Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo vệ quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật...

Tài liệu Bảo vệ quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật

.PDF
89
90
106

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÂM THỊ PHƯƠNG THANH BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÂM THỊ PHƯƠNG THANH BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 603801 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế HÀ NỘI - 2009 2 MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Năm 1924 Tuyên bố Giơnevơ đã nêu “... mọi dân tộc có trách nhiệm tạo cho trẻ em điều tốt đẹp nhất, tuyên bố và chấp nhận đó là nhiệm vụ của mình, vượt lên trên mọi sự quan tâm về chủng tộc, quốc tịch và nòi giống”; là lứa tuổi quyết định tương lai của mỗi quốc gia, trẻ em luôn được quan tâm, giáo dục để có thể phát triển bình thường nhất. Công ước Liên hiệp quốc 1990 về quyền trẻ em (có 192 quốc gia thành viên) đã tạo khung pháp lý thống nhất cho các quốc gia thành viên quy định về quyền trẻ em. Mọi quy định phải hướng tới “Những người trẻ tuổi nên có một vai trò và góp phần tích cực trong xã hội và không nên bị xem chỉ là mục tiêu của sự xã hội hóa hay sự kiểm soát” - Hướng dẫn số 3 của Hướng dẫn Riyadh. Việt Nam là quốc gia luôn nhận thức sâu sắc rằng "Trẻ em là thế hệ tương lai của đất nước", Nhà nước và toàn xã hội có trách nhiệm đối với việc tăng cường đầu tư cho trẻ em, nhằm tạo ra những thế hệ thanh niên khoẻ mạnh, thông minh, hiểu biết và sáng tạo cho quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam là quốc gia thứ hai tham gia Công ước quốc tế về Quyền Trẻ em và cam kết thực hiện Kế hoạch hành động vì trẻ em ngay từ thập niên 90 thế kỷ trước. Bằng nhiều chính sách, Chính phủ Việt Nam đã thu hút nhiều nguồn lực đầu tư cho các mục tiêu bảo vệ và chăm sóc trẻ em, phấn đấu thực hiện các cam kết của mình với thế giới vì sự phát triển của trẻ em Việt Nam. Các hoạt động truyền thông, giáo dục, tư vấn và hỗ trợ, giúp đỡ đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức học văn hóa, giúp đỡ trẻ em lang thang hồi gia, ổn định cuộc sống ngày càng được chú trọng. Ý thức trách nhiệm của các cấp chính quyền đối với công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em ngày càng được nâng cao. 3 Sự đổi mới về cơ chế kinh tế mang lại nhiều thành tựu, tuy nhiên cũng bộc lộ nhiều mặt trái, như: phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, sự chênh lệch quá lớn trong thu nhập, mức sống của các tầng lớp nhân dân, sự hình thành lối sống thực dụng, gia tăng tệ nạn xã hội, giáo dục của gia đình bị buông lỏng… đã ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của giới trẻ nói chung và trẻ em nói riêng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những vi phạm pháp luật mà đối tượng là trẻ em, lứa tuổi chưa đầy đủ nhận thức và trách nhiệm gánh chịu những hành vi vi phạm đó. Đã có nhiều chương trình, giải pháp tổ chức thực hiện nhằm phòng ngừa những tác động xấu và bảo vệ trẻ em, tuy nhiên ở một số nơi, vấn đề bảo vệ quyền trẻ em đối với người chưa thành niên chưa thực hiện tốt. Tình trạng khá phổ biến là việc thực hiện quyền bảo vệ trẻ em đôi khi chỉ mang tính hình thức, thậm chí có những vụ việc chính người bảo vệ pháp luật còn lợi dụng gia cảnh của các em để kiếm tiền. Thực trạng đó đòi hỏi phải có nghiên cứu để tăng cường các giải pháp bảo vệ trẻ em trên cơ sở luật pháp quốc tế và quốc gia. Trên cơ sở nghiên cứu của dự án “Tăng cường thực hiện quyền trẻ em với nhóm trẻ em vi phạm pháp luật” do Viện nghiên cứu thanh niên thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực hiện trên địa bàn Quận Thanh Xuân – Hà Nội, tác giả đã chọn vấn đề “Quyền bảo vệ trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật” cho đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Qua luận văn, tác giả chú trọng tới việc phân tích thực trạng, mở rộng vấn đề về bảo vệ quyền trẻ em của người chưa thành niên vi phạm pháp luật hiện nay ở Việt Nam, định hướng cho phù hợp với pháp luật quốc tế và khu vực. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Cho đến nay, vấn đề Quyền con người và Quyền trẻ em nói riêng theo pháp luật quốc tế và theo pháp luật Việt Nam đã được các nhà khoa học, các 4 luật gia ở trong và ngoài nước tìm hiểu và nghiên cứu, đã có những đóng góp không nhỏ cho sự đảm bảo về mặt thể chế, lập pháp quy định quyền cơ bản của người chưa thành niên. Về Quyền con người nói chung có tác phẩm Tìm hiểu về quyền con người – tài liệu hướng dẫn về giáo dục quyền con người do Wolfgang Benedek (chủ biên) –Tài liệu dịch, Nhà xuất bản Tư pháp 2008. Các nghiên cứu trong nước cho thấy, Quyền trẻ em đã và đang là chủ đề được nhiều nhà khoa học, nhiều cơ quan nghiên cứu nhằm mục đích phục vụ hoạt động của mình, như công trình của Bộ Công An về Cẩm nang pháp luật Quyền trẻ em – dành phục vụ cho công tác tại trại tạm giam và trường giáo dưỡng. Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu khảo sát thực tế của Ủy ban Văn hóa giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, Viện nghiên cứu thanh niên, tổ chức Save the Children về Quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật, Hà Nội năm 2007. Nguyễn Ngọc Bích “Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành chính với người chưa thành niên” Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2003. Nguyễn Thị Hiền “Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên”, Luận án thạc sĩ luật học. Đinh Hạnh nga, “Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam hiện hành” Tạp chí kinh tế Luật, số 4/2003. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu toàn diện về các vấn đề lý luận, nguyên nhân, thực trạng, sự đảm bảo quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Kế thừa và tiếp thu những công trình đó, tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài này bằng một cách thức khác với hy vọng có được sản phẩm nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và thực tiễn hơn, có đóng góp nhất định trong vấn đề này. 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài 5 - Góp phần bổ sung và làm rõ cơ sở lý luận khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. - Nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật của người chưa thành niên trên địa bàn cụ thể, từ đó làm rõ các nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên. - Nêu thực trạng pháp luật đảm bảo quyền trẻ em cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật hiện nay. - Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được các mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu các Văn kiện quốc tế, Việt Nam về quyền trẻ em, vấn đề đảm bảo quyền trẻ em của người chưa thành niên vi phạm pháp luật. - Đưa ra số liệu thống kê, các biểu đồ để làm rõ thực trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại các địa bàn cụ thể và cả nước. - Trên cơ sở các nội dung trên, luận văn đưa ra một số đề xuất đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và đảm bảo quyền trẻ em theo pháp luật quốc tế, đáp ứng yêu cầu khách quan và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: - Nội dung cơ bản của Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1990; các văn kiện quan trọng khác của Quốc tế liên quan đến các vấn đề của trẻ em. - Nội dung của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật giáo dục, luật hình sự, luật dân sự, pháp luật hành chính, các văn bản quy phạm 6 pháp luật Việt Nam liên quan đến đảm bảo quyền trẻ em và trách nhiệm pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật. - Nội dung các báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, của các tổ chức quốc tế về chủ đề đảm bảo quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật hiện nay. - Số liệu thực tế trên địa bàn quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội, tại các báo cáo khác, trên các phương tiện thông tin đại chúng để làm rõ các vấn đề phân tích trong luận văn. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và Pháp quyền. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó, tác giả còn đặc biệt coi trọng sử dụng các phương pháp phân tích quy phạm; điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội, tổng hợp, hệ thống, điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, đánh giá để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra. 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN - Góp phần bổ sung và làm rõ cơ sở lý luận khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. - Phân tích thực trạng quy phạm pháp luật quốc tế và Việt Nam về quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. - Phân tích các nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên. 7 - Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận liên quan người chưa thành niên Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật của người chưa thành niên và vấn đề bảo vệ quyền trẻ em của họ. Chương 3: Giải pháp đảm bảo quyền trẻ em đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT 1.1 Trẻ em và Người chưa thành niên 1.1.1 Khái niệm Trẻ em và Người chưa thành niên Trẻ em là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, về mặt xã hội chưa có những nhận thức đầy đủ, đúng đắn và toàn diện các vấn đề. Tuyên ngôn về quyền trẻ em đã khẳng định “Trẻ em, dù còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Trong hệ thống pháp luật quốc tế liên quan đến trẻ em, Công ước về quyền trẻ em có phạm vi và tính pháp lý cao nhất, nhằm bảo vệ các quyền của trẻ em trên phạm vi quốc tế; theo đó quy định “Trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp quy định tuổi thành niên sớm hơn”[3, Điều 1]. Trong Công ước quy định 8 khái niệm trẻ em là những người dưới 18 tuổi, tuy nhiên công ước cũng đã đưa ra cơ chế không bắt buộc cho các nước tham gia công ước là cũng phải quy định trẻ em dưới 18 tuổi, mà tùy từng quốc gia căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của mình về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em để quy định độ tuổi trẻ em thấp hay cao cho phù hợp [23]. Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, phê chuẩn công ước vào ngày 20/2/1990 và được Liên hợp quốc công nhận phê chuẩn ngày 28/02/1990. Ngay sau đó năm 1991, Việt Nam ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và được thay thế năm 2004. Theo các quy định pháp luật về trẻ em ở nước ta, thì trẻ em được định nghĩa “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”[14, Điều 1], “Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”[Điều 20]. Bộ luật dân sự 2005 quy định tại điều 18 “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Bộ luật lao động “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Luật thanh niên 2005 quy định ngay tại điều 1 “Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”. Về độ tuổi thanh niên: căn cứ phân tích về phát triển thể chất, tâm lý, sinh lý, sự phát triển về mặt xã hội, ý thức tự lập, tự chủ của thanh niên; vừa đảm bảo sự kế tiếp với tuổi trẻ em đã được quy định trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam và có tham khảo về quy định độ tuổi thanh niên của các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực tế, Việt Nam đã quy định trẻ em là những người dưới 16 tuổi, điều này có nghĩa là Công ước về quyền trẻ em chỉ áp dụng cho lứa tuổi từ 16 tuổi ở Việt Nam. Điều 58 Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nêu rõ 9 “Việc xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trẻ em phải quy định theo pháp luật đối với người chưa thành niên”. Điều này, giải thích tại sao khi nói đến chủ thể là trẻ em vi phạm pháp luật thường người ta dùng thuật ngữ là “người chưa thành niên vi phạm pháp luật” mà không dùng “trẻ em vi phạm pháp luật”. Xét dưới khía cạnh Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, trẻ em là một chủ thể pháp luật. Cũng như các chủ thể pháp luật khác (như các cá nhân là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch, các tổ chức như Nhà nước và các tổ chức có tư cách chủ thể khác), “trẻ em có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy phạm pháp luật” [24, tr394]. Trong khoa học Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật chưa có khái niệm thống nhất về sự điều chỉnh pháp luật đối với trẻ em. Theo đó, xét một cách phổ quát nhất, sự điều chỉnh pháp luật về trẻ em là một bộ phận của sự điều chỉnh pháp luật nói chung, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến trẻ em. Sự điều chỉnh pháp luật xác định địa vị pháp lý của trẻ em. Địa vị pháp lý này được hiểu là tổng thể những quyền và nghĩa vụ pháp lý của trẻ em cùng với những đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ này [35]. Pháp luật về trẻ em có phạm vi điều chỉnh rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, đến nhiều ngành luật khác nhau. Nếu xét ở góc độ lĩnh vực quan hệ xã hội thì pháp luật về trẻ em liên quan đến quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ lao động, quan hệ hình sự, quan hệ hành chính... Còn nếu xét ở góc độ ngành luật thì hầu hết các ngành luật của hệ thống pháp luật Việt Nam đều điều chỉnh về trẻ em như Luật Hiến pháp, Luật 10 Hành chính, Luật Dân sự, Luật Quốc tịch, Luật Hình sự, Luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình và các Luật Tố tụng hình sự, Dân sự... Ngoài ra còn có những ngành luật điều chỉnh riêng về trẻ em như: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học, Luật Giáo dục. Nhưng do phạm vi điều chỉnh riêng, trong mỗi ngành luật, sự điều chỉnh pháp luật về trẻ em đều mang nét đặc thù [35]. Tiếp cận từ góc độ xã hội học - dân cư có thể định nghĩa “chưa thành niên” là một bộ phận phức hợp của dân cư của một quốc gia - dân tộc bao gồm tất cả các cá thể ở trong độ tuổi dưới 18 tuổi. Như vậy, bộ phận dân cư được gọi là “người chưa thành niên” này chỉ phân biệt một cách tương đối với các bộ phận dân cư khác của quốc gia - dân tộc ấy trên một tiêu chí duy nhất là giới hạn độ tuổi. Có thể nói “người chưa thành niên” là một nhóm xã hội dân cư “động” chứ không phải là một nhóm “tĩnh”, ổn định. Đặc trưng này hàm chứa cả những ưu điểm và cả những nhược điểm của nhóm xã hội - dân cư “người chưa thành niên”. Một mặt, nhờ quy luật là nhóm “động” thường xuyên cho nên nó luôn là chủ thể chuyển tải liên tục các giá trị liên thế hệ. Vì thế sự chuyển động của nhóm có sự biến động rõ rệt về quy mô, số lượng của các nhóm tuổi. Đối tượng người chưa thành niên cũng có thể được phân nhóm theo độ tuổi, xuất phát từ sự phát triển về thể chất, nhận thức mang tính tương đối. Với tính cách là một nhóm xã hội - dân cư, “người chưa thành niên” có nguồn gốc xuất thân khác nhau, thuộc mọi giai tầng trong xã hội, với đặc điểm khác nhau về tôn giáo, sắc tộc, giới tính, nơi sinh sống. Hơn nữa, xét riêng về độ tuổi thì nhóm xã hội - dân cư “người chưa thành niên” cũng chỉ là một nhóm lớn, bao gồm trong đó nhiều nhóm nhỏ thuộc các độ tuổi khác nhau, như nhóm tuổi dưới 6 tuổi chưa có năng lực hành vi dân sự, nhóm từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 14 tuổi; nhóm tuổi trên 14 tuổi. Đây là lứa tuổi góp 11 phần quan trọng trong định hướng phát triển tương lai của đất nước, có ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội trong tương lai gần. Hiện nay, trong thực tiễn các quy định pháp luật trong nước và quốc tế, chúng ta thường sử dụng các thuật ngữ “trẻ em” và “người chưa thành niên” để chỉ những người chưa đầy đủ về nhận thức, điều kiện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của một công dân như đối với người trưởng thành. Tuy nhiên khi nghiên cứu, so sánh các quy định đó có thể thấy được vấn đề phân biệt chỉ là độ tuổi. Người chưa thành niên bao gồm trẻ em và nhóm lứa tuổi từ 16 tuổi đến 18 tuổi được gọi là vị thành niên. Tuy nhiên, độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi lại nằm trong lứa tuổi được gọi là thanh niên theo Luật thanh niên 2005. Có lẽ không một quốc gia nào lại có nhiều tên gọi cho độ tuổi này như ở Việt Nam, người ta không hiểu trong trường hợp nào, thì dùng khái niệm nào. Điều này gây ra sự lúng túng và không thống nhất khi áp dụng các văn bản pháp luật khác nhau điều chỉnh chủ thể đặc biệt này. Nếu như lứa tuổi dưới 18 tuổi theo công ước quốc tế là trẻ em thì pháp luật nước ta cho đây là những người chưa thành niên. Việc pháp luật quy định độ tuổi trẻ em trong giai đoạn hiện nay là dưới 16 tuổi (ít hơn 2 tuổi so với quy định của pháp luật quốc tế) không làm ảnh hưởng đến việc bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em có độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Bởi với tư cách là công dân của Nhà Nước pháp quyền Việt Nam, các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên trong khoảng cách tuổi này được đặc biệt ưu tiên, quan tâm bảo vệ và quy định rõ ràng trong các ngành luật, như Bộ luật hình sự 1999, Bộ tố tụng hình sự, bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật quốc tịch, luật giáo dục, luật hôn nhân gia đình, luật Thanh niên, luật phòng chống ma túy, pháp lệnh xử phạt hành chính. Như vậy quyền trẻ em được quy định trong công ước và các văn bản pháp luật của Việt Nam 12 chỉ có hiệu lực đối với khái niệm “trẻ em” dưới 16 tuổi theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 1.1.2 Đặc điểm của lứa tuổi người chưa thành niên Theo Tổ chức y tế thế giới, nhóm trẻ ở độ tuổi từ 10 đến 16 tuổi là lực lượng trẻ trong cơ cấu dân số. Do đó, sự đầu tư và phát triển của lứa tuổi này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chiến lược dân số nước ta hiện nay. Giai đoạn này là sự phát triển quá độ cả về tâm lý, tình cảm và thể chất, dễ diễn ra khủng hoảng trong tâm lý, tình cảm và nhận thức. Chỉ một cú sốc nhỏ về tâm lý, tình cảm trong quan hệ gia đình, bè bạn, hay do bị dụ dỗ, có khi do đua đòi muốn "khẳng định"... họ rất dễ có những ứng xử bất thường, quá khích, không làm chủ được mình, bỏ nhà đi lang thang, phạm tội, sử dụng ma túy hay tham gia hoạt động mại dâm...Vì vậy, nếu lực lượng này không được quan tâm chăm sóc chu đáo, giáo dục đầy đủ và định hướng đúng cho sự phát triển thì rất dễ đứng trước nguy cơ hoặc trở thành nạn nhân hoặc trở thành kẻ gây ra các tệ nạn xã hội. Từ đó đặt ra trách nhiệm vô cùng lớn lao của cả xã hội, cộng đồng, đặc biệt là gia đình - cái nôi nuôi dưỡng nhân cách con người - trong việc chăm sóc và giáo dục. Về trình độ, nhận thức cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, người chưa thành niên được coi là những người chưa hoàn thiện, Bộ luật dân sự quy định: “Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện” [10, Điều 21] “Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác. 13 Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [10, Điều 20]. Về khả năng tham gia các quan hệ pháp luật: được coi là chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật phải thỏa mãn hai yếu tố của năng lực chủ thể: năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Trong đó năng lực pháp luật là tiền đề cho năng lực hành vi, là điều kiện đủ để các cá nhân, tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp luật. Chủ thể chỉ có năng lực pháp luật mà không có năng lực hành vi thì không thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật cụ thể [25]. Khi tham gia các quan hệ dân sự trong xã hội, thì người chưa thành niên không thể trực tiếp xác lập các quyền và nghĩa vụ dân sự, mà phải nhờ đến người giám hộ hoặc người đại diện. 1.2 Người chưa thành niên vi phạm pháp luật 1.2.1 Khái niệm người chưa thành niên vi phạm pháp luật Theo từ điển pháp luật “Vi phạm pháp luật” có hai ý nghĩa. Theo nghĩa rộng, vi phạm pháp luật là các việc sai, trái pháp luật nói chung, bao gồm tất cả các loại vi phạm pháp luật được quy định trong hệ thống pháp luật. Theo nghĩa hẹp, vi phạm pháp luật cũng là các việc sai, trái pháp luật nhưng không cấu thành tội phạm (không phải là tội phạm theo quy định của bộ luật hình sự 1999), theo nghĩa hẹp thì các hành vi vi phạm pháp luật có thể là hành vi bị phạt vi phạm hành chính như phạt tiền, phạt cảnh cáo, bồi thường thiệt hại, phạt kỷ luật lao động. Tất cả các hành vi trên có mức độ nguy hiểm cho xã hội ít hơn tội phạm. 14 Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận chung nhà nước và pháp luật thì vi phạm pháp luật được hiểu theo cách thứ nhất, trên cơ sở đó phân loại vi phạm pháp luật được chia ra: - Vi phạm hình sự: là hành vi trái pháp luật, có lỗi, nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có trách nhiệm hình sự thực hiện. - Vi phạm hành chính: là hành vi vi phạm pháp luật, có lỗi, nhưng mức độ nguy hiểm thấp hơn so với tội phạm, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật hành chính bảo vệ. - Vi phạm kỷ luật: là hành vi có lỗi, trái pháp luật, kỷ luật của đơn vị, cơ quan nhà nước. - Vi phạm dân sự: là hành vi vi phạm đến các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, chủ yếu được quy định trong bộ luật dân sự. Vậy, vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu vi phạm pháp luật: - Là hành vi xác định của con người; - Trái pháp luật; - Có lỗi; - Do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. Vi phạm pháp luật phải là hành vi có lỗi, tức là chủ thể có thể nhận thấy trước hay không nhận thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi sẽ gây cho xã hội, có mong muốn cho hậu quả có thể xảy ra. “Lỗi” là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Có các hình thức: lỗi cố ý trực tiếp; lỗi cố ý gián tiếp; lỗi vô ý vì quá tự tin; lỗi vô ý vì cẩu thả. 15 Thuật ngữ “trách nhiệm pháp lý” là loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước (cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) và chủ thể vi phạm pháp luật. trong đó, Nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp có tính cưỡng chế có tính chất trừng phạt được quy định trong chế tài của quy phạm pháp luật đối với chủ thể vi phạm và chủ thể đó có nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý: - Cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật. - Cơ sở pháp lý của trách nhiệm pháp lý là văn bản áp dụng pháp luật có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Trách nhiệm pháp lý liên quan mật thiết đến cưỡng chế nhà nước. Tương ứng với phân loại vi phạm pháp luật thì trách nhiệm pháp lý cũng phân chia ra thành: trách nhiệm hình sự; trách nhiệm hành chính; trách nhiệm dân sự; trách nhiệm vật chất; trách nhiệm kỷ luật. Đó là bốn loại trách nhiệm có liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Người chưa thành niên vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ mà chủ thể thực hiện hành vi là người chưa thành niên, có năng lực trách nhiệm pháp lý, có lỗi và có thể bị xử lý hành chính, hình sự, lao động, kỷ luật… Nói cách khác, người chưa thành niên vi phạm pháp luật là người dưới 18 tuổi thực hiện bất cứ hành vi nào bị pháp luật cấm. Trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, là người vi phạm pháp luật từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi thuộc đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Trong pháp luật hình sự, là người có năng lực trách nhiệm hình sự, từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm 16 trọng và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm bất cứ tội nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Chủ thể vi phạm pháp luật trong khi trình độ nhận thức chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, là người chưa trưởng thành. Các quy định của pháp luật phải phù hợp với sự phát triển của người chưa thành niên, nhằm đạt được mục đích cơ bản của pháp luật là răn đe và ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật xảy ra. Người chưa thành niên vi phạm pháp luật có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng tựu chung là do sự quản lý và giáo dục của gia đình, nhà trường, môi trường xã hội trong cả quá trình hoặc trong từng thời điểm bị buông lỏng hoặc có sai lầm. Những người chưa thành niên này thường bị coi là những đứa trẻ hư hỏng, thiếu sự dạy dỗ của gia đình, học hành không tốt, bỏ học. Trẻ em ngày nay có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với thế giới xung quanh, đón nhận và chịu sự tác động của nhiều luồng thông tin khác nhau. Trong đó có không ít những tác nhân độc hại: trò chơi điện tử nặng về tính bạo lực đấm đá chứ chưa coi trọng tư duy; truyện tranh cho trẻ em chưa coi trọng giáo dục thẩm mỹ, tính nhân văn, chưa được kiểm duyệt kỹ lưỡng của các cơ quan chức năng, còn khá nhiều nơi chỉ chạy theo lợi nhuận, phát hành những sách “ngoài luồng”, bạo lực, đấm đá, phạm tội, thậm chí còn có cả loại truyện tranh sex. Thông tin truyền thông thì nhiều, rất dễ để có thể tìm thấy những tin về tội phạm trẻ em vị thành niên trên báo chí. Nhưng có một thực tế là nhiều khi giới truyền thông mới chỉ quan tâm đến đưa tin giật gân mà chưa quan tâm đúng mức việc định hướng, giáo dục về tư tưởng cho trẻ em thông qua những bài học đó. Vì thế, với tâm lý non nớt và thiếu định hướng, trẻ rất dễ học theo những tình huống phạm tội mỗi khi gặp khó khăn. 17 Theo quan điểm xã hội học, bản chất con người sinh ra là tốt, nhưng trong xã hội luôn có thiện và có ác, trong bản thân mỗi con người cũng có thiện và ác. Cái ác có là do sự ảnh hưởng của xã hội và sự cải tạo của mỗi người. Vì thế, khi sự cải tạo của mỗi người không có hiệu quả, thì xã hội sẽ là nhân tố chủ yếu tác động đến bản chất nhân cách con người. Khi đó, nhân cách con người phát triển theo chiều hướng tốt hay xấu là do ảnh hưởng xã hội. Để mỗi con người trở thành một người lương thiện, một công dân tốt, có ích cho xã hội thì sự tác động của xã hội, đặc biệt là quá trình giáo dục có ý nghĩa rất to lớn, nhất là với lớp người trẻ, đang hình thành và phát triển nhân cách. 1.2.2 Trách nhiệm pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Trong thực tiễn, tình hình trẻ em vi phạm pháp luật diễn ra rất đa dạng, phức tạp, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; phương thức, thủ đoạn thực hiện vi phạm của lứa tuổi này cũng không kém phần nguy hiểm so với người đã thành niên vi phạm pháp luật. Quy định về việc xử lý trẻ em vi phạm pháp luật , Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nêu rõ “Việc xử lý trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự , truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trẻ em phải quy định theo pháp luật đối với người chưa thành niên”. Điều này, giải thích tại sao khi nói đến chủ thể trẻ em vi phạm pháp luật thường người ta dùng thuật ngữ là người chưa thành niên vi phạm pháp luật mà không dùng trẻ em vi phạm pháp luật. Bởi ý nghĩa của nó là như nhau, theo quy định tại điều 58 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em [23]. Người chưa thành niên được quy định trong các quy định của pháp luật Việt Nam là những đối tượng đặc biệt của các ngành luật như hình sự, dân sự, hành chính, lao động… 18 Chủ thể được coi có năng lực pháp lý khi có sự phát triển bình thường về tâm sinh lý và đạt được độ tuổi nhất định. Thể hiện qua dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý. Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành cho thấy rằng trẻ em hay người chưa thành niên là một chủ thể đặc biệt của các ngành luật, do vậy có sự khác nhau về độ tuổi và phạm vi áp dụng của chúng. 1.3 Quy định Quyền trẻ em trong hệ thống pháp luật Quốc tế và Việt Nam Trẻ em và người lớn đều là con người, là công dân của một quốc gia, thành viên của cộng đồng dân cư, trẻ em cũng có nhu cầu như người lớn như vui chơi giải trí, hội họp, có tài sản, tín ngưỡng, tôn giáo…Như vậy, các em cũng có quyền con người và quyền công dân như người lớn. Tuy nhiên, do các em chưa chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất và tinh thần, hạn chế về nhận thức, năng lực hành vi nên bị hạn chế một số quyền như: kết hôn, làm việc, bầu cử, ứng cử, điều khiển xe cơ giới tham gia giao thông. Nhưng các em lại có nhu cầu được bảo vệ và được quan tâm, hướng dẫn, giúp đỡ đặc biệt của xã hội, cộng đồng và người lớn để có thể phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức, nhân cách, nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn. 1.3.1 Theo pháp luật quốc tế Năm 1924 Tuyên bố Giơnevơ đã nêu“tất cả đàn ông và phụ nữ của mọi dân tộc có trách nhiệm tạo cho trẻ em điều tốt đẹp nhất, tuyên bố và chấp nhận đó là nhiệm vụ của mình, vượt lên trên mọi sự quan tâm về chủng tộc, quốc tịch và nòi giống” [26, trang 9] Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1959 quy định 10 nguyên tắc tiến hành và thực hiện bằng luật pháp, trong đó Nguyên tắc 1 của tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em “Trẻ em phải được hưởng tất cả các quyền được nêu trong Tuyên bố này. Tất cả trẻ em, không có ngoại lệ 19 nào, đều được hưởng những quyền này, không có sự phân biệt về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quốc tịch hoặc thành phần xã hội, tài sàn, nơi sinh hoặc các tình trạng khác dù của trẻ hay gia đình trẻ” [26, trang 14]. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 29/11/1985 thông qua Quy tắc Bắc Kinh về “Những nguyên tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên”. Điều 1.2 của Quy tắc có nội dung “Các quốc gia thành viên phải cố gắng phát triển những điều kiện đảm bảo cho người chưa thành niên có một cuộc sống có ý nghĩa trong cộng đồng. Những điều kiện như thúc đẩy quá trình phát triển và giáo dục cá nhân càng tránh xa tội phạm càng tốt trong quãng đời mà người chưa thành niên dễ có những hành vi sai lệch”[26, trang 103]. Mỗi quốc gia đều phải thực hiện những nhiệm vụ trên nhằm đảm bảo cho lớp người kế cận có đủ điều kiện, năng lực để phát triển. Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em 1990, Công ước gồm 54 điều khoản trong đó nêu bật bốn nguyên tắc cơ bản về Quyền trẻ em xuyên suốt toàn bộ Công ước, bao gồm: - Không phân biệt đối xử trong việc đảm bảo thực hiện tất cả các Quyền trẻ em. - Trẻ em có quyền xác lập, thể hiện ý kiến riêng của mình và quyền đó phải được tôn trọng. - Dành những lợi ích tốt đẹp nhất cho trẻ em. - Những điều khoản trong Luật Quốc gia hoặc quốc tế có lợi hơn đối với trẻ em so với những điều khoản trong Công ước sẽ được áp dụng. Trên cơ sở 4 nguyên tắc cơ bản trên, sự điều chỉnh của Công ước đối với Bảo vệ quyền trẻ em bao gồm các quyền sau: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan