới quố c gia mang tính thố ng nhấ t, không thể chia cắ t theo điạ phương. Do đó, quá trình bảo vê ̣ biên giới quố c gia phải đảm bảo sự lañ h đa ̣o, chỉ đa ̣o tâ ̣p trung, thố ng nhấ t của Đảng và Nhà 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng