Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bdtx module 14...

Tài liệu Bdtx module 14

.DOC
7
197
53

Mô tả:

PHÒNG GD& ĐT NHA TRANG TRƯỜNG THCS TRẦN QUỐC TOẢN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc NỘI DUNG BỒI DƯỠNG 3 “MODULE THCS 14 – XÂY DỰNG KẾ HOẠCH DẠY HỌC THEO HƯỚNG TÍCH HỢP” BÀI LÀM: Câu 1: Nêu các yêu cầu của một kế hoạch dạy học theo hương tích cực: - Cấu trúc bài soạn phải bao quát đuợc tổng thể các phương pháp dạy học đa dạng và nhiều chiều, tạo điều kiện vận dung phối hợp những phuơng pháp dạy học, mềm dẽo về mức độ chi tiết để có thể thích ứng đựợc với cả những giáo viên đã dày dặn kinh nghiệm lẫn những giáo viên trẻ mới ra trường hay giáo sinh thực tập sư phạm. Đồng thời làm nổi bật hoạt động của học sinh như là thành phần cốt yếu. - Bài soạn phải nêu được các mục tiêu của tiết học. Giáo viên cần phải xác định chính xác trọng tâm kiến thức kĩ năng của bài dạy, trên cơ sở đó có phương pháp dạy phù hợp. Thông qua phương pháp dạy, cách hỏi, rèn kĩ năng mà thầy giáo có thể rèn luyện bồi dưỡng phát triển tư duy, phát triển trí thông minh của học sinh. Mục đích yêu cầu sẽ chỉ đạo toàn bộ nội dung kế hoạch thực tiển bài dạy và chính nội dung bài dạy quy định mục đích yêu cầu. chính vì vậy việc xác định mục đích yêu cầu là vấn đề hết sức quan trọng đòi hỏi sự dụng công, đòi hỏi ý thức trách nhiệm cao của giáo viên lúc soạn bài. - Bài soạn phải nêu được kết cấu và tiến trình của tiết học, bài soạn phải làm nổi bật các vấn đề sau: Sự phát triển logic từ giai đoạn này đến giai đoạn khác, từ phần kiến thức này đến phần kiến thức khác. Giảng dạy phù hợp với quy luật nhận thức, dẫn giải, suy luận từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp một cách có hệ thống. Làm rõ sự phát triển tất yếu từ kiến thức này đến kiến thức khác. Cụ thể là đảm bảo mối liên hệ logic giữa các phần, mỗi phần là một phân hệ, các phần hệ gắn bó chặt chẽ tạo nên một hệ toàn vẹn. - Bài soạn phải xác định được nội dung, phương pháp làm việc của thầy và trò trong cả tiết học: Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với một tiết học. Từ chỗ giáo viên nắm vững nội dung kiến thức, vận dụng thành thạo kiến thức đến cho truyền thụ cho được kiến thức đó đến học sinh, để họ nắm bắt và vận dụng được đòi hỏi ờ người thầy sự động não, sự dụng công thực sự. Muốn như vậy thầy giáo phải lựa chọn được phuơng pháp thích hợp ứng với từng giờ giảng và trong bài soạn phải nêu được một cách cụ thể công việc của thầy và trò trong tiết học cụ thể. xác định đồ dùng dạy học và phương pháp sử dụng chúng. Câu 2: Nêu mục đích, nội dung, phương pháp của kế hoạch dạy học theo hương tích cực? * Kế hoạch dạy học tích hợp nhằm nhiều mục đích khác nhau, có bốn mục đích lớn sau: - Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa hơn bằng cách đặt các quá trình học tập và nhận thức trong hoàn cảnh có ý nghĩa đối với HS. chính vì vậy, việc học tập không tách rời cuộc sống hằng ngày mà thường xuyên được liên hệ và kết nối trong mối quan hệ với các tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp trong thực tiển, những tình huống có ý nghĩa với HS. Nói một cách khác việc học ở nhà trường hòa nhâp vào đời sống thường ngày của học sinh. Để thực hiện điều này, các môn học học riêng rẽ không thể thực 1 hiện được vai trò trên mà cần phải có sự đóng góp của nhiều môn học, sự kết hợp của nhiều môn học. - Phân biệt cái cốt yếu với cái thứ yếu. Không thể dạy học một cách dàn trãi. Bên cạnh những điều hữu ích, những kiến thức và năng lục cơ bản có những thứ được dạy chỉ là “lí thuyết", không thật hữu ích. Trong khi đó, giờ học trên lớp là có hạn, nhiều kiến thức và năng lực cơ bản không đủ thời gian cần thiết. Giáo viên nén nhấn mạnh những quá trình học tập cơ bản, chẳng hạn như: là cơ sở của các quá trình học tập tiếp theo; là những kỉ năng quan trọng hoặc chúng có ích trong cuộc sống hằng ngày... - Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống. DHTH chú trọng tới việc thực hành, sử dụng kiến thúc mà HS đã lĩnh hội được, thay vì chỉ học tập lí thuyết mọi loại kiến thức. Mục tiêu của DHTH là hướng tới việc giáo dục HS thành con người chủ động, sáng tạo, có năng lực làm việc trong xã hội cũng như làm chủ cuộc sổng của bản thân sau này. - Lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học. Một trong bốn mục tiêu của DHTH là nhằm thiết lập mối quan hệ giữa những khái niệm khác nhau của cùng một môn học cũng như của những môn học khác nhau. Sẽ giúp cho HS có năng lục giải quyết các thách thức bất ngờ gặp trong cuộc sống, đòi hỏi người đối mặt phải biết huy động những năng lực đã có không chỉ ở một khía cạnh mà nhiều lĩnh vục khác nhau để giải quyết… Tóm lại, cần: - Hiểu được bản chất của kế hoạch dạy học tích hợp. - Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa bằng cách gắn học tập với cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ với các tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp sau này, hòa nhập thế giới học đường với thế giới cuộc sống. - Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn. Cái cốt yếu là những năng lực cơ bản cần cho học sinh vận dụng vào xử lí những tình huống có ý nghĩa trong cuộc sống, hoặc đặt cơ sở không thể thiếu cho quá trình học tập tiếp theo. - Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể . Thay vì tham nhồi nhét cho học sinh nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, dạy học tích hợp chú trọng tập dượt cho học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng học được vào các tình huống thực tế, có ích cho cuộc sống sau này làm công dân, làm người lao động, làm cha mẹ, có năng lực sống tự lập. - Xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã học . Trong quá trình học tập, học sinh có thể lần lượt học những môn học khác nhau, những phần khác nhau trong mỗi môn học nhưng học sinh phải biết đặt các khái niệm đã học trong những mối quan hệ hệ thống trong phạm vi từng môn học cũng như giã các môn học khác nhau. Thông tin càng đa dạng, phong phú thì tính hệ thống phải càng cao, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được kiến thức và mới vận dụng được kiến thức đã học khi phải đương đầu với một tình huống thách thức, bất ngờ, chưa từng gặp. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. * Nội dung của kế hoạch dạy học tích cực: - Dạy học theo hướng lồng ghép tích hợp thực hiện ở một số nội dung môn học và các hoạt động giáo dục: nội dung tích hợp được bao gồm những nội dung như tích hợp giáo dục đạo đức, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục phòng chống tham nhũng; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo vệ môi 2 trường; giáo dục về dân số, đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; giáo dục về tài nguyên và môi trường, chủ quyền biển đảo theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT. - Mức độ tích hợp tùy theo từng môn học, ND để lựa chọn mức độ tích hợp, với bộ môn tích hợp Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thì mức độ tích hợp từ liên hệ (chỉ khai thác ND bài học và liên hệ với kiến thức về tấm gương đđ HCM, mức độ hạn chế), tích hợp bộ phận ( chỉ một phần của bài học, hoạt động thực hiện nội dung giáo dục về tấm gương đđ HCM, mức độ trung bình) đến tích hợp toàn phần ( cả một bài có nội dung trùng khớp với nội dung giáo dục về tấm gương đđ HCM, mức độ cao nhất). Đối với giáo viên thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lý do: -Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó; -Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học; Vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. Có bốn quan điểm khác nhau trong việc liên kết, tích hợp các môn học: - Quan điểm trong “Nội bộ môn học". Theo quan điểm này chỉ tập trung chủ yếu vào nội dung của môn học. Quan điểm này nhằm duy trì các môn học riêng rẽ. - Quan điểm “đa môn". Quan điểm này theo định hướng: những tình huống, những “đề tài", nội dung kiến thức nào đó được xem xét, nghiên cứu theo những quan điểm khác nhau nghĩa là theo những môn học khác nhau; ví dụ: nghiên cứu giải bài Toán theo quan điểm Toán học, theo quan điểm Vật lí, Sinh học. Quan điểm này, những môn học tiếp tục tiếp cận một cách riêng rẽ và chỉ gặp nhau ở một số thời điểm trong quá trình nghiên cứu các đề tài. Như vậy, các môn học chưa thực sự được tích hợp. - Quan điểm “liên môn", trong đó chúng ta đề xuất những tình huống chỉ có thể được tiếp cận một cách hợp lí qua sự soi sáng của nhiều môn học. Ví dụ, câu hỏi “Tại sao phải bảo vệ rừng?" chỉ cỏ thể giải thích được dưới ánh sáng của nhiều môn học: Sinh học, Địa lí, Toán học... Ở đây nhấn mạnh đến sự liên kết giữa các môn học, làm cho chúng tích hợp với nhau để giải quyết một tình huống cho trước: Các quá trình học tập sẽ không được đề cập một cách rời rạc mà phải liên kết với nhau xung quanh những vấn đề phải giải quyết. - Quan điểm “xuyên môn", trong đó chủ yếu phát triển những kĩ năng mà học sinh có thể sử dụng trong tất cả các môn học, trong tất cả các tình huống, chẳng hạn, nêu một giả thiết, đọc thông tin, thông báo thông tin, giải một bài toán... Những kĩ năng này gọi là xuyên môn, có thể lĩnh hội được những kĩ năng này trong từng môn học hoặc nhân dịp có những hoạt động chung cho nhiều môn học. - Trong bốn quan điểm trên, có những mặt mạnh và khó khăn, vì vậy khi áp dụng cần hết sức lưu ý tới những đặc điểm. Tuy nhiên yêu cầu của xã hội và dạy học ngày nay đòi hỏi phải hướng tới hai quan điểm liên môn và xuyên môn. Quan điểm liên môn cho phép việc phối hợp kiến thúc, kĩ năng của nhiều môn học để nghiên cứu và giải quyết một tình huống. Quan điểm xuyên môn cho phép phát triển ở hs những kiến thúc, kĩ năng xuyên môn để có thể áp dụng trong mọi tình huống, giải quyết vấn đề. * Phương pháp của kế hoạch dạy học tích cực: 3 - Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp là lồng ghép nội dung tích hợp vào các bài dạy, tùy theo từng môn học mà lồng ghép tích hợp ở các mức độ như liên hệ, lồng ghép bộ phận, toàn phần,...từ đó giáo dục và rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho học sinh. - Phương thức tích hợp đưa ra 2 dạng tích hợp cơ bản, mỗi một dạng lại đưa ra 2 cách thức tích hợp, được thể hiện như sau: Dạng tích hợp thứ nhất đưa ra những ứng dụng chung cho nhiều môn học (chẳng hạn các vấn đề năng lượng, bảo vệ môi trường...). Dạng tích hợp này vẫn duy trì các môn học riêng rẽ, trong khi các ứng dụng chung được tích hợp vào những thời điểm thích hợp. Đây là cách tích hợp được vận dụng phổ biến hiện nay. Các thời điểm thực hiện là: - Cách thứ nhất: Những ứng dụng chung cho nhiều môn học được thực hiện ở cuối năm học hay cuối cấp học trong một bài học hoặc một bài tập tích hợp. - Cách thứ hai: Những ứng dụng chung cho nhiều môn học được thực hiện tương đối đều % trong suốt năm học, trong các tình huống thích hợp. Với dạng tích hợp thứ nhất này, định hướng vẫn là đa môn (các đơn nguyên tích hợp đòi hỏi sự đóng góp của những môn học khác nhau) và liên môn (chúng ta xuất phát từ một tình huống tích hợp), tuy nhiên vẫn chưa phải là xuyên môn bởi vì các đơn nguyên tích hợp chưa dựa trên sự phát triển các kĩ năng xuyên môn: những ứng dụng vẫn phục vụ cho những môn học khác nhau. Dạng tích hợp thứ hai: Phối hợp các quá trình học tập của nhiều môn học khác nhau. Dạng tích hợp thứ hai thường dẫn đến phải phối hợp quá trình dạy học của các môn học. Dạng tích họp này nhằm hợp nhất hai hay nhiều môn học thành một môn học duy nhất. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu xd chương trình và tài liệu học tập phù hợp, thường phức tạp. Có thể nêu lên về nguyên tắc thứ hai cách tích hợp theo hướng này như sau: - Cách thứ nhất: Phối hợp quá trình học tập những môn học khác nhau bằng đề tài tích hợp. Theo đó người ta nhóm các nội dung có mục tiêu bổ sung cho nhau thành các đề tài tích hợp, trong khi các môn học vẫn giữ nguyên những mục tiêu riêng; Những giới hạn của cách tiếp cận bằng đề tài tích hợp: 1. Cũng như mọi ppgd dựa trên sự phát triển các đề tài, cách tiếp cận này không bao giờ đảm bảo rằng học sinh thực sự có khả năng đối phó với một tình huống thực tế. 2. Cách tiếp cận này chủ yếu có giá trị trong giảng dạy ở tiểu học, ở đó những vấn đề phải xử lí thường là tương đối giới hạn và đều có thể nêu trong những đề tài đơn giản. Khó có thể tích hợp theo cách này những môn học đòi hỏi những sự phát triển logic móc nối với nhau, như những giáo trình toán học, ngôn ngữ thứ hai, vật lí hoặc hoá học (chủ yếu những giáo trình ở trung học), và trong đỏ không thể có “lỗ hỏng", nghĩa là trong những môn học đó có những giai đoạn logic phải tôn trọng trong quá trình học tập. 3. Cách tiếp cận này càng khó thục hiện hơn với những môn học trong đó những trường khái niệm rất phức tạp, và mức độ tự do để đề cập các nội dung khác nhau theo cách này hoặc cách khác là giới hạn (chẳng hạn những môn học ở trung học nêu ờ trên). 4. Những môn học do những chuyên gia giảng dạy (chẳng hạn môn Giáo dục sức khỏe hay môn Đạo đức ở một số nước) cũng rất khó đưa vào cách tiếp cận này. 5. Cuối cùng cách tiếp cận này chỉ đáng chú ý nếu chúng ta muốn phát triển những kĩ năng xuyên môn thông qua các giáo trình: tìm thông tin, giải các bài toán, phát triển óc phê phán... Nếu như đó là một giới hạn trong phạm vi một môn học, đó cũng là một 4 quan điểm mạnh khi sự phát triển các kĩ năng xuyên môn là cần cho việc giáo dục hs. - Cách thứ hai: Phối hợp quá trình học tập những môn học khác nhau bằng ảnh hưởng tích hợp, theo đó các môn học được tích hợp xung quanh những mục tiêu chung. Những mục tiêu chung này gọi là các mục tiêu tích hợp. Dạng tích hợp này có nhiều ưu điểm là nó dạy cho học sinh giải quyết các tình huống phức hợp bằng cách vận dụng kiến thức từ nhiều môn học trong một tình huống lẫn với cuộc sống. Như vậy, phương pháp chính của cách tích hợp này là tìm những mục tiêu chung cho các môn học, đặt ra mục tiêu tích hợp giữa các môn học, có thể khái quát qua sơ đồ: Mục tiêu tích hợp này được thục hiện đòi hỏi hs phải tìm cách giải quyết bằng sự phối hợp những kiến thức lĩnh hội từ nhiều môn học khác nhau. Đây là pp điển hình của DHTH bởi vì: Dạng tích hợp này dạy cho hs giải quyết những tình huống phức tạp, vận dụng nhiều môn học. Tích hợp được nhiều kiến thức và kĩ năng của các môn học để đạt được mục tiêu tích hợp cho những môn học đó. - Việc thực hiện các cách DHTH nêu trên không tránh khỏi những khó khăn khi tích hợp các môn học, bởi vì mỗi môn học cỏ những mục tiêu đặc thù, phuơng pháp học tập bộ môn, cách đánh giá môn học... vì vậy, để lập được kế hoạch DHTH giáo viên cần nghiên cứu kĩ chương trình và sgk cấp học, môn học, cách đánh giá kết quả học tập của HS... - Điều quan trọng nhất cần lưu ý không phải là tích hợp theo cách nào: tích hợp bên trong một môn học, liên môn, quan điểm xuyên môn, tích hợp hoàn toàn hơn giữa các môn học mà quan trọng là phải xác định được mục tiêu tích hợp để làm gì, qua DHTH đó sẽ đạt được mục tiêu gì, và việc tích hợp có phải là cách tốt nhất, hiệu quả nhất hay không. Ngoài ra, một số hình thức khác cũng có thể sử dụng, chẳng hạn như: - Sử dụng sgk riêng biệt, nhưng có lựa chọn ND để tích hợp các hoạt động liên môn. - Xây dựng một sổ tài liệu theo đề tài tích hợp trong một học kì. - Xây dựng một tài liệu tham khảo theo dạng “ngân hàng dữ liệu" cho nhiều môn học Câu 3: Cho ví dụ về một đơn vị kiến thức trong môn học thầy (cô) giảng dạy - Tích hợp ngang: Tích hợp ngang là kiểu tích hợp giữa ba phân môn Văn - Tiếng Việt -Tập làm văn. Điều này thể hiện trong việc bố trí các bài học giữa ba phân môn một cách đồng bộ và sự liên kết với nhau trên nhiều mặt nhằm hỗ trợ nhau, bổ sung làm nổi bật cho nhau. Phân môn này sẽ củng cố, hệ thống hóa lại kiến thức cho phân môn khác . Ví dụ: Khi dạy bài “Cuộc chia tay của những con búp bê” (Ngữ văn 7-Tập 1 Trang 21) thì giáo viên tích hợp kiến thức của phân môn Tiếng Việt qua bài “Từ láy”. - Giáo viên đặt câu hỏi: Em hãy tìm những từ láy miêu tả trạng thái của em Thủy khi nghe mẹ ra lệnh chia đồ chơi ? -Học sinh trả lời: (run lên) bần bật, (mắt buồn) thăm thẳm, (tiếng khóc) nức nở tức tưởi, loạng choạng, buồn bã … - Giáo viên đặt câu hỏi: Việc sử dụng những từ láy đó giúp em hình dung thế nào về tâm trạng của nhân vật Thủy ? - Học sinh trả lời: Tâm trạng bàng hoàng, đau đớn, nghẹn ngào khi biết mình sắp phải chia tay với người anh thân yêu. - Tích hợp dọc: 5 Tích hợp dọc là cách vận dụng quan điểm tích hợp trong cùng một phân môn với nhau tức là giữa Văn bản với Văn bản , giữa TV với TV , giữa TLV với TLV trong cùng một khối (lớp) hoặc khác khối (lớp) theo chiều dọc từ trên xuống . Thực chất, tích hợp theo chiều dọc là hệ thống hóa các kiến thức có liên quan với nhau ở những thời điểm thích hợp sao cho học sinh có thể nắm bắt vấn đề một cách hệ thống. Khi thực hiện tích hợp dọc, các kiến thức được nhắc lại, được liên hệ với nhau giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu nội dung bài học. + Tích hợp dọc trong một phân môn cùng khối (lớp) Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê”(Ngữ văn 7 – Tập 1 Trang 125), giáo viên tích hợp kiến thức với văn bản “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” (Ngữ văn 7 – Tập 1 - Trang 123) - Giáo viên đặt câu hỏi: Qua bài “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” và tiêu đề bài thơ “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê”, em hãy so sánh tình huống thể hiện tình yêu quê hương trong hai bài thơ trên ? - Học sinh trả lời: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê Sống xa quê, trông trăng nhớ đến Xa quê lâu ngày khi đặt chân về lại quê nhà. bị xem là khách lạ. => Thể hiện tình cảm lúc xa quê. => Thể hiện tình cảm khi vừa mới đặt chân về quê. Ví dụ 2: Khi dạy bài “Từ đồng âm” (Ngữ văn 7 – Tập 1 - Trang 135), giáo viên tích hợp kiến thức với bài “Từ đồng nghĩa” (Ngữ văn 7 –Tập 1 - Trang 113) để giúp học sinh nhận biết được sự khác nhau giữa hai loại từ này. - Giáo viên đặt câu hỏi:Hãy so sánh sự khác nhau giữa từ đồng âm và từ đồng nghĩa? Cho ví dụ minh họa ? - Học sinh trả lời: Từ đồng âm, Từ đồng nghĩa Là những từ có âm thanh giống nhau Là những từ có nghĩa giống nhau nhưng nghĩa khác nhau, không liên hoặc gần giống nhau. quan gì với nhau. VD: VD: -Con ngựa đang đứng bỗng lồng lên. - Rủ nhau xuống bể mò cua Đem về nấu quả mơ chua trên rừng - Tôi nhốt con chim vào lồng. - Chim xanh ăn trái xoài xanh Ăn no tắm mát đậu cành cây đa. Ví dụ 3: Khi dạy b ài “Câu đặc biệt” (Ngữ văn 7 - tập 2 –trang 27 )giáo viên tích hợp kiến thức bài “Rút gọn câu” (Ngữ văn 7 - tập 2 – trang 14) Giáo viên đặt câu hỏi: Em hãy cho biết câu đặc biệt và câu rút gọn khác nhau như thế nào? Học sinh trả lời: - Câu đặc biệt: Không có cấu tạo theo mô hình chủ ngữ, vị ngữ. - Câu rút gọn : Lược bỏ một số thành phần trong câu. - Tích hợp dọc trong cùng một phân môn nhưng khác khối (lớp) 6 Đây là kiểu tích hợp theo chiều dọc từ dưới lên . Bậc Trung học phổ thông Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Bậc Trung học cơ sở Bậc Tiểu học Giảng dạy theo quan điểm tích hợp này giúp học sinh củng cố, hệ thống lại kiến thức có liên quan với nhau từ các lớp dưới lên, nhằm khắc sâu, mở rộng, cung cấp thêm kiến thức cao hơn dựa trên những kiến thức đã học ở lớp dưới. Ví dụ: Khi dạy bài “Rút gọn câu” (Ngữ văn7 – Tập 2 - Trang 14), giáo viên tích hợp với bài “Câu trần thuật đơn” (Ngữ văn 6 - Tập 2 - Trang 101). Thông qua hai loại câu này giúp học sinh nhận biết được sự khác nhau về kiểu cấu tạo giữa câu rút gọn và câu trần thuật đơn. - Giáo viên đặt câu hỏi: Hãy so sánh sự khác nhau về cấu tạo giữa hai kiểu câu trên và cho ví dụ minh họa ? - Học sinh trả lời: Câu trần thuật đơn Câu rút gọn Là loại câu do một cụm C_V tạo thành. Là loại câu có thể bị lược bỏ một số thành phần của câu VD: Chúng ta học ăn, học nói, học gói, VD: Học ăn, học nói, học gói, học mở. học mở. Tân Lập, ngày 03 tháng 12 năm 2017 NGƯỜI THỰC HIỆN Võ Thị Ngọc Hoàng 7
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng