Tài liệu phục vụ tuyên truyền về biển-đảo Việt Nam
Quần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiều đảo san hô, cồn cát, rạn đá (ám tiêu) san hô nói chung
(trong đó có rất nhiều rạn san hô vòng, tức rạn vòng hay còn gọi là rạn đá san hô vòng, "đảo" san hô
vòng) và bãi ngầm rải rác từ 6°12' đến 12°00' vĩ Bắc và từ 111°30' đến 117°20' kinh Đông, trên một
diện tích gần 160.000 km²[5] (nguồn khác: 410.000 km²) ở giữa biển Đông.[Ghi chú 1] Quần đảo này có độ
dài từ tây sang đông là 800 km, từ bắc xuống nam là 600 km với độ dài đường bờ biển đạt 926 km.[6]
[7]
Mỗi tài liệu lại có một con số thống kế riêng về số lượng thể địa lý của quần đảo này: hơn 100 đảo
và rạn đá ngầm (CIA),[6] 137 "đảo-đá-bãi" (Nguyễn Hồng Thao),[8]khoảng 160 đảo nhỏ-cồn cát-rạn đá
ngầm-bãi cát ngầm/bãi cạn-bãi ngầm đã đặt tên (Trung Quốc).[9][Ghi chú 2]
Quần đảo Trường Sa
Tổng diện tích đất nổi của quần đảo rất nhỏ, không quá 5 km²[6] (nguồn khác: 11 km²[8]) do số
lượng đảo thực sự rất ít mà chủ yếu là các rạn san hô thường và rạn san hô vòng chìm ngập dưới nước
khi thủy triều lên. Các hòn đảo san hô ở Trường Sa tương đối bằng phẳng và thấp, ngay cả khi so sánh
với một quần đảo san hô khác gần đó là quần đảo Hoàng Sa. Theo CIA, điểm cao nhất của Trường Sa
nằm trên đảo Song Tử Tây với cao độ 4 m so với mực nước
Quần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiều đảo san hô, cồn cát, rạn đá (ám tiêu) san hô nói chung
(trong đó có rất nhiều rạn san hô vòng, tức rạn vòng hay còn gọi là rạn đá san hô vòng, "đảo" san hô
vòng) và bãi ngầm rải rác từ 6°12' đến 12°00' vĩ Bắc và từ 111°30' đến 117°20' kinh Đông, trên một
diện tích gần 160.000 km²[5] (nguồn khác: 410.000 km²) ở giữa biển Đông.[Ghi chú 1] Quần đảo này có độ
dài từ tây sang đông là 800 km, từ bắc xuống nam là 600 km với độ dài đường bờ biển đạt 926 km.[6]
[7]
Mỗi tài liệu lại có một con số thống kế riêng về số lượng thể địa lý của quần đảo này: hơn 100 đảo
và rạn đá ngầm (CIA),[6] 137 "đảo-đá-bãi" (Nguyễn Hồng Thao),[8]khoảng 160 đảo nhỏ-cồn cát-rạn đá
ngầm-bãi cát ngầm/bãi cạn-bãi ngầm đã đặt tên (Trung Quốc).[9][Ghi chú 2]
Quần đảo Trường Sa
Tổng diện tích đất nổi của quần đảo rất nhỏ, không quá 5 km²[6] (nguồn khác: 11 km²[8]) do số
lượng đảo thực sự rất ít mà chủ yếu là các rạn san hô thường và rạn san hô vòng chìm ngập dưới nước
khi thủy triều lên. Các hòn đảo san hô ở Trường Sa tương đối bằng phẳng và thấp, ngay cả khi so sánh
với một quần đảo san hô khác gần đó là quần đảo Hoàng Sa. Theo CIA, điểm cao nhất của Trường Sa
nằm trên đảo Song Tử Tây với cao độ 4 m so với mực nước
Khí hậu
Quần đảo Trường Sa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới với hai mùa. Gió mùa đông nam thổi qua
Trường Sa từ tháng 3 đến tháng 4trong khi gió mùa tây nam thổi từ tháng 5 đến tháng 11. Theo số liệu
của McManus, Shao & Lin (2010), nhiệt độ không khí trung bình trong năm của quần đảo vào khoảng
27 °C.[19] Tại trạm khí tượng trên đảo Trường Sa, nhiệt độ trung bình đo được là 27,7 °C. Về mùa hè
(tháng 5 đến tháng 10), nhiệt độ trung bình đạt 28,2 °C; giá trị cực đại đo được là 29,3 °C vào tháng 9.
Về mùa đông (tháng 10 đến tháng 4), nhiệt độ trung bình là 28,8 °C, trong đó giá trị cực tiểu đo được
là 26,4 °C vào tháng 2. Nhiệt độ trung bình tháng 4 (tháng chuyển tiếp từ mùa đông sang mùa hè) là
28,8 °C, còn nhiệt độ trung bình tháng 10 (tháng chuyển tiếp từ mùa hè sang mùa đông) là 27,8 °C,
gần xấp xỉ với nhiệt độ trung bình năm. Nhìn chung biên độ dao động của nhiệt độ không khí vùng
đảo Trường Sa không quá 4 °C.[20]
Nhiệt độ nước biển bị ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố thời tiết. Do nằm trong vùng nhiệt đới nên tầm
nhiệt độ cao là đặc trưng cho nước biển Trường Sa. Vào mùa đông, nhiệt độ trung bình là 26-28 °C và
đạt cực tiểu 25-26 °C vào tháng 12 và tháng 1. Vào mùa hè, nhiệt độ trung bình tầng mặt là 29-31 °C
và đạt cực đại là 31-32 °C vào tháng 5.[21]
[ẩn]Dữ liệu khí hậu của đảo Trường Sa (nhiệt độ nước biển)
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Cao kỉ lục °C
28.1
29.2
30.6
31.7
32.9
32.4
33.0
31.6
34.2
31.4
32.0
30.4
Trung bình ngày, °C
26.2
26.3
27.5
28.7
29.6
29.2
28.5
28.5
28.6
28.8
28.5
27.5
Thấp kỉ lục, °C
25.0
24.6
24.5
25.8
26.0
26.7
26.2
26.7
25.9
26.4
26.6
25.6
Cao kỉ lục, °F
82,6
84,6
87,1
89,1
91,2
90,3
91,4
88,9
93,6
88,5
89,6
86,7
Trung bình ngày, °F
79,2
79,3
81,5
83,7
85,3
84,6
83,3
83,3
83,5
83,8
83,3
81,5
Thấp kỉ lục, °F
77,0
76,3
76,1
78,4
78,8
80,1
79,2
80,1
78,6
79,5
79,9
78,1
Nguồn: Trạm khí tượng Trường Sa (1986-1987)[22]
Mùa khô tại quần đảo kéo dài từ tháng 2 đến tháng 4 còn mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau.
[20]
Lượng mưa dao động từ 1.800 đến 2.200 mm.[19] Trong giai đoạn 1954-1998, có tổng cộng 498 cơn
bão ở biển Đông, trong đó có 89 trận đi qua hoặc phát sinh từ quần đảo Trường Sa. Một đặc điểm
quan trọng là bão có xu hướng muộn dần từ bắc xuống nam. Cụ thể, bão chủ yếu xuất hiện ở phía bắc
và trung tâm quần đảo trong tháng 10, trong khi bão đi qua phía nam rất ít và nếu có thì chủ yếu là
trong tháng 11.[23] Trong cơn bão, tốc độ gió cực đại ghi nhận trong giai đoạn 1977-1985 có thể lên
đến 34 m/s so với mức trung bình mọi thời điểm là 5,9 m/s.[24]
Bão biển Đông (1954-1998)
Qua phía bắc quần
đảo
Qua phía nam quần Hình thành trong quần
đảo
đảo
Đặc trưng
Qua quần đảo
Số cơn bão
34
33
2
20
Tần suất trong 89 cơn
bão
38%
37%
2%
22%
Tần suất trong 498
cơn bão
7%
6%
0,4%
4%
Nguồn: Bùi Nhi Thanh & Nguyễn Văn Lương (2007) [23]
Phân cụm
Do sở hữu rất nhiều thực thể địa lý nên quần đảo Trường Sa được các nhà hàng hải quốc tế cũng như
một số quốc gia phân chia thành nhiều cụm riêng biệt dựa trên sự gần gũi hoặc tương đồng về mặt địa
lý hay đơn thuần chỉ là phân chia tương đối.
Việt Nam phân chia
Việt Nam chia quần đảo Trường Sa thành tám cụm là cụm Song Tử, cụm Thị Tứ, cụm Loại Ta, cụm
Nam Yết, cụm Sinh Tồn, cụm Trường Sa, cụm Thám Hiểm (cụm An Bang) và cụm Bình Nguyên. [25]
Cụm Song Tử
Đá Nam là một rạn san hô (ám tiêu san hô) thuộc cụm Song Tử.
Cụm Song Tử là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phần tây bắc của quần đảo Trường Sa. Gọi là
Song Tử vì hai đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây như một cặp đảo song sinh, vừa nằm gần nhau vừa
có kích thước gần như tương đương. Cặp đảo này hợp cùng các rạn đá san hô như đá Nam, đá Bắc ở
khu vực lân cận để tạo nên một vòng cung san hô lớn mà tài liệu hàng hải quốc tế gọi là (cụm) rạn
Nguy Hiểm Phía Bắc (tiếng Anh: North Danger Reef(s); tiếng Trung: 双双双双; Hán-Việt: Song Tử quần
tiêu). Tuy nhiên, Việt Nam còn gộp hai rạn vòng ngầm dưới nước ở phía đông của rạn Nguy Hiểm
Phía Bắc vào cụm Song Tử, cụ thể là bãi Đinh Ba và bãi Núi Cầu.
Cụm Thị Tứ
Đá Xu Bi là một rạn san hô vòng thuộc cụm Thị Tứ.
Cụm Thị Tứ là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam của cụm Song Tử và phía bắc của cụm
Loại Ta. Cụm này chỉ có một đảo san hô là Thị Tứ (đứng thứ hai về diện tích trong quần đảo), còn lại
đều là các rạn đá như đá Hoài Ân, đá Vĩnh Hảo, đá Xu Bi... Đá Xu Bi là trường hợp cá biệt do tách
biệt hẳn về phía tây nam so với tất cả các thực thể còn lại. Trừ đá Xu Bi thì đảo Thị Tứ và các rạn đá
lân cận cùng nhau tạo thành cụm rạn Thị Tứ (tiếng Anh: Thitu Reefs; tiếng Trung: 双双双双; HánViệt: Trung Nghiệp quần tiêu) theo tài liệu hàng hải quốc tế.
Cụm Loại Ta
Cụm Loại Ta là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam của cụm Thị Tứ và phía bắc của cụm
Nam Yết. Cụm này có hai đảo lớn là Loại Ta và Bến Lạc. Đảo Loại Ta là trung tâm của bãi san hô
Loại Ta (tiếng Anh: Loaita Bank; tiếng Trung: 双双双双; Hán-Việt: Đạo Minh quần tiêu) theo cách gọi
của tài liệu hàng hải quốc tế; về hai phía đông-tây của đảo là các cồn cát và rạn san hô như bãi An
Nhơn, bãi An Nhơn Bắc, bãi Loại Ta,...Về phía đông bắc của bãi san hô Loại Ta là một rạn đá ngầm
lớn có tên là bãi Đường; tại đầu mút phía bắc của bãi này là một rạn đá ngầm với tên gọi đá An Lão.
Trong khi đó, đảo Bến Lạc (đứng thứ ba về diện tích trong quần đảo) và đá Cá Nhám lại nằm tách biệt
hẳn về phía đông của các thực thể trên.
Đảo Sinh Tồn Đông là một cồn cát thuộc cụm Sinh Tồn.
Cụm Nam Yết
Cụm Nam Yết là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam cụm Loại Ta và phía bắc của cụm
Sinh Tồn, gồm hàng loạt thực thể nổi bật như đảo Ba Bình (lớn nhất quần đảo), đảo Nam Yết, đảo
Sơn Ca, đá Én Đất, đá Ga Ven,... Đa số các thực thể địa lý thuộc cụm này hợp thành một bãi san hô
dạng vòng có tên gọi bãi san hô Tizard (tiếng Anh: Tizard Bank; tiếng Trung: 双双双双; Hán-Việt: Trịnh
Hoà quần tiêu) theo tài liệu hàng hải quốc tế. Ngoài ra, về phía tây của bãi san hô Tizard còn có một
số thực thể nằm riêng biệt như đá Lớn, đá Chữ Thập,...
Đảo Trường Sa là một đảo san hô thuộc cụm Trường Sa. Trong ảnh: cầu tàu và một phần đảo Trường Sa.
Cụm Sinh Tồn
Cụm Sinh Tồn là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam cụm Nam Yết. Khái niệm "cụm
Sinh Tồn" hầu như đồng nhất với khái niệm bãi san hô Liên Minh hay cụm rạn Liên Minh (tiếng
Anh: Union Bank/Reefs; tiếng Trung: 双双双双; Hán-Việt: Cửu Chương quần tiêu) của tài liệu hàng hải
quốc tế. Cụm này chỉ có một đảo san hô là đảo Sinh Tồn, một cồn cát là đảo Sinh Tồn Đông, còn lại là
rất nhiều rạn đá như đá Cô Lin, đá Gạc Ma, đá Len Đao,...Trong số này, đá Ba Đầu là rạn đá lớn nhất.
Cụm Trường Sa
Bãi Trăng Khuyết là một rạn san hô vòng thuộc cụm Thám Hiểm/An Bang.
Cụm Trường Sa là một tập hợp các thực thể địa lý nằm dàn trải theo chiều ngang từ tây sang đông ở
phía nam của các cụm Nam Yết, Sinh Tồn và phía bắc của cụm Thám Hiểm, chủ yếu giữa hai vĩ tuyến
8° Bắc và 9° Bắc. Cụm này chỉ có một đảo san hô là đảo Trường Sa (biệt danh: Trường Sa Lớn), còn
lại đều là rạn thường nói chung và rạn vòng nói riêng như đá Tây, đá Tiên Nữ, đảo Phan Vinh, đảo
Trường Sa Đông...Bốn thực thể theo thứ tự từ tây sang đông gồm đá Tây, đảo Trường Sa Đông, đá
Đông và đá Châu Viên cấu thành khái niệm cụm rạn Luân Đôn (tiếng Anh: London Reefs; tiếng
Trung: 双双双双; Hán-Việt: Doãn Khánh quần tiêu) theo tài liệu hàng hải quốc tế.
Cụm Thám Hiểm
Cụm Thám Hiểm hay cụm An Bang là một tập hợp các thực thể địa lý ở phía nam của quần đảo
Trường Sa. Cụm này không có đảo san hô nào ngoài một cồn cát nổi bật là An Bang (quen gọi là đảo
An Bang). Nhìn chung phần lớn thực thể của cụm này tạo thành một vòng cung lớn với phần lõm
hướng về phía đông nam, trải dài từ đá Sác Lốt, qua đá Công Đo đến bãi Trăng Khuyết gần sát với
Philippines. Một máng biển ngăn cách vòng cung này với thềm lục địa của đảo Borneo.
Cụm Bình Nguyên
Cụm Bình Nguyên là một tập hợp các thực thể địa lý hợp thành từ phần phía đông của quần đảo
Trường Sa, trong khu vực gần với đảo Palawan. Tuy cụm này có nhiều thực thể địa lý nhất so với các
cụm còn lại nhưng số này lại phân tán rải rác trên một vùng biển rộng lớn. Vĩnh Viễn và Bình
Nguyên là hai đảo duy nhất của cụm, trong đó đảo Bình Nguyên đang chịu tác động của hiện
tượng xói mòn. Số thực thể còn lại đều là những dạng rạn đá (ví dụ rạn vòng) và các bãi cát ngầm/bãi
cạn cùng bãi ngầm.
Trung Quốc phân chia
Ngày 25 tháng 4 năm 1983, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc đã công khai danh sách 287 địa danh
thuộc biển Đông, trong đó có tổng cộng 193 địa danh liên quan đến quần đảo Nam Sa.[9] Về mặt tên
gọi, địa danh do Trung Quốc đặt thể hiện một phần tính chất của thực thể như đảo, cồn cát (sa châu),
rạn đá ngầm (ám tiêu), bãi cát ngầm/bãi cạn (ám sa), bãi ngầm (ám than) và cả các luồng
lạch(môn, thuỷ đạo) cho tàu thuyền. Nghiên cứu đăng tải trên mạng Hải Nam sử chí thể hiện rằng
Trung Quốc phân biệt cả các loại hình rạn đá khác nhau như rạn mặt bàn (đài tiêu) hay rạn vòng
(hoàn tiêu) để làm cơ sở phân loại chi tiết hơn.
Cách hiểu của Trung Quốc về quần đảo Nam Sa khác so với cách hiểu hiện thời của bản đồ hành
chính Việt Nam về quần đảo Trường Sa ở chỗ nước này còn gộp rất nhiều thực thể địa lý trong khu
vực gần Malaysia và Brunei (hầu như đều là bãi cát ngầm/bãi cạn và bãi ngầm) vào tổng thể Nam Sa.
Dưới đây là danh sách nhóm và phân nhóm của khái niệm Nam Sa theo mạng Hải Nam sử chí (Trung
Quốc):[26]
[ẩn]Số
thứ tự
Nhóm
Phân nhóm
Bắc
1
Bắc
Trung
Nam
Bãi ngầm Lễ Nhạc
2
Đông
Bắc
Trung
Cụm Song Tử
Cụm Thị Tứ, cụm Loại Ta và phần lớn cụm Nam
Yết
Cụm Sinh Tồn
Khu vực bãi Cỏ Rong, bãi Đá Bắc, đá Gò
Già và đá Đồng Thạnh của cụm Bình Nguyên
Phần lớn cụm Bình Nguyên như bãi Tổ Muỗi, bãi
Ngoại vi bãi ngầm Lễ Nhạc
Nam,... và bãi Trăng Khuyết thuộc cụm Thám
Hiểm
Rạn vòng Phí-Mã
3
Quan điểm của Việt Nam
Vùng luồng lạch Nam Hoa
Ám tiêu san hô có hai đảo Bình Nguyên và Vĩnh
Viễn (thuộc cụm Bình Nguyên)
Đá Chữ Thập của cụm Nam Yết và một vùng nằm
giữa các cụm Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa
Gồm hầu hết phần phía đông của cụm Trường Sa,
Vùng vòng cung phía đông
hầu hết cụm Thám Hiểm và cả khu vực rạn san hô
Louisa.
Vùng vòng cung phía tây
Phần phía tây của cụm Trường Sa cùng với bãi
Vũng Mây. Việt Nam xem bãi Vũng Mây là một
phần của vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục địa và
không thuộc Trường Sa.
Khu vực trung bộ máng biển
Khu vực năm bãi ngầm là Tây Vệ,
4
Tây Nam Quảng Nhã, Nhân Tuấn, Lý Chuẩn
và Vạn An
Vài thực thể đơn lẻ thuộc cụm Thám Hiểm và cụm
Trường Sa
Khu vực năm bãi ngầm là Phúc Nguyên, Phúc Tần,
Huyền Trân, Quế Đường và Tư Chính; Việt Nam
xem năm bãi này thuộc vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa và không thuộc Trường Sa.
Bãi cạn/Bãi cát ngầm Bắc Khang (双
双双双, tương đương North Luconia
Shoals, tức cụm bãi cạn Luconia
Bắc)
Bãi cạn/Bãi cát ngầm Nam Khang
5
Nam
(双双双双, tương đương South
Việt Nam không đòi hỏi.
Luconia Shoals, tức cụm bãi cạn
Luconia Nam)
Bãi cát ngầm Tăng Mẫu (双双双双,
tương đương James Shoal, tức bãi
ngầm James)
Hệ động thực vật
Một cây phong ba (Heliotropium foertherianum) già cỗi trên đảo Trường Sa
Do sở hữu hàng trăm rạn san hô rải rác khắp một vùng biển rộng lớn nên quần đảo Trường Sa là nơi
có đa dạng sinh học cao. Ước tính có đến mười nghìn loài sinh vật sinh sống tại vùng biển Trường Sa.
Theo Nguyễn & Đặng (2009), có ba trăm hai mươi chín loài san hộ thuộc sáu mươi chín chi và mười
lăm họ cùng nhau tạo lập nên các rạn san hô Trường Sa. Tuy nhiên, phân bố loài san hô rất không
đồng đều và chỉ tập trung vào một số họ như họ San hô lỗ đỉnh (66 loài), họ San hô não (46 loài), họ
San hô khối (17 loài), họ San hô nấm (14 loài),...[27] Các hệ sinh thái rạn san hô nơi đây không chỉ là
nơi cư ngụ lí tưởng cho các sinh vật biển mà còn là nơi nuôi dưỡng nguồn lợi thủy sản dồi dào cho
toàn vùng biển Đông.[28]
Cá chim nàng (cá bướm Philippines; Chaetodon adiergastos)
Về động vật, nghiên cứu của McManus, Shao & Lin (2010) cho biết rằng tại khu vực xung quanh đảo
Ba Bình cho biết có ba trăm chín mươi chín loài cá rạn san hô đến từ bốn mươi chín họ; một trăm chín
mươi loài san hô từ sáu mươi chín chi thuộc hai mươi lăm họ; chín mươi chín loài động vật thân mềm;
chín mươi mốt loài động vật không xương sống thuộc bảy mươi hai chi; hai mươi bảy loài động vật
giáp xác; mười bốn loài giun nhiều tơ và bốn loài động vật da gai. Người ta cũng ghi nhận năm mươi
chín loài chim khác nhau tại đảo này, trong đó chủ yếu là chim điên nâu, chim điên chân đỏ, hải âu
mặt trắng, nhàn mào và nhàn trắng. Hai loài bò sát là đồi mồi và đồi mồi dứa cũng thường lên đảo Ba
Bình để đẻ trứng.[29] Tại khu vực phía đông quần đảo, có ba trăm mười bốn loài cá rạn san hô, trong đó
có một trăm năm mươi sáu loài có giá trị thương mại (McManus & Meñez, 1997, dẫn lại số liệu của
Castañeda, 1988).[30] Một nghiên cứu của Malaysia tại đá Hoa Lau đã chỉ ra rằng có hai trăm lẻ năm
loài cá thuộc sáu mươi mốt họ, trong đó nhiều nhất là họ Bàng chài, họ Cá thia, họ Cá đuôi gai và họ
Cá bướm.[31] Nghiên cứu về các loài cá rạn san hô sống tại biển Trường Sa của Nguyễn (1994) cho
thấy có ba trăm hai mươi sáu loài cá rạn san hô thuộc một trăm mười bảy chi, đến từ bốn mươi bốn họ
và mười ba bộ. Trong đó, các họ có sự đa dạng về loài nhất là họ Cá thia (53 loài, 12 chi), họ Bàng
chài (32 loài, 14 chi), họ Cá mó (27 loài, 3 chi), họ Cá bướm (24 loài, 6 chi), họ Cá hồng (18 loài, 7
chi), họ Cá mú (18 loài, 6 chi) và họ Cá đuôi gai (16 loài, 4 chi).[32] Ngoài cá rạn san hô, nhiều loài cá
nổi biển khơi xa bờ cũng hiện diện tại Trường Sa, đến từ một số họ như họ Cá khế, họ Cá thu ngừ, họ
Cá nhám (Carchahinidae) và họ Cá thu rắn.[33]
Về thực vật, McManus, Shao & Lin (2010) thống kê được một trăm lẻ chín loài thực vật có mạch ở
khu vực đảo Ba Bình.[29] Nurridan (2004) đã nghiên cứu phá nước (vụng biển) của đá Hoa Lau và xác
định được hai loài cỏ biển và mười chín loài tảo biển, trong đó lớp tảo lục có mười hai loài, lớp tảo
nâu có hai loài và lớp tảo đỏ có năm loài.[34] Tại một số đảo do Việt Nam kiểm soát, người ta ghi nhận
một số loài thực vật hợp với thổ nhưỡng khô cằn và nhiễm mặn như bàng vuông, bão táp, muống
biển, phi lao, phong ba,...[35] Nhìn chung, thảm thực vật trên các đảo có tuổi rất trẻ vì đảo mới hình
thành trong thời kì địa chất gần đây. Các đảo ở phía nam như An Bang, Trường Sa có thảm thực vật
kém phát triển hơn các đảo ở phía bắc như Sơn Ca, Ba Bình, Song Tử Tây. [36]
Môi trường của quần đảo Trường Sa bị xâm hại nghiêm trọng do ngư dân từ Việt Nam, Philippines
và miền nam Trung Quốc khai thác thuỷ sản bằng các phương pháp tận diệt như vét cá, đánh cá bằng
thuốc nổ và bằng chất độc natri xyanua. Binh lính các quốc gia đóng quân tại đây khai thác rùa biển
và trứng của chúng, đồng thời còn đe doạ các sinh vật nhạy cảm sống ở nơi nước nông khi họ xây
dựng công sự và đường băng.[37]
Nhiều năm qua đã có một số nỗ lực nhằm bảo vệ môi trường sinh thái ở quần đảo. Ngày 8 tháng 6
năm 1982, Bộ Tài nguyên Philippines lập hai khu bảo tồn rùa biển ở đảo Loại Ta và đá An Nhơn; từ
tháng 8 năm 2008, có thêm khu bảo vệ rùa biển đẻ trứng trên đảo Thị Tứ; trên đảo Vĩnh Viễn có khu
bảo tồn chim.[38] Ngày 3 tháng 3 năm 2007, Đài Loan lập khu bảo vệ rùa biển đẻ trứng, lấy đảo Ba
Bình là trung tâm rồi mở rộng ra 12 hải lý xung quanh.[39] Việt Nam thì có kế hoạch lập khu bảo tồn
biển xung quanh đảo Nam Yết với diện tích 35.000 ha từ năm 2010.[40]
Sinh vật tại vùng biển quanh đá Hoa Lau
Cá hề cà chua (Amphiprion
frenatus).
Cá đuối chấm xanh (Taeniura
lymma).
Chaetodon ulietensis - một loài
thuộc họ Cá bướm.
Hệ động vật phong phú tại vùng
biển quanh đá Hoa Lau.
Lịch sử
Sự thay đổi nhận thức về các đảo và quần đảo trên biển Đông của Phương Tây (châu Âu) từ thế kỷ 18 sang thế
kỷ 19 (1710-1794-1801-1826).
Bản sao bản đồ Biển Đông và vùng Đông Nam Á của Matteo Ricci, vẽ trong "Khôn dư vạn quốc toàn đồ" in tại
Trung Quốc năm 1602, về sau được người Nhật Bản ghi thêm dòng chú thích bằng chữ Hán"双双双双" (Vạn Lí
Trường Sa).
Từ thế kỷ 16 đến 18, người châu Âu từ các quốc gia như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh Quốc và Phápvẫn
chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa quần đảo Trường Sa với quần đảo Hoàng Sa. Trên bản đồ thường
ghi I de Pracell như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590), bản đồ
Van Langren (1595)... Cho đến năm 1787-1788, đoàn khảo sát Kergariou Locmaria mới xác định rõ vị
trí của quần đảo Paracel (chính xác là quần đảo Hoàng Sa hiện nay) và từ đó người phương Tây mới
bắt đầu phân biệt quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc với một quần đảo khác ở phía nam, tức quần đảo
Trường Sa.[41]
Tên gọi
Sang thế kỷ 18 và thế kỷ 19 thì các nhà hàng hải châu Âu thỉnh thoảng đi ngang qua vùng Trường Sa.
Đến năm 1791 thì Henry Spratly người Anh du hành qua quần đảo và đặt tên cho đá Vành Khăn
là Mischief. Năm 1843 Richard Spratly đặt tên cho một số thực thể địa lý thuộc Trường Sa, trong đó
có Spratly's Sandy Island cho đảo Trường Sa. Kể từ đó Spratlydần trở thành tên tiếng Anh của cả quần
đảo.[42]
Đối với người Việt thì thời nhà Lê các hải đảo ngoài khơi phía đông được gọi chung là Đại Trường Sa
đảo. Đến thời nhà Nguyễn triều vua Minh Mạng thì tên Vạn Lý Trường Sa (双双双双) xuất hiện trong bản
đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ của Phan Huy Chú. Bản đồ này đặt nhóm Vạn Lý Trường Sa ở phía
nam nhóm Hoàng Sa (双双). Về mặt địa lý thì cả hai nhóm đều được khoanh lại thành một quần đảo lớn
nằm dọc bờ biển miền trung nước Đại Nam.[43]
"Hỗn nhất cương lý lịch đại quốc đô chi đồ" (双双双双双双双双双双).
Bản đồ "The Selden Map of China" (1624)
Tên gọi theo phía Trung Quốc: "Hỗn nhất cương lý lịch đại quốc đô chi đồ" (双双双双双双双双双双) thời nhà
Minh có đánh dấu vị trí của Thạch Đường, và vị trí này hiện được phía Trung Quốc cho là tương ứng
với Nam Sa (Trường Sa) hiện tại.[44] Bản đồ "The Selden Map of China" được lưu trữ tại thư viện Đại
học Oxford (Anh), được cho là "Thiên hạ hải đạo toàn đồ" hay "Đông - Tây dương hàng hải đồ" và
được làm ra vào khoảng năm Thiên Khải thứ 4 (1624), có ghi địa danh Vạn Lí Thạch Đường (双双双双),
(phía đông của đảo mang tên Ngoại La (双双), tức đảo Lý Sơn), ở kề cận phía nam tây nam của Vạn Lí
Trường Sa (双双双双).[45] Năm 1935, Trung Hoa Dân Quốc đã xuất bản "Biểu đối chiếu tên gọi Hoa-Anh
các đảo thuộc Nam Hải Trung Quốc", trong đó nước này gọi Trường Sa là Đoàn Sa (双双) còn địa
danh Nam Sa thời đó là để chỉ thứ mà ngày nay được gọi laTrung Sa.[46][Ghi chú 3] Ngày 1 tháng 12 năm
1947, nước này công bố tên Trung Quốc cho hàng loạt thực thể thuộc biển Đông và đặt chúng dưới sự
quản lí của mình.[47] Trong tấm bản đồ mới, Trung Hoa Dân Quốc lần đầu tiên vẽ đường mười một
đoạn đứt khúc (tiền thân của đường chín đoạn) thay cho đường vẽ bằng nét liền trước đây, đồng thời
họ đổi tên Nam Sa thành Trung Sa và đổi tên Đoàn Sa thành Nam Sa.[48]
Tranh chấp chủ quyền
Tình trạng chiếm đóng quần đảo của các nước
Từ những thập niên đầu của thế kỉ 20, thời kì yên bình của quần đảo Trường Sa đã chấm dứt. Hàng
loạt quốc gia từ châu Á đến châu Âu như Việt Nam, Pháp, các nhà nước Trung Quốc, Philippines,
Malaysia, Brunei và trong một số giai đoạn lịch sử là Anh và Nhật Bản đều tham gia vào cuộc tranh
chấp, dù là ở các mức độ khác nhau.
Việt Nam
Luận cứ
Bản đồ biển Đông do người Hà Lan vẽ vào năm 1754 đã ghi nhận quần đảo Hoàng Sa dưới tên gọi De
Paracelles.[Ghi chú 4]
Xem thêm về nội dung này tại Quần đảo Hoàng Sa.
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa dựa trên các luận cứ về hành động
chiếm hữu thực tế, quản lí liên tục và hoà bình dưới các triều đại phong kiến đối với địa danh
Hoàng Sa (nghĩa bao hàm Trường Sa) và sau này là sự nối tiếp của thực dân Pháp cùng các nhà
nước hiện đại trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn trưng ra các sử liệu về sự công
nhận của các giáo sĩ, nhà hàng hải từ các quốc gia châu Âu, các quốc gia trên thế giới về chủ
quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Thứ nhất, các sử liệu cổ của Việt Nam ghi chép rằng các địa danh như Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa,
Vạn Lí Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn Lí Trường Sa thuộc lãnh thổ của Việt Nam, ít nhất là
từ thế kỉ 17. Ví dụ:
Sách Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn xác định Bãi Cát Vàng thuộc về địa phận tỉnh
Quảng Ngãi. Đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải ở phía nam, tức quần đảo Trường Sa
ngày nay.[49] Lê Quý Đôn miêu tả Bãi Cát Vàng là nơi người ta có thể khai thác các sản phẩm
biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu. Ông viết:
Vạn Lí Trường Sa (双双双双) được thể hiện trong Đại Nam nhất thống toàn đồ(năm 1834-1840).
Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương, Quỳnh
Châu [đảo Hải Nam của Trung Quốc] gửi cho Thuận Hóa nói rằng: năm Càn Long thứ
mười tám [năm 1753] có mười tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương
Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, một ngày tháng bảy đến Vạn Lí Trường Sa [双双双
双] tìm kiếm các thứ, có tám tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để hai tên giữ thuyền, bị gió đứt dây
thuyền, dạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán...[50][51][Ghi chú 5]
— Lê Quý Đôn, "Phủ biên tạp lục", 1776
Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) thể hiện địa danh Vạn Lí Trường Sa và địa danh Hoàng
Sa là bộ phận của lãnh thổ nước Đại Nam, dù rằng bản đồ vẫn vẽ cả hai vào chung một quần
thể đảo.[43]
Thứ hai, Việt Nam cho rằng sau Hòa ước Giáp Thân (1884) do nhà Nguyễn kí kết với Phápthì
nước Pháp đã đại diện cho Việt Nam về mặt ngoại giao[52] và đã thi hành chủ quyền trên cả hai
quần đảo là Trường Sa và Hoàng Sa thay cho Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam xem việc năm mươi phái đoàn nước khác tham dự Hội nghị San
Francisco về hiệp ước hoà bình với Nhật Bản diễn ra ngày 7 tháng 7 năm 1951 (Trung Hoa Dân
Quốc và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không dự) không bác bỏ hay bảo lưu ý kiến đối với lời
phát biểu của Trần Văn Hữu-chủ tịch phái đoàn chính phủ Quốc gia Việt Nam-là một sự công
nhận mang tính quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa:
Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes
de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui, de tout
temps, ont fait partie du Viêt-Nam. [Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để
dập tắt những mầm mống bất hoà, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi
trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực
Việt Nam.][53]
“
”
Thứ tư, sau khi quân đội Pháp rút đi, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở phía nam vĩ tuyến 17 đã
tiếp tục tuyên bố chủ quyền và thực hiện công tác quản lí cả về hành chính lẫn thực tế đối với
quần đảo Trường Sa liên tục cho đến khi chấm dứt sự tồn tại vào tháng 4 năm 1975. Sau đó, nước
Việt Nam thống nhất tiếp tục tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này.
Diễn biến
Tháng 7 năm 1927, tàu de Lanessan của Pháp tiến hành một cuộc khảo sát khoa học trên quần
đảo Trường Sa.[54][55] Tháng 4 năm 1930, Pháp gửi tàu thông báo la Malicieuse đến quần đảo và
treo quốc kỳ Pháp trên một gò đất cao thuộc île de la Tempête;[56] tuy nhiên, dù nhìn thấy ngư dân
Trung Quốc trên đảo này nhưng Pháp không tìm cách trục xuất họ.[57] Ngày 23 tháng 9, Pháp
thông báo cho các cường quốc khác rằng Pháp đã chiếm quần đảo Trường Sa.[54]
Ngày 14 tháng 3 năm 1933, Pháp cho đội tàu gồm Malicieuse, tàu pháo Arlete và hai tàu thuỷ
văn Astrobale và de Lanessan từ Sài Gònđến đảo Trường Sa và hàng loạt địa điểm khác như đá
Chữ Thập, cụm rạn Luân Đôn, bãi san hô Tizard, bãi san hô Loại Ta, cụm rạn Thị Tứ và rạn
Nguy Hiểm Phía Bắc.[56] Tại từng địa điểm đi qua, người Pháp đã tổ chức nghi lễ chiếm hữu các
đảo chính thuộc nơi đó. Ngày 26 tháng 7, Bộ Ngoại giao Pháp ra bản thông tri về hành động trên,
kèm theo danh sách liệt kê tên các đảo đã chiếm hữu cùng tọa độ, bao gồm:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Hải đảo Spratly (chiếm ngày 13 tháng 4 năm 1930),
Tiểu đảo Caye-d'Amboine (7 tháng 4 năm 1933),
Tiểu đảo Itu-Aba (10 tháng 4 năm 1933),
Nhóm Hai Đảo (Groupe de Deux-îles, 10 tháng 4 năm 1933),[Ghi chú 6]
Tiểu đảo Loaito (11 tháng 4 năm 1933),
Hải đảo Thi-Tu (12 tháng 4 năm 1933) và các tiểu đảo phụ thuộc từng đảo này.[58]
Từ ngày 24 tháng 7 đến ngày 25 tháng 9, Pháp lần lượt thông báo cho các quốc gia có thể có lợi
ích tại Trường Sa biết về hành động của Pháp. Theo bạch thư của Việt Nam Cộng hòa thì ngoại
trừ Nhật Bản, tất cả các nước được thông báo đều không có lời phản đối Pháp; Trung Hoa Dân
Quốc, Hà Lan (đang kiểm soát Indonesia) và Hoa Kỳ cũng đều giữ im lặng.[56][Ghi chú 7] Ngày 21
tháng 12 năm 1933, thống đốc Nam Kỳ Jean-Félix Krautheimer kí Nghị định số 4702-CP sáp
nhập số đảo trên và "các đảo phụ thuộc" vào địa phận tỉnh Bà Rịa thuộc Liên bang Đông Dương.
[59]
Sáu năm sau, Thứ trưởng Ngoại giao Anh Quốc là Butter tuyên bố rằng Pháp đã thực thi đầy
đủ chủ quyền trên quần đảo.[60]
Thời Chiến tranh thế giới thứ hai, Đế quốc Nhật Bản chiếm một số đảo và sử dụng đảo Ba Bình
làm căn cứ tàu ngầm cho các chiến dịch ở Đông Nam Á. Sau cuộc chiến, Pháp và Trung Hoa Dân
Quốc tái khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Trung Hoa Dân Quốc gửi hai tàu tới
quần đảo và cho quân đổ bộ dựng bia trên đảo Ba Bình. Phản ứng lại hành động này, Pháp vài lần
gửi tàu đến Trường Sa vào cuối năm 1946. Năm 1947, Pháp yêu cầu Trung Hoa Dân Quốc rút
quân khỏi các đảo ngoài biển Đông nhưng cũng không làm gì để hiện thực hoá mong muốn của
mình. Khi hệ thống thuộc địa của Pháp bắt đầu tan rã, nước này cũng chấm dứt tuần tra quần đảo
Trường Sa vào năm 1948.[57] Năm 1951, Nhật Bản kí vào Hiệp ước San Francisco và từ bỏ mọi
quyền đối với quần đảo Trường Sa. Cũng tại Hội nghị San Franciso này, Thủ tướng kiêm Ngoại
trưởng Trần Văn Hữu của Quốc gia Việt Nam đã tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam. Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên
bố này.[61]
Sau khi người Pháp rời khỏi Việt Nam theo quy định của Hiệp định Genève 1954, quyền kiểm
soát các đảo thuộc về quân đội Quốc gia Việt Nam và kế tiếp là quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Sau sự kiện Tomás Cloma, ngày 1 tháng 6 năm 1956, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn
Mẫu tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa và Hoàng Sa. Ngày 2 tháng 6,
Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết về quyền của Pháp từ năm 1933.[62] Ngày 22 tháng 8 năm
1956, tàu HQ-04 Tuỵ Động của Hải quân Việt Nam Cộng hòaviếng thăm một số đảo thuộc
Trường Sa, thượng cờ và dựng bia ghi chủ quyền. Ngày 22 tháng 10 cùng năm, Ngô Đình
Diệm kí sắc lệnh số 143-NV về việc đổi tên các tỉnh thành miền Nam Việt Nam; văn bản ghi
"Hoàng Sa (Spratley)" (sic) thuộc tỉnh Phước Tuy.[63]
Phế tích bia chủ quyền Trường Sa do Việt Nam Cộng hòa dựng trên đảo Song Tử Tây. Trên bia có khắc
lời văn kỷ niệm chuyến thị sát Trường Sa vào 22 tháng 8 năm 1956.
Trong thời kì 1961-1963, Việt Nam Cộng hoà tiếp tục viếng thăm và dựng bia nhiều đảo. Năm
1961, tàu HQ-02 Vạn Kiếp và HQ-06 Vân Đồn thăm Song Tử Tây - Thị Tứ - Loại Ta - An Bang;
năm 1962, tàu Tuỵ Động và HQ-05 Tây Kết thăm Trường Sa - Nam Ai (tức Nam Yết); năm 1963,
ba tàu gồm HQ-404 Hương Giang, HQ-01 Chi Lăng và HQ-09 Kì Hoà đã dựng bia trên Trường
Sa (19 tháng 5), An Bang (20 tháng 5), Thị Tứ - Loại Ta (22 tháng 5) và Song Tử Đông - Song
Tử Tây (24 tháng 5).[60] Tuy nhiên, Hải quân Việt Nam Cộng hòa không duy trì sự hiện diện liên
tục ở quần đảo Trường Sa do vướng phải cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hoà Trần Văn Lắmđã nêu
yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa khi ông đang ở Manila. Ngày 6 tháng 9 năm
1973, Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành nghị định số 420-BNV/HCĐP/26 sáp nhập một số
đảo chính và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.[64]
Đầu năm 1974, một thời gian ngắn sau thất bại trong trận chiến tại nhóm đảo Lưỡi Liềmthuộc
quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ra quyết định tăng cường lực lượng tại
Trường Sa và chỉ thị quân đội tiến hành chiến dịch Trần Hưng Đạo 48 nhằm chiếm một số đảo.
Liên tiếp trong các tháng 2 và tháng 3 cùng năm, Việt Nam Cộng hoà tái khẳng định lại chủ
quyền của mình đối với hai quần đảo bằng nhiều con đường như thông qua đại sứ ở Manila, qua
hội nghị của Liên Hiệp Quốc về luật biển ở Caracas và hội nghị của Hội đồng Kinh tài Viễn Đông
ở Colombia.[65] Từ ngày 14 đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, các lực lượng hải quân của Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã hoàn toàn thay
thế lực lượng Việt Nam Cộng hòa trên năm đảo là Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và
Trường Sa.
Vào cuối thập niên 1970, trong các ngày 30 tháng 12 năm 1978 và 7 tháng 8 năm 1979, Việt Nam
phản đối Trung Quốc và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.
Ngày 28 tháng 9 năm 1978, Việt Nam phản đối Philippines sáp nhập các đảo thuộc Trường Sa
vào lãnh thổ của mình.[66]
Sang thập niên 1980, Việt Nam tiếp tục nhiều lần lên tiếng để phản ứng lại hành động của một số
quốc gia khác tại Trường Sa. Ngày 5 tháng 2 năm 1980, Việt Nam phản bác văn kiện ngày 30
tháng 1 năm 1980 của Trung Quốc về Nam Sa và Tây Sa. Trong năm 1982, Việt Nam sáp nhập
huyện Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh.[67] Năm 1983, Việt Nam phản đối việc Malaysia chiếm đá
Hoa Lau.[68] Năm 1989, Việt Nam chia tách tỉnh Phú Khánh và quy thuộc Trường Sa vào
tỉnh Khánh Hòa.
Năm 2007, Chính phủ Việt Nam kí nghị định thành lập ba đơn vị hành chính trực thuộc huyện
Trường Sa.[69] Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc hội Việt Nam khóa XIII (kì họp thứ 3) đã bỏ
phiếu thông qua Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương và 55 điều. Điều 1 của luật tái khẳng định
tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.[70]
Chỉ trích
Nhiều học giả quốc tế phản bác các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đưa ra. Cụ thể, khi nhận
định về các bằng chứng này, Valencia & ctg (1999) cho rằng chúng cũng "giống như Trung Quốc
- thưa thớt, mang tính giai thoại và không thuyết phục".[71] Lu (1995) cho rằng thư tịch cổ Việt
Nam "không trưng ra bằng chứng rõ ràng nói lên hiểu biết của Việt Nam về quần đảo Trường Sa
xét về tuyên bố chủ quyền riêng rẽ".[72] Cũng theo Lu (1995), trong số vài ghi chép đề cập đến
quần đảo Trường Sa thì "hầu hết chúng luôn luôn" xác định Trường Sa là một phần của quần đảo
Hoàng Sa;[72] tấm bản đồ năm 1838 [tức Đại Nam nhất thống toàn đồ của nhà Nguyễn, trong đó
thể hiện "Hoàng Sa" và "Vạn Lý Trường Sa" thuộc Việt Nam] vẽ "các đảo nằm rất sát nhau đồng
thời cũng gần bờ biển" Việt Nam, "thực tế là cùng một nhóm đảo".[72] Cordner (1994) còn nhận
xét tấm bản đồ 1838 thể hiện quần đảo Trường Sa nằm trong cương vực Việt Nam này là "không
chính xác".[73] Dzurek (1996) dẫn lại nhận xét của Heinzig (1976) rằng, lý luận lịch sử đến hết thế
kỷ 19 của Việt Nam "chỉ đề cập độc nhất đến quần đảo Hoàng Sa [Paracels]".[74] Cũng theo
Dzurek (1996), quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa đến 400 km, vì thế "sẽ là bất bình
thường nếu xem cả hai là một thực thể duy nhất hoặc dùng một tên gọi duy nhất cho cả hai".[74]
Học giả quốc tế và học giả Việt Nam cũng có những nhận định khác nhau về giá trị của luận điểm
cho rằng Pháp chiếm hữu một số đảo lớn và các đảo phụ thuộc thuộc quần đảo Trường Sa và sáp
nhập chúng vào tỉnh Bà Rịa thuộc Nam Kỳ vào năm 1933 là thực thi chủ quyền cho Việt Nam.
Về phía Việt Nam, Nguyễn (2002) dẫn chứng: "Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại giao Pháp đã viết rất
rõ: "Việc chiếm hữu quần đảo Spratley do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng Đế
"An Nam"."[55] Về phía nước ngoài, Chemillier-Gendreau (2000) đánh giá rằng thái độ của Pháp
đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa là khác nhau, vì Pháp khẳng định các quyền
đối với Trường Sa thông qua tư cách người đầu tiên chiếm đóng các đảo, dựa vào nguyên tắc đất
vô chủ (terra nullius) chứ không phải là người kế thừa của An Nam.[75] Valero (1993) dẫn chứng,
vào giữa tháng 10 năm 1950, trong khi Pháp chính thức nhượng lại tuyên bố chủ quyền quần đảo
Hoàng Sa cho Quốc gia Việt Nam [do Bảo Đại đứng đầu] thì nước này không ra một văn bản
chính thức nào thể hiện quyết định từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.[76] Năm 1956,
trong khi Việt Nam Cộng hoà tự phản đối Tomás Cloma (xem thêm) tuyên bố quyền sở hữu đối
với phần lớn quần đảo Trường Sa thì André-Jacques Boizet (đại biện Pháp tại Manila) báo cho
Philippines biết rằng Pháp có chủ quyền đối với các đảo Trường Sa căn cứ trên hành động chiếm
đảo trong thời kỳ 1932-1933. Đại biện bổ sung thêm: "trong khi Pháp nhượng lại [từ bỏ chủ
quyền] quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam thì Pháp không nhượng quần đảo Trường Sa". [76][77]
[78]
[Ghi chú 8] Theo Kivimaki (2002) thì đến năm 1957, Pháp "không chính thức từ bỏ tuyên bố
chủ quyền nhưng cũng không cố bảo vệ nó nữa"; cách hành xử này được cho là tương tự Anh
Quốc thập niên 1930 (xem phần Các tuyên bố khác).[78] Chemillier-Gendreau (2000) nhận định
nếu các luận cứ dựa trên lịch sử thời phong kiến của Việt Nam đủ làm sáng tỏ chủ quyền đối với
quần đảo Trường Sa thì sự kiện Pháp chiếm hữu quần đảo mới không làm phức tạp thêm vấn đề.
[79]
Một hướng phản bác khác đối với luận điểm Việt Nam thừa hưởng chủ quyền Trường Sa từ tuyên
bố chủ quyền của Pháp lần đầu vào năm 1933, Joyner (1998) cho rằng Pháp không hề nỗ lực hoàn
thiện danh nghĩa giữ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa bằng việc cho lính chiếm đóng quần
đảo cả khi quân đội Nhật Bản rời đi (sau Chiến tranh thế giới thứ hai) lẫn khi Nhật Bản từ bỏ
tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa trong năm 1951. Ông kết luận: "hậu quả [của
điều đó] là Pháp không có danh nghĩa sở hữu hợp pháp đối với quần đảo Trường Sa để mà Việt
Nam thừa hưởng."[80]
Furtado (1999) dẫn ra các lập luận được cho là của Trung Quốc, có nội dung bác bỏ lập luận Việt
Nam thừa hưởng Trường Sa từ Pháp. Tác giả viết, Trung Quốc lý luận rằng "không có dấu hiệu
cho thấy Việt Nam tiếp nhận danh nghĩa đối với quần đảo Trường Sa khi nước này độc lập", đồng
thời vì "Pháp chưa bao giờ tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa" nên Trung
Quốc không nhận thấy "bất cứ nguyên do có thể hiểu được nào giải thích cho việc Việt Nam nên
được hưởng danh nghĩa [chủ quyền] đối với toàn bộ quần đảo".[81]
Các nhà nước Trung Quốc
Luận cứ
Bài chi tiết: Các luận cứ của phía Trung Quốc
Năm 1958, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) tuyên bố chủ quyền của mình đối
với các đảo thuộc biển Đông dựa vào cơ sở lịch sử. Họ cho rằng quần đảo Trường Sa đã từng
là một phần của Trung Quốc trong gần 2.000 năm và đưa ra các đoạn trích trong các thư tịch
cổ cũng như các bản đồ từ thời nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Thanh và
gần nhất là thời Trung Hoa Dân Quốc mà theo Trung Quốc là có nhắc tới quần đảo Trường
Sa. Hiện vật khảo cổ như những mảnh đồ gốm Trung Quốc và tiền cổ được tìm thấy ở đó
cũng được Trung Quốc sử dụng nhằm chứng minh cho tuyên bố của mình.
Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Phạm Văn Đồng đã gửi Tổng lý Quốc
vụ viện Trung Quốc một công hàm để ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9
năm 1958 của chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về hải phận của nước này.
Báo Nhân dân của Việt Nam cũng đăng công hàm này vào ngày 22 tháng 9 cùng năm.
[82]
Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, sự công nhận này "đương nhiên có giá trị với toàn bộ
lãnh thổ Trung Quốc" vì báo Nhân dân trước đó đã đăng bài chi tiết về bản tuyên bố về lãnh
hải của chính phủ Trung Quốc, trong đó nói rằng "kích thước lãnh hải của nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lí và điều này được áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Đông".[83][Ghi chú 9]
Ngoài ra, Trung Quốc còn khẳng định rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và nhiều quốc gia
khác đã nhiều lần công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa trong
quá khứ. Theo Trung Quốc thì:
Ngày 16 tháng 5 năm 1956, trong buổi tiếp Đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc
tại Việt Nam Lý Chí Dân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Ung
Văn Khiêm đã nói rằng: "Căn cứ vào những tư liệu của Việt Nam và xét về mặt lịch sử,
quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc." Vụ trưởng Vụ
châu Á Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Lộc giới thiệu những tư liệu của phía Việt Nam. Lê
Lộc nói: "Xét từ lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về Trung Quốc
ngay từ đời Nhà Tống."[84] Cuốn sách "Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa" của ông Lưu Văn Lợi do Nhà xuất bản Công an Nhân dân Hà
Nội phát hành năm 1995 xác nhận "Việc nói Tây Sa là của Trung Quốc trong bản tuyên
bố của chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong tuyên bố năm 1965 về việc
Mỹ quy định khu vực chiến đấu của quân Mỹ hay câu nói của Thứ trưởng Ngoại giao
Ung Văn Khiêm về Tây sa là có thật."[85]
Ngày 9 tháng 5 năm 1965, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố về việc
Chính phủ Mỹ lập "khu tác chiến" của quân Mỹ tại Việt Nam, trong đó có nói "Việc
Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ biển Việt Nam
rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nước
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoà là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ", đây là sự
đe dọa trực tiếp "đối với an ninh của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước láng
giềng."[84]Cuốn sách "Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa" của ông Lưu Văn Lợi do Nhà xuất bản Công an Nhân dân Hà Nội phát hành năm
1995 xác nhận "Việc nói Tây Sa là của Trung Quốc trong bản tuyên bố của chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong tuyên bố năm 1965 về việc Mỹ quy định khu
vực chiến đấu của quân Mỹ hay câu nói của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm về
Tây sa là có thật."[85]
Trong Tập bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ Phủ Thủ tướng Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa in vào tháng 5 năm 1972, tại trang 19, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa được
đề tên là "Tây Sa" và "Nam Sa" chứ không phải là "Hoàng Sa" và "Trường Sa."[86]
Bài "Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" trong sách giáo khoa Địa lý - Lớp Chín Phổ
thông - Toàn tập do Nhà xuất bản Giáo dục của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xuất bản
năm 1974 có câu: "Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải nam, Đài
loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn... làm thành một bức «trường thành» bảo vệ lục địa
Trung Quốc."[87]
Nhiều quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Liên Xô, Nhật Bản, Anh, Pháp, Tây
Đức, Đông Đức cũng từng phát hành các bản đồ, át-lát địa lý trong đó thể hiện Trường
Sa hoặc các quần đảo trên biển Đông là lãnh thổ Trung Quốc.[83]
Diễn biến
Ngày 29 tháng 9 năm 1932, để đáp lại một văn bản đề cập đến quần đảo Hoàng Sa do Pháp
gửi tới toà công sứ Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc gửi một văn bản không rõ ràng cho
Pháp đề cập đến chủ quyền của họ đối với một quần đảo khác ở cách quần đảo Hoàng Sa 150
dặm dựa trên cơ sở là Công ước Pháp-Thanh 1887.[88] Sau sự kiện Pháp chiếm hữu Trường Sa
vào năm 1933, các bản đồ của Trung Hoa Dân Quốc đã thay đổi cách vẽ qua việc mở rộng
đường giới hạn (vẽ bằng nét liền) tại biển Đông xuống khu vực giữa vĩ tuyến 7° Bắc và vĩ
tuyến 9° Bắc nhằm nói lên rằng quần đảo Trường Sa là thuộc về Trung Quốc.[89]
"Nam Hải chư đảo vị trí đồ" (双双双双双双双) năm 1947
Cuối năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc cho hai tàu chiến là Thái Bình và Trung Nghiệp đến
quần đảo Trường Sa. Sau thất bại trong cuộc nội chiến Trung Quốc, Quốc dân Đảng đã rút
quân khỏi đảo Ba Bình vào năm 1950. Tuy nhiên, sự kiện Tomás Cloma đã kích động Đài
Loan quay lại giành quyền kiểm soát đảo Ba Bình vào năm 1956.[90]
Tại đại lục Trung Quốc, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời vào ngày 1 tháng 10 năm
1949. Chỉ hai năm sau, vào ngày 15 tháng 8 năm 1951, Chu Ân Lai công khai khẳng định lại
chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa sau khi ông đọc được bản sơ
thảo hiệp ước hoà bình với Nhật Bản. Tiếp sau đó, ngày 24 tháng 8 năm 1951, Tân Hoa
xã của Trung Quốc đã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp cũng như tham vọng của
Philippines đối với Trường Sa và mạnh mẽ khẳng định quyền của Trung Quốc. Ngày 31
tháng 5 năm 1956, Trung Quốc phản ứng lại sự kiện Cloma và khẳng định sẽ không tha thứ
cho bất cứ sự xâm phạm nào đối với quyền của nước này đối với Trường Sa.[91]
Thập niên 1970, Trung Quốc nhiều lần lên tiếng phản hồi về hành động của các quốc gia
khác: ngày 16 tháng 7 năm 1971, Trung Quốc phản đối việc Philippines có hành vi chiếm
đóng một số đảo ở Trường Sa; ngày 14 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc phản đối Việt Nam
Cộng hoà sáp nhập các đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy.[92]
Năm 1987, Trung Quốc cho tàu khảo sát hàng loạt địa điểm ở quần đảo Trường Sa và đi đến
quyết định sẽ chọn đá Chữ Thập làm nơi đóng quân.[93] Trong thời gian trước và sau
cuộc xung đột vũ trang với Việt Nam tại Trường Sa vào năm 1988, hải quân Trung Quốc đã
liên tục chiếm thêm nhiều rạn đá khác nhằm mở rộng tầm kiểm soát tại quần đảo.
Một điểm quan trọng trong chuỗi các diễn biến tại Trường Sa là sự phối hợp và tương trợ lẫn
nhau của Đài Loan và Trung Quốc trong hoạt động tuyên bố chủ quyền và mở rộng tầm kiểm
soát tại quần đảo. Tháng 3 năm 1988, quân đồn trú của Đài Loan trên đảo Ba Bình đã tham
gia tiếp tế lương thực và nước uống cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.[94] Đương
thời, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Đài Loan là Trịnh Vi Nguyên (双双双) từng công khai tuyên
bố rằng "Nếu chiến tranh nổ ra, quân đội Quốc gia sẽ giúp quân đội Cộng sản kháng chiến".
[95]
Đến năm 1995, khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát đá Vành Khăn với Philippines vào
- Xem thêm -