Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân ở việt nam hiện nay

.PDF
172
135
119

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI TRẦN TRÍ DŨNG BẢO VỆ CÔNG LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội (2019) BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI TRẦN TRÍ DŨNG BẢO VỆ CÔNG LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 9.38.01.06 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ VĂN LONG Hà Nội (2019) LỜI CAM ĐOAN --------“Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu, kết quả nghiên cứu, trích dẫn trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác và đã được công bố. Những kết luận khoa học của Luận án là mới và chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào”. Tác giả Luận án MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 01 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 06 1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 17 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 19 1.4. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 20 Kết luận Chương 1. 22 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG LÝ 2.1. Khái niệm công lý 23 2.2. Đặc điểm cơ bản của công lý 32 2.3. Nội dung cơ bản của công lý 38 2.4. Phương thức thực hiện công lý 44 2.5 . Phân loại công lý 47 Kết luận Chương 2. 48 Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CÔNG LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 3.1. Hoạt động xét xử của Tòa án 49 3.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử 49 3.1.2. Nội dung của hoạt động xét xử 52 3.2. 59 Bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án 3.2.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử 59 3.2.2. Nội dung của bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử 61 3.2.3. Phương thức bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử 70 3.3. Điều kiện cơ bản đảm bảo công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án Kết luận Chương 3. 74 78 Chương 4: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ CÔNG LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HIỆN NAY 4.1. Khái quát các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý từ năm 1945 đến nay 79 4.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 2013 79 4.1.2. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay 82 4.2. Thực tiễn bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân hiện nay 96 4.2.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân 96 4.2.2. Hạn chế, tồn tại 98 4.2.3. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế 100 Kết luận Chương 4. 128 Chương 5: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO VỆ CÔNG LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 5.1. Quan điểm bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân 129 5.2 Giải pháp bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân 132 Kết luận Chương 5. 152 KẾT LUẬN 153 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156 DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐƯỢC CÔNG BỐ 165 PHỤ LỤC 166 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN --------***------BLDS : Bộ luật Dân sự BLHS BLTTDS BLTTHS : Bộ luật Hình sự : Bộ luật Tố tụng dân sự : Bộ luật Tố tụng hình sự CCTP CHXHCN : Cải cách tư pháp : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CQĐT : Cơ quan điều tra ĐCSVN HĐGĐT : Đảng Cộng sản Việt Nam : Hội đồng giám đốc thẩm HĐND HĐTPTANDTC HTND LBHVBQPPL : Hội đồng nhân dân : Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao : Hội thẩm nhân dân : Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật LHNGĐ : Luật Hôn nhân và gia đình LTHADS LTCTAND LTTHC Nxb QPPL UBND UBTVQH VBQPPL : Luật Thi hành án dân sự : Luật Tổ chức Tòa án nhân dân : Luật Tố tụng hành chính : Nhà xuất bản : Quy phạm pháp luật : Ủy ban nhân dân : Ủy ban thường vụ Quốc hội : Văn bản quy phạm pháp luật VKSND VKSNDTC TAND TANDTC XHCN, CNXH : Viện kiểm sát nhân dân : Viện kiểm sát nhân dân tối cao : Tòa án nhân dân : Tòa án nhân dân tối cao : Xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, công lý đã từng bước được khẳng định và chiếm một vị trí trọng yếu, thiêng liêng trong đời sống chính trị - pháp lý - xã hội của Việt Nam. Qua các văn kiện quan trọng của Đảng, quy định của pháp luật và hoạt động của Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước khẳng định vai trò của công lý trong công cuộc CCTP và đến nay đã xác định, TAND thực hiện quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ công lý là một trong những phương thức quan trọng, hữu hiệu để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020 đã khẳng định, công lý vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là nhiệm vụ của hoạt động tư pháp: “Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người…”; “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN…”; “đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý”; “bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược CCTP đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Đến Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII năm 2016, Đảng vẫn tiếp tục khẳng định mục tiêu chiến lược là xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”. Ghi nhận những giá trị của công lý và thể chế hóa các văn kiện nêu trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, sau 4 bản Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 2 28/11/2013, đã khẳng định một cách mạnh mẽ, bảo vệ công lý là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, gắn với TAND - cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp của Việt Nam: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân". Trong hoạt động tư pháp, Tòa án là trung tâm, là cơ quan tư pháp đưa ra phán quyết cuối cùng giải quyết các cáo buộc và tranh chấp pháp lý; các cơ quan khác như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Thi hành án… là những cơ quan trong hệ thống tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đã chỉ rõ: “Trong công tác tư pháp, Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Có thể nói, trọng trách bảo vệ công lý của TAND được tập trung vào hoạt động xét xử. Việc hiến định nói trên đã đánh dấu một bước phát triển to lớn trong nhận thức của Đảng và Nhà nước về tầm quan trọng của công lý và vị trí, vai trò của TAND trong việc bảo vệ công lý trong đời sống chính trị - pháp lý - xã hội tại Việt Nam. Qua đó cũng đặt ra những câu hỏi về lý luận và thực tiễn mang tính cấp thiết: Công lý là gì? Tòa án bảo vệ công lý như thế nào? Cho đến nay, trên diễn đàn khoa học pháp lý của Việt Nam vẫn còn thiếu vắng những công trình nghiên cứu cặn kẽ, đầy đủ về công lý, về bảo vệ công lý gắn với chức năng xét xử của TAND, đặc biệt trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay ở Việt Nam. Chính vì lẽ đó, tác giả đã chọn vấn đề “Bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ luật học với mong muốn góp phần làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận án là phân tích các vấn đề lý luận và thực trạng về bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp giúp cho TAND thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử bảo vệ công lý trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra cho Luận án là: Thứ nhất, tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài để xác định những kết quả nghiên cứu đã đạt được và chưa đạt được, từ đó đề ra giả thuyết khoa học và các câu hỏi nghiên cứu để giải quyết đề tài; Thứ hai, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về công lý: Khái niệm, đặc điểm, nội dung của công lý; phương thức thực hiện công lý; các loại công lý; 3 Thứ ba, làm sáng tỏ vấn đề lý luận về bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND: Khái niệm, đặc điểm, nội dung của hoạt động xét xử; khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương thức bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử; các điều kiện đảm bảo công lý trong hoạt động xét xử của TAND; Thứ tư, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND hiện nay; Thứ năm, đề ra những quan điểm và giải pháp bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND trong thời gian tới. 3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án nghiên cứu ở góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, liên quan đến tổ chức và hoạt động của TAND, không đề cập đến Tòa án quân sự. Về không gian: Luận án nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam; có tham khảo chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Về thời gian: Luận án chủ yếu tập trung vào giai đoạn gần đây, kể từ sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành cho đến nay. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án bao gồm: Những tư tưởng, học thuyết, lý luận về công lý, về nhà nước và pháp luật, về hoạt động bảo vệ công lý của Tòa án; thực trạng về pháp luật liên quan đến hoạt động bảo vệ công lý của TAND; thực tiễn công tác bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND kể từ sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành; và các quan điểm, giải pháp giúp ích cho việc xét xử bảo vệ công lý của TAND. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, về đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước và pháp luật theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về CCTP, về hội nhập quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng tinh hoa của nhân loại phù hợp với điều kiện truyền thống văn hóa của Việt Nam. Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nghiên cứu đề tài sẽ kết hợp nhiều phương pháp như hồi cứu tài liệu, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, lịch sử, hệ thống... để thực hiện đề tài. Cụ thể: - Phương pháp hồi cứu tài liệu được sử dụng để tập hợp các tài liệu, công trình 4 nghiên cứu trong nước và ngoài nước từ các nguồn khác nhau có liên quan đến đề tài. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng để viết Chương tổng quan; - Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu để làm rõ các vấn đề từ lý luận, thực trạng đến các giải pháp; - Phương pháp so sánh, suy luận lô-gích được sử dụng nhằm lý giải các vấn đề lý luận, giúp cho mỗi vấn đề được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, phục vụ cho việc tìm ra chân lý để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu; - Phương pháp phân tích số liệu thống kê được sử dụng để chứng minh những hạn chế trong thực tiễn xét xử của Tòa án, cũng như để tăng tính thuyết phục cho những luận điểm mà nghiên cứu đưa ra; - Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu quá trình phát triển của các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án khi nghiên cứu về thực trạng; - Phương pháp mô tả và phân tích quy phạm được sử dụng trong quá trình làm rõ những hạn chế của pháp luật liên quan đến thực trạng và đề ra các giải pháp pháp lý. - Phương pháp phân tích dự báo khoa học nhằm dự báo xu hướng phát triển của nhu cầu xã hội về bảo vệ Hiến pháp, về tăng cường tính độc lập của Tòa án, về thời hạn lâu dài của nhiệm kỳ Thẩm phán, về nhu cầu xã hội đối với hoạt động của Luật sư… Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp khác như tham khảo các chuyên gia, phương pháp hệ thống để xâu chuỗi, sắp xếp các thông tin thành một chỉnh thể thống nhất, sử dụng kết quả điều tra xã hội học của các công trình nghiên cứu có liên quan để đánh giá về ý thức pháp luật khi nghiên cứu về phần thực trạng… 5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án Luận án là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ luật học nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở kế thừa những thành quả của các công trình nghiên cứu trước đây, Luận án có những đóng góp mới như sau: Thứ nhất, Luận án đã nhận diện, đánh giá tương đối khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu chủ yếu ở Việt Nam và sơ lược ở nước ngoài có liên quan đến những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp về bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND. Từ đó, xác định được những nội dung cần kế thừa, phát triển và những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu; đưa ra giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu để thực hiện nhiệm vụ của đề tài Luận án. 5 Thứ hai, Luận án đã làm rõ các vấn đề lý luận về công lý và bảo vệ công lý trên các mặt: Khái niệm, nội dung, đặc điểm, phương thức thực hiện công lý; khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương thức bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND và những điều kiện đảm bảo công lý trong hoạt động xét xử của TAND. Thứ ba, Luận án đã khái quát thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý từ năm 1945 cho đến nay; đánh giá thực tiễn, xác định những thành tựu và hạn chế, phân tích những nguyên nhân hạn chế chủ yếu trong việc bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND kể từ sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành. Thứ tư, Luận án đã đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu để giúp cho TAND thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ bổ sung vào hệ thống tri thức khoa học pháp lý về công lý, về bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND; có giá trị tham khảo trong lĩnh vực nghiên cứu và trong thực tiễn xét xử ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các bài báo khoa học được công bố và Phụ lục, kết cấu nội dung của Luận án gồm 05 Chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 2: Những vấn đề lý luận về công lý. Chương 3: Những vấn đề lý luận về bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Chương 4: Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân hiện nay. Chương 5: Quan điểm, giải pháp bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. 6 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của TAND hiện nay” có thể được phân thành các nhóm sau đây: 1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý luận về công lý và bảo vệ công lý của Tòa án Tác phẩm “Dân luật khái luận” của Vũ Văn Mẫu (1914-1998), Sài Gòn, năm 1961. Trong tác phẩm, tác giả cho rằng công lý là cứu cánh của pháp luật, khi xét xử đôi khi phải dựa vào công lý để sửa chữa một phần tính chất quá nghiêm khắc của pháp luật, vì nếu đem thi hành pháp luật với tinh thần quá câu nệ, người ta sẽ gần như đi tới chỗ bất công. Pháp luật được ban hành không được trái với nguyên lý pháp luật, đó là lý tưởng mà xã hội theo đuổi - an ninh, công lý và tiến bộ xã hội. Nếu không tôn trọng các nguyên lý pháp luật, nhà lập pháp sẽ vô tình bước chân vào con đường thoái hóa trong lịch trình tiến hóa của nhân loại. Tác phẩm “Hồi ký của đồng chí Vũ Đình Hòe”, Nxb Hội Nhà văn, năm 2004. Trong tác phẩm có trích Bài phát biểu của đồng chí Vũ Đình Hòe với nhan đề “Công lý và pháp lý theo tinh thần “Chí công vô tư” của Hồ Chủ tịch”. Trong nội dung Bài phát biểu, ông chỉ rằng, công lý là phải đứng hẳn về phía nông dân, dùng công cụ Tòa án để ủng hộ đắc lực cho cuộc đấu tranh của nông dân, đánh đổ giai cấp địa chủ, giành lấy ruộng đất cho nông dân. Mọi người đều lao động nên đều bình đẳng, đều có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình, đó là công lý ở mức cao nhất. Công lý và pháp lý là sự thể hiện “chí công vô tư” qua các thời kỳ cách mạng và mang một nội dung thích hợp với từng thời kỳ ấy. Công lý XHCN là việc thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, còn pháp lý XHCN chủ yếu là để bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Bài viết “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền” của Vũ Công Giao, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 25, năm 2009. Trong bài viết, tác giả phân tích khái niệm và đặc điểm của tiếp cận công lý với nghĩa công lý là sự đền bù hoặc khắc phục cho những bất công hoặc thiệt hại do cá nhân hay chủ thể khác gây ra. Việc tiếp cận công lý được thực hiện thông qua việc tiếp cận với các thiết chế tư pháp chính thống (thông thường được hiểu là hệ thống các cơ quan tư pháp như các Cơ quan điều tra, Công tố, Tòa án…) và không chính 7 thống (thông thường được hiểu là hệ thống các luật tục, các cơ chế hòa giải dựa trên cộng đồng…). Bài viết “Quyền tiếp cận công lý trong tố tụng hình sự” của ThS Đinh Thế Hưng, Tạp chí Nghề luật, số 01, năm 2011. Tác giả đã luận giải về khái niệm công lý, đó là những giá trị về công bằng, lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lý được xã hội và pháp luật thừa nhận. Pháp luật là hiện thân của công lý nhưng công lý không đồng nhất với pháp luật. Chỉ khi nào pháp luật chuyển tải được toàn bộ những giá trị công bằng, lẽ phải, nhân đạo… của công lý thì lúc đó pháp luật mới là biểu hiện của công lý. Ngược lại, một thứ pháp luật không bảo vệ cho kẻ yếu chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi cho thiểu số kẻ mạnh có quyền lực ấy là thứ pháp luật bất công. Tác phẩm “Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền” của GS.TS Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Trong tác phẩm, tác giả xác định một trong những đặc trưng cơ bản của Tòa án trong nhà nước pháp quyền là hoạt động phán xét công lý. Công lý là chuẩn mực đạo đức xã hội mà pháp luật có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ. Biểu hiện của công lý chính là sự công bằng, khách quan, vô tư và tình người. Hoạt động xét xử là hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý. Tòa án không chỉ phán xét tính hợp pháp mà còn cả tính đúng đắn của hành vi, tức là ngoài căn cứ vào pháp luật, Tòa án còn căn cứ vào công lý. Các bài viết của ThS. Nguyễn Xuân Tùng: “Về khái niệm “công lý” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng 11/2013; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công lý” , Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số tháng 11/2013; “Yêu công lý: Phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ tư pháp Việt Nam” tại Cổng thông tin điện tử Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh (ngày 09/7/2012); “Tổng quan các tư tưởng, học thuyết về công lý trên thế giới và quan niệm về công lý trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013” tại Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (Chuyên mục Nghiên cứu trao đổi ngày 28/11/2013); “Sự cạnh tranh giữa các học thuyết công lý trong xã hội Việt Nam: nhìn từ đề xuất “nộp tiền thay thế nghĩa vụ quân sự” và “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” tại Báo Điện tử Một thế giới ngày 06/12/2013; “Công lý được xác định là giá trị căn bản trong Hiến pháp nhiều quốc gia trên thế giới” tại Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (Chuyên mục Nghiên cứu trao đổi ngày 16/12/2013); “Cảm nhận về công lý trong nền văn hóa Nho giáo tại Việt Nam” tại Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (Chuyên mục Nghiên cứu trao đổi ngày 10/01/2014); “Pháp luật phải bảo đảm được công lý và lẽ phải: Ý nghĩa nhân văn của hệ thống pháp luật XHCN từ Thông điệp năm mới của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng”, tại Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (Chuyên mục Nghiên cứu trao đổi 8 ngày 28/01/2014); “Giới thiệu các công trình khoa học nghiên cứu về công lý” tại Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (Chuyên mục Nghiên cứu trao đổi ngày 10/6/2014)… Qua các bài viết này, tác giả đã phân tích khái niệm công lý qua khía cạnh lịch sử, chính trị và pháp lý, và đưa ra định nghĩa về công lý là phẩm hạnh xã hội mang tính chính trị sâu sắc, là giá trị giúp mỗi thành viên xã hội không làm phương hại đến người khác và là căn cứ để Tòa án giải quyết các xung đột, tranh chấp, vi phạm trên cơ sở đạo lý, lẽ phải, lẽ công bằng, qua đó, tạo dựng sự đồng thuận, ổn định và trật tự xã hội. Tác giả đã nêu rõ việc bảo vệ công lý được thực hiện thông qua cơ chế xét xử khi Tòa án thực hiện quyền tư pháp của mình, công lý yêu cầu xử lý các vụ việc bằng các thủ tục tố tụng công bằng, hợp pháp nhằm bảo vệ lợi ích của xã hội và bảo vệ các quyền con người một cách nghiêm minh. Công lý trong xét xử đòi hỏi sự đồng thuận cao của xã hội đối với tính hợp lý của cơ chế tố tụng, tính liêm chính và độc lập của Tòa án và tính chính xác, không thiên vị của các bản án, quyết định. Bài viết “Bảo đảm công lý trong thể chế pháp quyền” của PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn tại Trang thông tin điện tử Tạp chí Cộng sản (chuyên mục Bình luận ngày 20/3/2015). Trong bài viết, tác giả cho rằng công lý có 3 giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất, công lý thể hiện qua luật báo thù, sự báo trả tương xứng. Giai đoạn thứ hai, sự báo thù được thay bằng bồi thường, phạt vạ, nhằm giữ sự yên ổn, hòa bình. Giai đoạn thứ ba, công lý do Toà án xét xử để giải quyết các xung đột trong xã hội. Theo tác giả, công lý là sự nhận thức đúng và hành động đúng vì chân lý, vì công bằng và đạo đức, được xã hội và pháp luật thừa nhận. Giá trị của công lý sẽ cung cấp những tiêu chí cơ bản để đánh giá, thẩm định các đạo luật thực định. Do đó, một đạo luật công bằng là một đạo luật dựa trên và không đối lập với các giá trị công lý. Bên cạnh đó, phải kể đến các công trình nghiên cứu liên quan đến các vấn đề thuộc nội hàm công lý như công bằng, bình đẳng, nhân đạo, dân chủ… Ở góc độ xã hội, có thể kể các công trình như: “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước Châu Á và Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1998; “Quản lí sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng” của GS.TS Phạm Xuân Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, năm 2001; “Báo cáo phát triển thế giới 2006 - Công bằng và phát triển” của Ngân hàng thế giới, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 2005; “Công bằng và bình đẳng xã hội trong quan hệ tộc người ở các quốc gia đa tộc người” của PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm, Nxb Lý luận chính trị, năm 2006; “Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị 9 trường ở nước ta hiện nay” của TS. Võ Thị Hoa, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2012…. Ở góc độ luật học, có thể kể các công trình nghiên cứu như: “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam”, Luận án phó tiến sĩ của TS.. Võ Khánh Vinh, năm 1993; “Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ của TS. Vũ Anh Tuấn, năm 2001; “Tính công bằng trong phán quyết của TAND ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của ThS. Trần Trí Dũng, năm 2007; “Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ của TS. Hồ Sỹ Sơn, năm 2007; “Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội” của PGS.TS Nguyễn Minh Đoan, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2009; “Giá trị xã hội của pháp luật Việt Nam hiện nay - Lý luận và thực tiễn” của PGS.TS Nguyễn Văn Động, Nxb Tư pháp, năm 2013… 1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án gắn với nhiệm vụ bảo vệ công lý về phương diện lý luận và thực tiễn Luận án tiến sĩ “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của TS. Hoàng Thị Sơn, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003. Trong công trình, tác giả xác định quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định cho phép bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố và xét xử được tiến hành khách quan, toàn diện và đầy đủ, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; thể hiện tính dân chủ, nghiêm minh trong quá trình giải quyết vụ án. Luận án tiến sĩ “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay” của TS. Lê Xuân Thân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004. Trong công trình, tác giả đã làm rõ hoạt động xét xử chính là hoạt động áp dụng pháp luật, là việc thực hiện pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ việc để ban hành các bản án, quyết định phán xét một hành vi là tội phạm, phải chịu hình phạt; để phân xử đúng sai đối với các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Hoạt động xét xử có những đặc trưng: Là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước; chỉ được tiến hành trong quá trình xét xử các vụ án theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; được tiến hành chủ yếu tại phiên tòa; chỉ do Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành. Các tập “Sổ tay Thẩm phán” của TANDTC phát hành năm 2006, năm 2009 và thường xuyên được cập nhật. Các tập hướng dẫn này mang tính thực tiễn ứng 10 dụng, được coi là cẩm nang nghiệp vụ, cung cấp nhiều tri thức quan trọng, cơ bản, hướng dẫn Thẩm phán các cấp định hướng xét xử đúng đắn các loại vụ việc. Tác phẩm "Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của TS. Nguyễn Thị Hồi (chủ biên), Nxb Tư pháp, năm 2009. Trong tác phẩm, các tác giả đã phân tích chuyên sâu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật như: Khái niệm, đặc điểm, quy trình áp dụng pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật tương tự. Các tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể như hình sự, dân sự, hành chính...; đề ra những phương hướng hoàn thiện pháp luật, các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật và hướng hoàn thiện lý luận chung về áp dụng pháp luật. Tác phẩm “Quyền con người trong thi hành công lý” của TANDTC, Nxb Lao động - Xã hội, năm 2010. Tác phẩm cung cấp những kiến thức tương đối toàn diện về các quyền cơ bản của con người và việc bảo đảm các quyền này trong quá trình thực thi công lý qua những nội dung cơ bản như: Quyền con người trong việc giam giữ, quyền có một phiên tòa bình đẳng từ điều tra đến phiên tòa, từ phiên tòa đến bản án cuối cùng, quyền của phụ nữ trong thi hành công lý, sự độc lập và công bằng của Thẩm phán, Công tố viên và Luật sư… Tác phẩm “Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong hoạt động xét xử tại TAND” của Viện Khoa học xét xử TANDTC, năm 2010. Tác phẩm đã cung cấp những tri thức tương đối toàn diện về công tác hòa giải trong quá trình xét xử, hướng dẫn nghiệp vụ, từ vấn đề nhận thức chung đến việc thực hiện cụ thể công tác hòa giải trong từng giai đoạn xét xử; qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác xét xử nói chung và trong công tác giáo dục pháp luật nói riêng. Tác phẩm “Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự” của TS. Đỗ Văn Đương, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2011. Trong tác phẩm, tác giả phân tích chuyên sâu các vấn đề lý luận về chứng cứ, chứng minh trong vụ án, các phương pháp khoa học về thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong lĩnh vực hình sự, qua đó cũng cung cấp những tri thức quan trọng về vấn đề chứng cứ, chứng minh nói chung trong quá trình giải quyết các loại vụ việc của Tòa án. Luận án tiến sĩ “Những vấn đề về độc lập xét xử trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta” của TS. Lưu Tiến Dũng, Học viện Khoa học xã hội, năm 2011. Trong công trình, tác giả đã xác định bảo đảm độc lập xét xử phải bao gồm: Sự độc lập của quyền tư pháp so với các quyền lực khác; sự độc lập của Tòa án đối với các cơ quan lập pháp và hành pháp cũng như với các cơ quan tư pháp khác, các cơ quan, tổ chức bên ngoài; sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Bảo đảm độc 11 lập xét xử là một trong những điều kiện tiên quyết của một nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm tính thượng tôn của Hiến pháp và pháp luật và sự bình đẳng trước pháp luật; bảo đảm sự cân bằng và kiểm soát giữa các quyền lực nhà nước và bảo đảm quyền con người… Tác phẩm “Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Năm, Nxb Công an nhân dân, năm 2012. Trong tác phẩm, tác giả đã phân tích những lý luận về án lệ trong hai hệ thống pháp luật Common law và Civil law, so sánh một số nước. Qua đó, tác giả kiến nghị Việt Nam cần thừa nhận và sử dụng án lệ để góp phần làm cho pháp luật được áp dụng thống nhất, tăng tính thuyết phục trong phán quyết, từ đó hướng tới việc quy định Tòa án có quyền giải thích pháp luật, thừa nhận giá trị án lệ do Tòa án Hiến pháp ban hành nếu được thành lập… Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trong xét xử hình sự ở Việt Nam hiện nay” của TS. Hoàng Hùng Hải, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012. Trong công trình này, tác giả xác định bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trong phiên tòa xét xử hình sự là sự tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền bình đẳng của những người (bên) buộc tội và những người (bên) gỡ tội (bào chữa) do những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng, trong đó Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đóng vai trò then chốt thực hiện, tạo cơ sở cho việc ra bản án, quyết định đúng pháp luật, vì công lý. Bài viết “Một số vấn đề về áp dụng quy định tương tự của pháp luật” của PGS.TS Trần Thị Huệ, Tạp chí TAND số 23, năm 2014. Trong bài viết, tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận về áp dụng quy định tương tự của pháp luật và nêu ra một số trường hợp thực tế thường gặp để nhận diện, có ích cho thực tiễn xét xử. Luận án tiến sĩ “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam” của TS. Hoàng Văn Thành, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2015. Trong công trình, tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc tranh tụng, đề xuất mô hình tranh tụng kết hợp với thẩm vấn trong hình sự có giá trị thực tiễn, áp dụng phù hợp với Việt Nam. Báo cáo “Chỉ số công lý - Thực trạng về Công bằng và Bình đẳng dựa trên ý kiến của người dân năm 2015” của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (tháng 5/2016). Báo cáo đánh giá kết quả tiến trình cải cách luật pháp và tư pháp theo cách tiếp cận mới, đó là chỉ số công lý dựa trên 5 trục nội dung xoay quanh vấn đề thực thi pháp luật, bảo đảm sự công bằng và bình đẳng, bao gồm: Khả năng tiếp cận; công bằng; liêm chính; tin cậy và hiệu quả; bảo đảm các quyền cơ bản. Các kết quả nghiên 12 cứu cung cấp nhiều thông tin về thực tiễn hoạt động tư pháp nói chung, trong đó có Tòa án. Luận án tiến sĩ “Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Đinh Thế Hưng, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017. Trong công trình, tác giả đã xác định sự thật vụ án chính là chân lý trong vụ án; xác định sự thật vụ án là quá trình nhận thức đặc thù mang tính pháp lý, có giới hạn, thông qua phương pháp chứng minh và phương tiện chứng cứ nhằm xác định sự thật của vụ án với tư cách là toàn bộ sự kiện pháp lý đã xảy ra trên thực tế. Xác định sự thật của vụ án là tiền đề để giải quyết khách quan, toàn diện, đúng đắn vụ án và các vấn đề khác. Bài viết “Tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn” của Ngô Cường, Tạp chí TAND số 6, năm 2017. Trong bài viết, tác giả đã phân tích, mô tả hai mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn theo góc độ luật so sánh. Tác giả đã phân tích ở thủ tục tố tụng hình sự và dân sự, cung cấp những thông tin cơ bản để so sánh, tìm những mặt ưu và hạn chế của hai mô hình trên, phục vụ cho nghiên cứu lý luận. Bài viết “Nhận diện tập quán để áp dụng trong công tác xét xử vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình của TAND” của TS. Nguyễn Hải An, Tạp chí TAND số 11, 12, năm 2018. Trong bài viết, tác giả đã phân tích khái niệm và nguyên tắc áp dụng tập quán. Tác giả đã phân loại, sắp xếp một số tập quán phổ biến để áp dụng trong thực tiễn theo phạm vi điều chỉnh như: Tập quán về xác định dân tộc, họ tên; tập quán về xác lập quyền sở hữu; tập quán về quan hệ hợp đồng; tập quán về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; tập quán về hôn nhân gia đình… Các tuyển tập “Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của HĐTPTANDTC” của TANDTC phối hợp với Chương trình đối tác tư pháp do Ủy ban châu Âu, Đan Mạch, Thụy Điển tài trợ ban hành. Các tuyển tập này cung cấp những quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của HĐTPTANDTC có giá trị tham khảo về mặt nghiệp vụ, cung cấp nhiều thông tin rất hữu ích về thực tiễn xét xử. Bên cạnh những công trình nghiên cứu kể trên, phải kể đến những công trình nghiên cứu về lĩnh vực xét xử chuyên ngành cung cấp những thông tin về lý luận và thực tiễn hữu ích liên quan đến đề tài như: - Về lĩnh vực hình sự: “Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh tại miền Đông Nam Bộ Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ của TS. Lê Văn Quyền, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017; “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án quân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ của TS. Dương Văn Thăng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2017… 13 - Về lĩnh vực dân sự: “Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, bản án và bình luận bản án” của TS. Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2010; “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự” của TS. Mai Bộ, Tạp chí TAND số 23, năm 2014; “Áp dụng tập quán trong giải quyết vụ việc dân sự của TAND ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ của TS. Nguyễn Thị Tuyết Mai, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2014; “Án lệ và việc áp dụng án lệ trong xét xử, giải quyết vụ việc dân sự tại TAND” của ThS. Lê Mạnh Hùng, Tạp chí TAND số 7, 8, năm 2016; “Nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ, kinh nghiệm một số nước và những gợi mở cho Việt Nam” của Nguyễn Thị Hoài Thương và Lại Thị Phương Thảo, Tạp chí TAND số 12, năm 2018; “Đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính đáp ứng yêu cầu CCTP” của PGS.TS Nguyễn Hòa Bình, Tạp chí TAND số 13, năm 2018; “Luật hợp đồng Việt Nam, bản án và bình luận bản án” của PGS.TS Đỗ Văn Đại, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, năm 2018… - Về lĩnh vực hành chính: “Toà hành chính trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân”, Luận án tiến sĩ của TS. Trần Kim Liễu, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2011; “Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ của TS. Nguyễn Thị Hà, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2017… Ngoài ra, cũng phải kể đến những công trình nghiên cứu lý luận về quyền tư pháp có liên quan đến vai trò của Tòa án trong bộ máy Nhà nước và đời sống xã hội như: “Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”, Đề tài cấp Nhà nước, GS.TS Trần Ngọc Đường chủ nhiệm, năm 2006; "Vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam", Luận văn thạc sĩ của ThS. Nguyễn Huyền Ly, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012; “Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người”, Luận án tiến sĩ của TS. Đặng Công Cường, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013; “Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền” của GS.TSKH Lê Cảm, Tạp chí TAND số 19, năm 2014; “Quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Đức Bình, Tạp chí TAND số 5, năm 2014; “Kiểm soát tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” Luận án tiến sĩ của TS. Nguyễn Quốc Hùng, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016… 14 1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân có liên quan đến vấn đề về quan điểm, giải pháp bảo vệ công lý trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân Luận án tiến sĩ “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nước ta trong giai hiện nay” của TS. Lê Thành Dương, Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật, năm 2003. Trong công trình, tác giả đã phân tích làm rõ vị trí, chức năng, tổ chức và hoạt động của Tòa án trong bộ máy Nhà nước; đánh giá thực trạng và nêu phương hướng đổi mới, nổi bật là đề xuất nguyên tắc giản tiện và hiệu quả trong xét xử có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn. Tác phẩm “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” của GS.TSKH Lê Cảm và PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004. Trong tác phẩm, các tác giả trình bày những vấn đề lý luận về CCTP trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về tổ chức và hoạt động của quyền lực tư pháp, về mối quan hệ giữa các thiết chế bên trong cũng như mối quan hệ giữa quyền tư pháp với quyền hành pháp và lập pháp. Từ yêu cầu của thực tiễn, các tác giả đã đi sâu phân tích những vấn đề cần ưu tiên thực hiện trong CCTP về lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh tế, lao động… Tác phẩm “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền”, Nxb Tư pháp, năm 2004 và tác phẩm “Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền”, Nxb Đại học Quốc gia, năm 2012 của GS.TS Nguyễn Đăng Dung. Trong các tác phẩm, tác giả đã phân tích và làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của Tòa án và tầm quan trọng của độc lập tư pháp trong xã hội pháp quyền. Trên cơ sở lý luận, thực trạng xét xử và pháp luật tư pháp, tác giả đã xây dựng những giải pháp có giá trị nhằm nâng cao vị thế Tòa án và chất lượng xét xử gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của TS. Trần Huy Liệu, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2006. Trong công trình, tác giả đã phân tích làm rõ các khái niệm về “quyền tư pháp”, “hoạt động tư pháp”, “hệ thống các cơ quan tư pháp”, vị trí, vai trò, đặc điểm cơ bản của các cơ quan tư pháp ở Việt Nam. Tác giả đã đề xuất những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp khả thi và phù hợp với chủ trương CCTP của Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đề tài cấp nhà nước “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan