ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG
B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI
CñA NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI
TRONG ¸P DôNG H×NH PH¹T
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG
B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI
CñA NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI
TRONG ¸P DôNG H×NH PH¹T
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Ánh Hồng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT .................................................................................... 7
1.1.
Cơ sở lý luận của việc bảo vệ quyền con người của người chưa
thành niên phạm tội ....................................................................................7
1.1.1.
Khái quát chung về vấn đề bảo vệ quyền con người ....................................7
1.1.2.
Khái niệm, đặc điểm của bảo vệ quyền con người của người chưa
thành niên phạm tội trong áp dụng hình phạt ..............................................11
1.2.
Nội dung bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên
trong áp dụng hình phạt ...........................................................................26
1.2.1.
Về đối tượng bảo vệ ....................................................................................26
1.2.2.
Về phương thức bảo vệ ...............................................................................31
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG ÁP DỤNG HÌNH
PHẠT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ..............................................................34
2.1.
Các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự liên quan
đến bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội
trong áp dụng hình phạt ...........................................................................34
2.1.1.
Các quy định trong Bộ luật hình sự về bảo vệ quyền con người trong
áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên .......................................34
2.1.2.
Các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự về bảo vệ quyền con
người trong trình tự, thủ tục áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên ....................................................................................................49
2.2.
Thực tiễn áp dụng hình phạt trong mối quan hệ với việc bảo vệ
quyền con người của người chưa thành niên phạm tội .........................55
2.2.1.
Khái quát tình hình người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn
vừa qua ........................................................................................................55
2.2.2.
Kết quả áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm trong
giai đoạn vừa qua ........................................................................................58
2.3.
Những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn bảo vệ quyền con
người của người chưa thành niên phạm tội trong áp dụng hình phạt .......61
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN TỚI VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI.................................................................................................. 68
3.1.
Quan điểm về bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên
trong luật hình sự ......................................................................................68
3.1.1.
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội phải gắn
liền vấn đề quyền con người trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền và cải cách tư pháp ...........................................................................68
3.1.2.
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên trong áp dụng
hình phạt phải chú trọng việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh
thiếu niên, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự .........................................68
3.1.3.
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên trong áp dụng
hình phạt phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ
tư pháp .........................................................................................................69
3.2.
Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người
của người chưa thành niên phạm tội .......................................................70
3.2.1.
Hoàn thiện pháp luật hình sự về hình phạt và áp dụng hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội ............................................................70
3.2.2.
Hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự trong việc áp dụng hình phạt đối
với người chưa thành niên ...........................................................................79
3.3.
Các kiến nghị về tổ chức và hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả
bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên trong áp dụng
hình phạt ....................................................................................................81
3.3.1.
Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử nói chung và đối với
người chưa thành niên phạm tội nói riêng ..................................................81
3.3.2.
Xây dựng hệ thống thu thập số liệu thống kê để theo dõi việc xử lý
các vụ việc có liên quan đến người chưa thành niên phạm tội ...................82
KẾT LUẬN ..............................................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................86
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
NCTN
: Người chưa thành niên
TAND
: Tòa án nhân dân
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1. Tình hình xét xử NCTN phạm tội trong giai đoạn Tình hình
xét xử NCTN phạm tội trong giai đoạn từ năm 2012 đến
năm 2016
56
Bảng 2.2. Số liệu các loại tội phạm NCTN thường thực hiện
57
Bảng 2.3. Số liệu bị cáo là NCTN, số bị án chấp hành án phạt tù là NCTN
59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người,
là một trong những giá trị tinh thần quý báu và cao cả nhất của nền văn minh nhân
loại trong thời đại hiện nay. Quyền con người bao gồm những quyền không thể tước
bỏ, do đó, bảo vệ quyền con người chính là những bảo đảm pháp lý toàn cầu, có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc
làm tổn hại đến quyền con người . Ở Việt Nam , bảo vệ quyền con người đã được
Đảng và Nhà nước Viê ̣t Nam đặc biệt quan tâm , chú trọng. Điều này được thể hiê ̣n
ở thành quả về xây dựng lý luận về bảo vệ quyền con người cũng như thực tiễn bảo
đảm quyền con người, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH đã chỉ rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là
chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” [30, tr.134]
“Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo
hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (Khóa X) tại Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Nhà nước
chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 cũng nhấn mạnh: “Mở rộng dân
chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu
và là mục tiêu của sự phát triển”; “Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và
các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện” [30, tr.117].
Đối tượng NCTN (nói chung) và trẻ em (nói riêng), bộ phận chiếm tỷ lệ
khá lớn, là những chủ thể đặc biệt (có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý và sự
phát triển), do chưa biết cách tự bảo vệ mình khi đứng trước những sự kiện pháp
lý (là những tình huống, hiện tượng, quá trình xảy ra trong đời sống có liên quan
với sự xuất hiện, thay đổi và chấm dứt các quan hệ pháp luật) có liên quan, nên
cần phải có những bảo đảm pháp lý đầy đủ, cần thiết và đáp ứng phù hợp. Nhận
1
thức được tầm quan trọng này, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ trẻ em và NCTN.
Việt Nam là quốc gia thứ 2 trên thế giới ký Công ước về quyền trẻ em. Việt Nam
cũng đã xây dựng được một hệ thống pháp luật khá đầy đủ tạo căn cứ pháp lý
quan trọng cho các cơ quan bảo vệ pháp luật để bảo vệ trẻ em nói chung và NCTN
trong các vụ án hình sự nói riêng.
Liên quan đến lĩnh vực tư pháp hình sự, trong thời gian qua, NCTN phạm
tội đang có xu hướng gia tăng về số lượng và mức độ nguy hiểm của hành vi (theo
VKSND tối cao "tỷ lệ tội phạm vị thành niên bị VKSND truy tố đã tăng lên; tỷ lệ
tăng bình quân 10% hàng năm"). Do đó, khi phải đối mặt với những sự kiện pháp
lý như đã nêu, NCTN cần một sự bảo đảm vững chắc và hữu hiệu từ phía những
quy định của pháp luật TTHS. Yêu cầu này đòi hỏi, bên cạnh các biện pháp nhằm
bảo đảm và bảo vệ NCTN trong xã hội, thì Nhà nước, các cơ quan tiến hành tố
tụng cần có những điều chỉnh kịp thời, thích hợp (về chính sách hình sự cũng như
thủ tục tố tụng) dành cho đối tượng này để bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của
họ khi tham gia tố tụng. Điều này không ngoài mục đích bảo vệ quyền con người
trong TTHS; phù hợp với xu thế nhân đạo hóa của pháp luật hình sự, TTHS trong
nhà nước pháp quyền.
Nhằm hạn chế tối đa những hành vi xâm phạm đến các quyền con người của
NCTN phạm tội, trong các giai đoạn lịch sử pháp luật hình sự nước ta đã có rất
nhiều quy định chặt chẽ về nguyên tắc cũng như trình tự, thủ tục tố tụng.
Đặc biệt là giai đoạn xét xử và áp dụng hình phạt của TAND đối với NCTN
phạm tội phải đảm bảo tôn chỉ, mục đích đó là “Chủ yếu nhằm giáo dục,giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội”.
Tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử của TAND (TAND) áp dụng hình phạt đối với
NCTN phạm tội cũng còn bộc lộ nhiều điểm bất cập, chưa tuân thủ đầy đủ các
nguyên tắc cơ bản như “Áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội chỉ được thực
hiện trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm
tội…”. Ngoài ra khi phạm tội nhóm đối tượng này cũng rất khó có khả năng và điều
kiện để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình đã được pháp luật hình sự Việt
2
Nam quy định. Đồng thời họ cũng rất dễ bị cơ quan tiến hành tố tụng, những người
tham gia tố tụng vô tình hoặc cố ý xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Những xâm phạm này có thể gây ra những hậu quả khó lường, khó có thể khắc
phục bởi nó liên quan trực tiếp đến tương lai của NCTN.
Việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi xử lý hành vi
vi phạm pháp luật đối với NCTN phạm tội có vì mục đích chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sửa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã
hội hay không; Có phù hợp với tình hình thực tế, với những hành vi nguy hiểm mà
họ đã gây ra hay không; Họ có được hưởng đầy đủ các chính sách giảm nhẹ TNHS
của Nhà nước quy định hay không...;
Đó chính là vấn đề cần phải được quan tâm nghiên cứu nhằm bảo đảm các
quy định pháp luật hình sự, các chế định hình phạt đối với NCTN thật sự phù
hợp,để họ có cơ hội được sửa chữa, khắc phục những sai lầm và được phát triển hài
hòa, toàn diện. Do vậy, việc nghiên cứu các chế định hình phạt trong Luật hình sự
và đánh giá qua thực tiễn xét xử của TAND là một điều hết sức cần thiết nhằm bảo
vệ quyền con người của NCTN phạm tội một cách tốt nhất.
Từ những sự phân tích trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Bảo vệ quyền
con người của NCTN phạm tội trong áp dụng hình phạt” làm đề tài luận văn thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo đảm quyền con người của NCTN nói chung, bảo đảm quyền con người
của NCTN phạm tội và việc áp dụng hình phạt trong xét xử án hình sự, đã được
nhiều nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn nghiên cứu. Có nhiều công
trình khoa học được công bố, có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số
giáo trình giảng dạy, bài viết trên các tạp chí dưới các góc độ và mức độ khác
nhau, cụ thể như:
Công trình “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật
TTHS Việt Nam”của tác giả Trần Hưng Bình, Luận án tiến sỹ luật học năm 2013,
Học viện khoa học xã hội - Viện hàm lâm khoa học xã hội Việt Nam; “Hình phạt tù
có thời hạn, áp dụng đối với NCTN phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam” của tác
3
giả Nguyễn Thị Thu Huyền, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2012, Khoa luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội; "Bảo vệ quyền của NCTN trong Tư pháp hình sự Việt Nam"
của tác giả Nguyễn Thị Thanh, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2008, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội... Và đặc biệt, GS.TSKH Đào Trí Úc có luận án tiến sĩ
luật học “Nghiên cứu và phòng ngừa tội phạm của người chưa thành niên ở Việt
Nam”, Bảo vệ tại Viện Nhà nước và pháp luật - Viện hàn lâm khoa học Liên Xô
năm 1981. Đây là công trình nghiên cứu cơ bản, quan trọng và rất toàn diện về vấn
đề tội phạm do người chưa thành niên thực hiện cũng như phương thức bảo vệ
quyền con người của người chưa thành niên.
- Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Khoa luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội 2009; Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn
thương trong TTHS, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu
quyền con người - quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư pháp
hình sự, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội 2011; Việt Nam và các văn kiện quốc
tế về quyền trẻ em, Nxb Chính Trị Quốc Gia - Ủy Ban bảo vệ và chăm sóc Trẻ em Việt
Nam, Hà Nội 1997; Số chuyên đề Bảo đảm quyền con người và quyền công dân bằng
các thiết chế Tư pháp, Bộ Tư pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà
Nội 2014; Đồng tác giả Lê Cảm và Đỗ Thị Phượng "Tư pháp hình sự đối với NCTN,
những khía cạnh pháp lý hình sự, TTHS, tội phạm học và so sánh luật học" các số 20,
21, 22, năm 2004; “Chính sách hình sự đối với NCTN phạm tội - Nhìn từ phương diện
tội phạm học và trách nhiệm xã hội" của ThS. Lê Minh Thắng, Tạp chí dân chủ và
pháp luật, số 12 năm 2011; “Hiến pháp năm 2013 với chế định bảo đảm quyền con
người về Tư pháp hình sự" của TS. Phạm Văn Hùng, Tạp chí TAND, số 16 tháng 8
năm 2014; “Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về hình phạt áp dụng đối với NCTN
phạm tội" của ThS. Lương Ngọc Trâm, Tạp chí TAND, số 19 tháng 10 năm 2014...
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên chỉ trình bày ở khía cạnh tổng hợp
về quyền con người của NCTN trong tư pháp hình sự cũng như phương thức bảo vệ
các quyền này của họ, mà chưa có cụ thể hóa về việc bảo vệ quyền con người của
NCTN trong một hoạt động cụ thể đó là hoạt động áp dụng hình phạt. Việc tác giả
chọn đề tài trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp lý
về áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội và bảo vệ quyền con người của
NCTN trong quá trình này để từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nói trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người của NCTN trong
áp dụng hình phạt như khái niệm, đặc điểm về bảo vệ quyền con người của NCTN,
hoạt động áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội.
- Nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự và TTHS về bảo vệ quyền con
người của NCTN trong áp dụng hình phạt.
- Nghiên cứu thực trạng áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội ở Việt
Nam trong giai đoạn vừa qua, thông quá đó đánh giá được các ưu điểm và hạn chế
tồn tại trong áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người của
nhóm đối tượng này.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề bảo vệ quyền con người của
NCTN phạm tội trong áp dụng hình phạt.
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề về quyền con người của NCTN phạm tội
trong vấn đề áp dụng hình phạt trong quy định của BLHS năm 1999 và BLTTHS
năm 2003.
Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội trong thời gian 5 năm
từ 2012 đến 2016 trên địa bàn cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về
nhà nước và pháp luật.
5
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như:
Phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy luận logic, phương pháp hệ
thống, thống kê xã hội học...; Các phương pháp nghiên cứu được kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn để rút ra kết luận khoa học của mình đối với vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp của đề tài
Thứ nhất: Thông qua việc nghiên cứu các quy định của Luật nhân quyền quốc
tế và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề
chung cơ bản của áp dụng hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ
quyền con người của NCTN phạm tội. Nhận xét, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội.
Thứ hai: Thông qua việc đánh giá thực trạng, tổng hợp kết quả nghiên cứu.
Luận văn đưa ra đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật hình sự về bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội, các biện pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với đối với NCTN phạm tội trên thực tế.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu thảm khảo trong quá trình nghiên cứu xây
dựng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam đối với NCTN phạm tội. Ngoài ra có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu, học tập..., qua đó góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội phạm do NCTN thực hiện, cũng như việc bảo vệ tốt nhất quyền con người của
NCTN phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người của người chưa
thành niên trong áp dụng hình phạt.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự về bảo vệ
quyền con người của người chưa thành niên trong áp dụng hình phạt.
Chương 3: Những kiến nghị nhằm bảo vệ quyền con người của người chưa
thành niên trong áp dụng hình phạt.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
1.1. Cơ sở lý luận của việc bảo vệ quyền con người của người chưa thành
niên phạm tội
1.1.1. Khái quát chung về vấn đề bảo vệ quyền con người
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao quý nhất của nhân loại,
song cũng là vấn đề rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học nghiên
cứu. Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về quyền con người, song quan
điểm phổ biến cho rằng quyền con người là những đặc quyền bẩm sinh, vốn có của
mọi cá nhân: "Nhân quyền là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con
người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp
luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [47]. Một đinh nghia khác của Văn
̣
̃
phòng Cao ủy của Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR) cũng thường trích
dẫn bởi các nhà nghiên cứu , trong đó cho rằng : “Quyề n con người là những đảm
bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chố ng la ̣i những
hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm , những sự đươ ̣c phép và
tự do cơ bản của con người” [35].
Quyề n con người là những giá trị tự nhiên, vố n có của con người, tuy nhiên nó
chỉ thực sự có ý nghĩa và trở thành hiện thực khi nó được bảo đảm bằng pháp luậ.
t
Quyề n con người có những thuô ̣c tính cơ bản sau đây :
- Tính phổ biến: Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở chỗ quyền
con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, dân
tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Con người, dù ở trong những
chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn được
công nhận là con người và được hưởng những quyền và sự tự do cơ bản.
- Tính đặc thù: Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người
7
nhưng mức độ thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của
từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang sống.
Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang những sắc thái,
đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực đó. Ví dụ, ở
các nước Tây Âu, do điều kiện kinh tế phát triển nên con người ở đây được hưởng
chế độ an sinh xã hội tốt hơn nơi khác. Ngược lại, ở một số nước châu Á và châu Phi,
do kinh tế còn chậm phát triển nên mức độ thụ hưởng an sinh xã hội thấp hơn.
- Tính không thể bị tước bỏ: Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc
tế, quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện
bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ thể
đặc biệt mới có thể hạn chế quyền con người. Ví dụ, tù nhân bị giam do thực hiện
hành vi phạm tội.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Tất cả các quyền con
người có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để
thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng
đến các quyền khác. Ví dụ, nếu một người không được làm việc, không có một mức
sống đảm bảo cho sự sống còn của cá nhân thì người đó sẽ ít chú ý và không có
điều kiện thực hiện các quyền dân chủ như quyền bầu cử hoặc quyền tham gia quản
lý nhà nước, xã hội.
Quyề n con người đươ ̣c xác đinh theo các linh vực chủ yế u sau đây :
̣
̃
- Nhóm các quyền dân sự , chính trị : Đây là các quyề n quan tro ̣ng của con
người, có liên quan đến sự tồn tại tự nhiên , tấ t yế u của con người trong xã hô ̣i , liên
quan đế n mố i quan hê ̣ tự nhiên giữa con người với mô ̣t thể chế chính tri ̣của xã hô ̣i
đó, ví dụ như quyề n số ng , quyề n tự do, quyề n bảo hô ̣ về tinh ma ̣ng , sức khỏe, danh
́
dự, nhân phẩ m , bấ t khả xâm pha ̣m về thân thể , chỗ ở , bí mật thư tín , điê ̣n tín ... Các
quyề n này theo quan điể m của các ho ̣c giả tư sản đươ ̣c coi là quyề n cơ bản nhấ t
quan tro ̣ng nhấ t của con người.
- Nhóm các quyền về kinh tế , xã hội và văn hóa : Đây là nh óm quyền theo
8
,
quan điể m của các nước xã hô ̣i chủ nghia đươ ̣c coi là quan tro ̣ng nhấ t và nhóm các
̃
quyề n này luôn gắ n liề n với mô ̣t nhà nước cu ̣ thể , đươ ̣c đảm bảo bởi nhà nước . Các
quyề n này bao gồ m : quyề n lao đô ̣ng , quyền ho ̣ c tâ ̣p , quyền an sinh xã hội, các
quyền về văn hoá, sáng tạo và hưởng thụ các thành tựu của khoa học kỹ thuật…
Ngoài các quyền nêu trên , theo quan điể m của cộng đồng quốc tế là
quyề n
con người còn bao gồm các quyền của nhóm và quyền tập thể , như quyền phụ nữ,
quyền trẻ em , quyền của người khuyết tật , quyề n phát triể n , quyề n số ng trong hoà
bình, trong môi trường trong lành…
Theo nhâ ̣n thức chung của cô ̣ng đồ ng quố c tế , để bảo đảm quyền con người ,
nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể đó là:
Nghĩa vụ tôn trọng : Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước không được tùy tiện
tước bỏ, hạn chế hay can thiệp , kể cả trực tiế p hay gián tiế p , vào việc thụ hưởng các
quyề n con người.
Nghĩa vụ bảo vệ : Nghĩa vụ này đòi h ỏi các nhà nước phải ngăn chặn sự vi
phạm quyền con người của các bên thứ ba .
Nghĩa vụ thực hiện : Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải có những biện
pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiê ̣n các quyề n con người [27].
Để thực hiện các nghĩa vụ về nhân quyền , các Nhà nước phải sử dụng pháp
luật. Là một phạm trù đa diện , xong quyề n con người có mố i liên hê ̣ gầ n gũi hơn cả
với pháp luâ ̣t. Điề u này trước hế t là bởi cho dù quyề n con người là bẩ m sinh, vố n có
song viê ̣c thực hiê ̣n các quyề n vẫn cầ n có nhà nước và pháp luâ ̣t
. Hầ u hế t những
nhu cầ u vố n có , tự nhiên của con người không thể đươ ̣c bảo đảm đầ y đủ nế u không
đươ ̣c ghi nhâ ̣n bằ ng pháp luâ ̣t , mà thông qua đó , nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các
quyề n không phải chỉ tồ n ta ̣i dưới da ̣ng những quy tắ c đa ̣o đức mà còn trở thành
những quy tắ c xử sự chung , có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả các chủ
thể trong xã hô ̣i.
Với tư cách là chủ thể của pháp luâ ̣t , con người - cùng với quyền , tự do và
nghĩa vụ, những thuô ̣c tinh xã hô ̣i gắ n liề n với nó - luôn là đố i tươ ̣ng phản ánh của
́
các hệ thống pháp luật . Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bìn h đẳ ng giữa các cá nhân
9
con người trong xã hô ̣i và sự đô ̣c lâ ̣p tương đố i của các cá nhân với tâ ̣p thể
, cô ̣ng
đồ ng, nhà nước, thông qua viê ̣c pháp điể n hóa các quyề n và tự do tự nhiên , vố n có
của cá nhân . Theo nghia này , pháp luâ ̣t có vai trò đă ̣c biê ̣t không thể thay thế pháp
̃
luâ ̣t trong viê ̣c bảo vê ̣ các quyề n con người .
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác
động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Mặc dù quyền con người có tính "bẩm
sinh" nhưng nó không thể thành hiện thực nếu không có pháp luật. Trước hết, vai
trò quan trọng của pháp luật đối với quyền con người là nó ghi nhận (xác lập), củng
cố, hoàn thiện quyền con người.
Pháp luật ghi nhận các quyền của con người được xã hội thừa nhận. Thông
qua pháp luật, quyền con người được ghi nhận và bảo vệ. Để bảo vệ quyền con
người, pháp luật đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc phải làm nhằm
ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm quyền con người. Quyền con người
được pháp luật xác lập sẽ không thể bị tước bỏ, hạn chế một cách tuỳ tiện vì được
bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của xã hội, Nhà
nước. Pháp luật là công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để bảo vệ thực hiện
quyền con người. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có tính bắt buộc
cứng rắn bằng cách xác lập những điều cấm mà bất cứ ai cũng không được vi phạm.
Đồng thời, pháp luật được bảo vệ thi hành bằng bộ máy Nhà nước cùng với sức
mạnh (dư luận) xã hội. Vì thế, các quy định của pháp luật về quyền con người còn
được bảo vệ bằng sự cưỡng chế của Nhà nước tránh mọi hành vi xâm hại. Trên cơ
sở của pháp luật, mọi hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân đều phải
được xử lý nghiêm minh.
Bảo vệ quyền con người là một quá t rình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều
điề u kiê ̣n khác nhau (chính trị, kinh tế , pháp luật, văn hóa ,....) trong đó pháp luâ ̣t có
vị trí, vai trò và tầ m quan tro ̣ng hàng đầ u . Để phát huy đầ y đủ vai trò quan tro ̣ng của
pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người thì phải thể chế hóa quyền con người
thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật và phải có cơ chế bảo đảm cho
các quy định đó được thực hiện trong thực tế , tạo thành đảm bả o pháp lý cho thực
10
hiê ̣n quyề n con người . Nói cách khác , đảm bảo pháp lý bảo vê ̣ quyề n con người
chính là đảm bảo thực hiện quyền con người bằng pháp luật .
Tóm tại, có thể hiểu , bảo vệ quyền con người chính là việc nh à nước, thông
qua pháp luật , ghi nhận và quy định các biện pháp ngăn ngừa và xử lý những hành
vi vi phạm các quyền con người bằng bộ máy cưỡng chế của mình.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của bảo vệ quyền con người của người chưa
thành niên phạm tội trong áp dụng hình phạt
1.1.2.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Hiện nay, trong pháp luật hình sự còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau về khái
niệm NCTN. Quan điểm thứ nhất, cho rằng NCTN là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi. Quan điểm này có khía cạnh phù hợp với luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em. Tuy nhiên, giới hạn tối thiểu cho NCTN trên không phù hợp với nhiều quy định
của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là trong pháp luật hình sự hiện hành [33, tr.14].
Quan điểm thứ hai, coi NCTN chỉ bao gồm những người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi [46, tr.22]. Quan niệm này có xu hướng gắn khái niệm NCTN với quy
định về độ tuổi phải chịu TNHS của NCTN. Mặt khác, nếu coi đó là khái niệm
chung về NCTN thì không đúng vì nó mâu thuẫn với pháp luật hình sự. Chẳng hạn,
tại điểm c, khoản 2, Điều 197 BLHS (BLHS)1999 "Đối với NCTN từ đủ 13 tuổi trở
lên" khi quy định tình tiết tăng nặng của người tổ chức sử dụng trái phép chất ma
tuý trong những trường hợp nhất định. Quy định như vậy cho thấy NCTN nói
chung,chứ không phải NCTN trong độ tuổi phải chịu TNHS là người chưa đủ 14
tuổi. Do vậy, quan niệm NCTN là người trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi là không thuyết phục và mâu thuẫn với những quy định của pháp luật hình sự.
Quan điểm thứ ba, cho rằng: Trong chừng mực nhất định nào đó, thuật ngữ trẻ
em đồng nhất với thuật ngữ vị thành niên, và có sự phân chia người dưới 18 tuổi
thành hai nhóm. Nhóm một gồm những người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi là vị thành
niên, còn nhóm hai - dưới 14 tuổi là NCTN và không phải chịu TNHS [33, tr.26].
Như vậy, quan điểm này mang tính thống nhất và hợp lý hơn hai quan điểm trên.
Tuy nhiên, theo quan điểm này, trẻ em sẽ bao gồm những người dưới 18 tuổi, là trái
11
với quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 1991, mặt khác nó cũng
mâu thuẫn với một số quy định trong pháp luật hình sự không thừa nhận trẻ em là
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì: “NCTN phạm tội là người có
độ tuổi từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi” [51, tr.214].
Mỗi quốc gia khác nhau, việc xác định giới hạn độ tuổi mà NCTN khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể phải chịu TNHS là khác nhau. Chẳng hạn,
Cộng hoà liên bang Nga là từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi; Nhật Bản là từ 14 tuổi đến
dưới 20 tuổi; ở Singapore những người từ 7 tuổi trở lên phải chịu TNHS, trong đó
những người từ đủ 7 tuổi đến 12 tuổi chỉ bị kết án về các tội do cố ý.
Ngay các văn bản pháp lý quốc tế khi đưa ra khái niệm NCTN cũng chỉ đưa
ra giới hạn về độ tuổi mà không dựa và những đặc điểm tâm - sinh lý hay sự phát
triển thể chất của NCTN. Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ
NCTN bị tước quyền tự do thông qua ngày 14/12/1990 nêu: "NCTN là người dưới 18
tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định…" (Quy tắc 2.1
mục a) [27]. Như vậy khái niệm NCTN có giới hạn là dưới 18 tuổi; mặt khác quy
định trên đặt ra khả năng mỗi quốc gia tuỳ điều kiện về kinh tế, văn hoá, xã hội, cũng
như truyền thống của mình có thể quy định độ tuổi đó sớm hơn trong luật pháp.
Ở Việt Nam có quan niệm: "NCTN phạm tội là người chưa tròn 18 tuổi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm. Tuy nhiên,
không phải NCTN phạm tội nào cũng bị truy cứu TNHS mà chỉ những người từ đủ
14 tuổi trở lên mới bị truy cứu TNHS" [21, tr.239-240]. Quan niệm này coi người
chưa đủ 18 tuổi (kể cả chưa đủ 14 tuổi) thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
BLHS quy định là tội phạm đều là NCTN phạm tội. Điều này mâu thuẫn với quan
điểm về tội phạm, theo quy định của Điều 8, BLHS 1999 thì tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, nhưng phải do người có năng lực
TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các khách thể (hay các quan hệ
xã hội) mà luật quy định. Năng lực TNHS chính là khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi của mỗi người. Khả năng này phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó
12
- Xem thêm -