LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử hình thành và phát triển ngành Bảo hiểm Việt Nam, có lẽ chƣa
bao giờ cạnh tranh lại diễn ra gay gắt nhƣ hiện nay. Cùng với hoạt động kinh
doanh của nhiều công ty bảo hiểm có mặt trên thị trƣờng địa bàn tỉnh Phú thọ, sự
xuất hiện của các văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nhân thọ nhƣ Pjico,
Bảo Minh… lại đang báo hiệu một giai đoạn "đua sức đua tài" mới của các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại Phú Thọ.
Nằm trên địa bàn tỉnh tỉnh Phú Thọ công ty bảo hiểm Phú Thọ là doanh
nghiệp Nhà nƣớc duy nhất kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Trong những năm
gần đây, Công ty phải đƣơng đầu với sức ép cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ cạnh
tranh nhƣ công ty bảo hiểm phi nhân thọ 100% vốn nƣớc ngoài, Pjico,hay Bảo
Minh,… giờ đây lại bị đe doạ cạnh tranh mạnh mẽ hơn bởi những công ty Bảo
hiểm phi nhân thọ sẽ thành lập trong tƣơng lai. Phú Thọ chắc chắn sẽ bị chia sẻ
thành nhiều phần hơn trong khi khai thác hợp đồng mới gặp rất nhiều khó khăn.
Trƣớc tình hình đó, để tồn tại và phát triển, một vấn đề có tính chất "sống
còn" đối với Công ty là nâng cao hiệu quả khai thác Bảo hiểm phi nhân thọ.
Với mong muốn góp phần xây dựng một bảo hiểm phi nhân thọ Phú Thọ
đứng vững trong cạnh tranh, trong quá trình thực tập tại Công ty em mạnh dạn
chọn đề tài: "Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác
của đại lý bảo hiểm Phú Thọ" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề đƣợc bố cục thành 3 chƣơng:
Chƣơng I: Khái quát chung về bảo hiểm phi nhân thọ
Chƣơng II: Thực trạng hoạt động khai thác của đại lý bảo hiểm tại Công ty
bảo hiểm Phú Thọ
Chƣơng III: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác của
đại lý bảo hiểm Phú Thọ.
Trang 1
CHƢƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
VÀ ĐẠI LÝ BẢO HIỂM
I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1. Sự cần thiết về tác dụng của Bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ là sự cam kết giữa ngƣời tham gia bảo hiểm với
ngƣời bảo hiểm mà trong đó, ngƣời bảo hiểm sẽ trả cho ngƣời tham gia hoặc ngƣời
thụ hƣởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền nhất định khi có các sự kiện đã định
trƣớc xảy ra, còn ngƣời tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn.
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng nhƣu hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhƣng con ngƣời vẫn có nguy
cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân, ví dụ
nhƣ:
- Các rủi ro do môi trƣờng thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, rét, hạn, sƣơng
muối, dịch bệnh v.v..
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học và kỹ thuật.
Khoa học và kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện thuận
lợi cho cuộc sống của con ngƣời: nhƣng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất
ngờ nhƣ tai nạn ô tô, hàng không, tai nạn lao động v.v..
- Các rủi ro do môi trƣờng xã hội: Đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra rủi ro cho con ngƣời. Chẳng hạn, nếu xã hội tổ chức quản lý chặt chẽ mọi ngƣời làm việc và sống theo pháp luật thì sẽ không xảy ra hiện tƣợng thất
nghiệp, trộm cắp; nếu làm tốt cong tác chăm sóc sức khoẻ sẽ hạn chế đƣợc các rủi
ro không đáng có nhƣ hoả hoạn, bạo lực, v v...
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thƣờng đem lại cho con ngƣời
những khó khăn trong cuộc sống nhƣ mất việc hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều
tài sản, làm ngƣng trệ sản xuất và kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân,
v.v.. làm ảnh hƣởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con ngƣời đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm
kiểm soát cũng nhƣ khắc phục hậu quả do rủi ro gây nên. Hiện nay, theo quan
Trang 2
điểm của các nhà quản lý rủi ro, có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu
quả do rủi ro gây ra - đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các biện
pháp tài trợ rủi ro.
+ Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các hiện tƣợng tránh né rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiếu rủi ro. Các biện pháp này thƣờng đƣợc sử dụng
để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
- Tránh né đƣợc rủi ro là biện pháp đƣợc sử dụng thƣờng xuyên trong cuộc
sống. Mỗi ngƣời, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện pháp
thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn đến tổn thất.
Chẳng hạn, để tránh các tai nạn giao thông ngƣời ta hạn chế việc đi lại; để tránh
các tai nạn lao động ngƣời ta chọn những nghề không nguy hiểm… Tránh né rủi ro
chỉ với những rủi ro có thể né tránh đƣợc. Nhƣng trong cuộc sống có rất nhiều rủi
ro bất ngờ không thể né tránh đƣợc.
- Ngăn ngừa tổn thất: Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đƣa ra các hành
động làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để giảm
thiểu các tai nạn lao động, ngƣời ta tổ chức các khóa học nâng cao trình độ của
ngƣời lao động hay nâng cao chất lƣợng các hoạt động đảm bảo an toàn lao động;
đề phòng chống hoả hoạn ngƣời ta thực hiện tốt việc phòng cháy chữa cháy.
- Giảm thiểu tổn thất: ngƣời ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các biện
pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, nhƣ khi có hoả hoạn,
để giảm thiểu tổn thất, ngƣời ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng đƣợc; hay trong
một tai nạn giao thông; để giảm thiểu các thiệt hại về ngƣời và của ngƣời ta đƣa ra
ngay những ngƣời bị thƣơng đến nơi cấp cứu và điều trị.
Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn
hoặc giảm thiểu rủi ro nhƣng khi rủi ro đã xảy ra, ngƣời ta không thể lƣờng hết
đƣợc hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro
và bảo hiểm. Đây là các biện pháp đƣợc sử dụng trƣớc khi rủi ro xảy ra với mục
đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà ngƣời gặp phải tổn thất tự chấp
nhận khoản tổn thất đó. Một trƣờng hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự bảo
Trang 3
hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy
nhiên có thể phân chia làm hai nhóm: chấp nhận rủi ro thụ động và chấp nhận rủi
ro chủ động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động, ngƣời gặp tổn thất không có sự
chuẩn bị trƣớc và họ có thể phải vay mƣợn để khắc phục hậu quả tổn thất. Đối với
chấp nhận rủi ro chủ động, ngƣời ta lập ra quĩ dự trữ dự phòng và quỹ này đƣợc sử
dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn
vốn không đƣợc sử dụng một cách tối ƣu hoặc nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp
phải các vấn đề gia tăng về lãi suất…
- Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chƣơng trình quản lý rủi
ro của các tổ chức cũng nhƣ cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro,
bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo
hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung
một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra.
Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả
nhất. Nhƣ vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Do đòi hỏi về sự tự chủ và sự an toàn về tài chính cũng nhƣ các nhu cầu của
con ngƣời, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và khôn thể thiếu đối với mỗi
cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lƣu kinh tế, văn hoá
giữa các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng.
Vì vậy, khái niệm "bảo hiểm" trở nên gần gũi, gắn bó với con ngƣời, với các
đơn vị sản xuất kinh doanh. Có đƣợc quan hệ đó vì bảo hiểm đã mang lại lợi ích
kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơnvị có tham gia bảo hiểm.
Tác dụng đó đƣợc thể hiện:
- Ngƣời tham gia bảo hiểm (cá nhân hay tổ chức) đƣợc trợ cấp, bồi thƣờng
những thiệt hại thực tế do rủi ro, bất ngờ gây ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Nhờ đó
họ nhanh chóng ổn định kinh tế, khôi phục đời sống và sản xuất kinh doanh…
- Nhờ có bảo hiểm những ngƣời tham gia đóng góp một số phí tạo thành
nguồn quỹ bảo hiểm lớn ngoài chi trả hay bồi thƣờng còn là nguồn vốn để đầu tƣ
phát triển kinh tế…
Trang 4
- Bảo hiểm, nhất là bảo hiểm thƣơng mại còn đóng góp tích luỹ cho ngân
sách…
- Bảo hiểm cùng với ngƣời tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp để
phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả thiệt hại.
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi ngƣời, mọi tổ chức; giúp họ yên
tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh; bảo hiểm thể hiện tính
cộng đồng, tƣơng trợ, nhân văn sâu sắc.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nƣớc,
nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm v.v..
- Cuối cùng, hoạt động bảo hiểm thu hút một số lao động nhất định, góp
phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội (theo thống kê, bảo hiểm các nƣớc
thu hút 1% lực lƣợng lao động xã hội).
2. Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
Để không ngừng phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất
nƣớc, bảo hiểm phi nhân thọ đã luôn chú trọng phát triển các nghiệp vụ nhằm đa
dạng hoá sản phẩm Bảo hiểm, đáp ứng đƣợc nhu cầu da dạng và phong phú của
con ngƣời. Hiện nay nếu căn cứ vào đối tƣợng bảo hiểm phi nhân thọ đƣợc chia
làm 3 loại:
- Bảo hiểm tài sản
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
- Bảo hiểm con ngƣời phi nhân thọ.
2.1. Bảo hiểm tài sản
Đây là loại bảo hiểm mà đối tƣợng bảo hiểm là tài sản (cố định hay lƣu
động) của ngƣời đƣợc bảo hiểm. Ví dụ nhƣ: Bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ
giới, bảo hiểm cho hàng hoá của các chủ hàng trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu, bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà trong bảo hiểm trộm cắp.
Các bảo hiểm về tài sản đều có một số đặc điểm chung sau:
a) Áp dụng nguyên tắc bồi thƣờng khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số tiền
bồi thƣờng mà bên đƣợc bảo hiểm nhận đƣợc trong mọi trƣờng hợp không đƣợc
vƣợt quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe máy tham gia
bảo hiểm cho toàn bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai
Trang 5
nạn, xe bị hƣ hỏng giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng, số tiền bồi thƣờng mà chủ xe
nhận đƣợc trong bất kỳ trƣờng hợp nào cũng chỉ là 8 triệu đồng.
b) Áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp khi xuất hiện ngƣời thứ ba có lỗi
và do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của ngƣời đƣợc bảo hiểm. Theo nguyên
tắc này, sau khi trả tiền bồi thƣờng, ngƣời bảo hiểm sẽ đƣợc hƣởng các quyền và
hành động của ngƣời bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi trách nhiệm của ngƣời
thứ ba có lỗi. Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của ngƣời
bảo hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của ngƣời thứ ba có lỗi, đồng thời
đảm bảo cả nguyên tắc bồi thƣờng.
Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn lỗi một phần là của xe ô tô đi ngƣợc
chiều (70%). Lúc này, thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy sẽ đƣợc truy cứu rách
nhiệm 5,6 triệu đồng của ông chủ xe ô tô (70% x 8 tr.đ = 5,6 triệu đồng). Sau khi
bồi thƣờng 8 triệu đồng theo hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cho chủ xe máy, công
ty bảo hiểm đƣợc thay quyền của chủ xe máy này truy đòi trách nhiệm 5,6 triệu
đồng đối với chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền đƣợc áp dụng, và ngƣời đƣợc bảo
hiểm trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không thể nhận số tiền bồi thƣờng vƣợt
quá 8 triệu đồng thiệt hại, nhƣ vậy nguyên tắc bồi thƣờng đƣợc đảm bảo.
Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp,
đó là khi ngƣời thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha mẹ… của
ngƣời đƣợc bảo hiểm.
c) Bảo hiểm trùng: Trong bảo hiểm tài sản, nếu một đối tƣợng bảo hiểm
đồng thời đƣợc bảo đảm bằng nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một rủi ro với
những ngƣời bảo hiểm khác nhau, những hợp đồng bảo hiểm này có điều kiện bảo
hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng số tiền bảo hiểm từ tất cả
những hợp đồng này lớn hơn giá trị bảo hiểm của đối tƣợng bảo hiểm đó thì gọi là
bảo hiểm trung.
Trong trƣờng hợp có bảo hiểm trung, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra để
giải quyết. Thông thƣờng, bảo hiểm trung liên quan đến sự gian lận của bên tham
gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc chung, công ty bảo
hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện thấy gian lận. Ngƣợc lại, nếu
các công ty bảo hiểm chấp nhận bồi thƣờng thì lúc này, trách nhiệm của mỗi công
Trang 6
ty đối với tổn thất sẽ đƣợc phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ
thể:
Sè tiÒn båi th-êng;cña tõng hîp ®ång = Gi¸ trÞ;thiÖt h¹i;thùc tÕ x Lỗi!
Trên thực tế, một trong số các công ty bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho đối
tƣợng đƣợc bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thƣờng theo số thiệt hại thực
tế, sau đó sẽ đòi lại các công ty khác phần trách nhiệm của họ.
d) Một số chế độ bồi thƣờng bảo hiểm áp dụng trong bảo hiểm tài sản
- Chế độ bảo hiểm theo nguyên tắc trách nhiệm vƣợt giới hạn (theo mức
miễn thƣờng):
Ngƣời bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị thiệt
hại thực tế vƣợt quá một mức đã thoả thuận (mức miễn thƣờng). Miễn thƣờng là
một hình thức từ chối bồi thƣờng của công ty bảo hiểm dựa trên một số tiền quy
định. Có hai loại miễn thƣờng: Miễn thƣờng có khấu trừ và miễn thƣờng không
khấu trừ.
Trong chế độ bảo hiểm miễn thƣờng có khấu trừ tổn thất đƣợc bồi thƣờng
phải đảm bảo yêu cầu lớn hơn mức miễn thƣờng quy định nhƣng khi bồi thƣờng sẽ
bị trừ đi mức miễn giảm này.
Sè tiÒn båi th-êng;b¶o hiÓm
=
Gi¸ trÞ thiÖt h¹i;thùc tÕ
-
Møc miÔn;th-êng
Chế độ bảo hiểm miễn thƣờng không khấu trừ bảo đảm chi trả cho những
tổn thất vƣợt quá mức miễn thƣờng nhƣng số tiền bồi thƣờng không bị khấu trừ
theo mức miễn thƣờng:
Sè tiÒn båi th-êng;b¶o hiÓm =
Gi¸ trÞ thiÖt h¹i;thùc tÕ
Chế độ miễn thƣờng đƣợc áp dụng nhằm loại trừ các hao hụt tự nhiên
thƣơng mại thƣờng phát sinh trong quá trình chuyên chở đối với một số loại hàng
hoá đặc biệt ra khỏi trách nhiệm của ngƣời bảo hiểm. Tránh cho ngƣời bảo hiểm
phải bồi thƣờng những tổn thất quá nhỏ so với giá trị bảo hiểm đồng thời dành một
tỷ lệ không bồi thƣờng để bên đƣợc bảo hiểm cùng chịu trách nhiệm và có ý thức
hơn trong đề phòng hạn chế rủi ro.
- Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ
Trang 7
Có hai loại bảo hiểm đƣợc áp dụng: Tỷ lệ số tiền bảo hiểm/giá trị bảo hiểm
(STBH/GTBH) và tỷ lệ số phí đã nộp. Tỷ lệ STBH/STBH đƣợc áp dụng trong các
trƣờng hợp bảo hiểm dƣới giá trị:
Sè tiÒn;båi th-êng = Gi¸ trÞ thiÖt h¹i;thùc tÕ x Lỗi!
Còn trong trƣờng hợp có sự khai báo có sự khai báo không chính xác rủi ro,
bên bảo hiểm thƣờng áp dụng tỷ lệ thứ hai để thanh toán nếu chấp nhận bồi
thƣờng:
Sè tiÒn; båi th-êng = Gi¸ trÞ;thiÖt h¹i thùc tÕ x Lỗi!
- Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên:
Số tiền bồi thƣờng bảo hiểm đƣợc trả sẽ dựa vào số tiền bảo hiểm đƣợc thoả
thuận , tức là:
Số tiền bồi thƣờng số tiền bảo hiểm
2.2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản còn có các nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự nhƣ : bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới ,bảo hiểm TNDS của
chủ lao động , Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm , bảo hiểm trách nhiệm công cộng,
…Theo luật dân sự , trách nhiệm dân sự của một chủ thể ( nhƣ chủ tài sản, chủ
doanh nghiệp, chủ nghề nghiệp…) đƣợc hiểu là trách nhiệm phải bồi thƣờng các
thiệt hại về tài sản, về con ngƣời… gây ra cho ngƣời khác do lỗi của ngƣời chủ đó.
Trách nhiệm dân sự bao gồm trach nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm
dân sự ngoài hợp đồng. Thông thƣờng các dịch vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm
cho các trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
Vì đối tƣợng đƣợc bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của
ngƣời đƣợc bảo hiểm đối với ngƣời bị thiệt hại (một ngƣời thứ ba khác) nên trong
loại bảo hiểm này ngƣời đƣợc bảo hiểm là ngƣời có trách nhiệm dân sự cần đƣợc
bảo đảm và cũng thƣờng là ngƣời tham gia bảo hiểm. Còn ngƣời thụ hƣởng quyền
lợi bảo hiểm lại là những ngƣời thứ ba khác. Ngƣời thứ ba trong bảo hiểm trách
nhiệm dân sự là những ngƣời có tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo
hiểm và đƣợc quyền nhận bồi thƣờng từ ngƣời bảo hiểm với tƣ cách là ngƣời thụ
hƣởng. Ngƣời thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với ngƣời đƣợc bảo
hiểm nhƣng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với ngƣời bảo hiểm.
Trang 8
Cần chú ý trong một số nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự, ngƣời thụ
hƣởng có thể xác định cụ thể hơn tên gọi của nghiệp vụ. Ví dụ, đó là ngƣời lao
động gặp tai nạn lao động trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ lao dộng đối với
ngƣời lao động.
Mặc dù, đối tƣợng đƣợc bảo hiểm của loại bảo hiểm này là một khái niệm
trừu trƣợng khi hợp đồng đƣợc ký kết. Tuy vậy, trách nhiệm bồi thƣờng của bảo
hiểm vẫn căn cứ vào các thiệt hại thực tế xảy ra cho ngƣời thứ ba. Vì vậy, bảo
hiểm trách nhiệm dân sự cũng đƣợc coi là bảo hiểm thiệt hại nhƣ bảo hiểm tài sản
và cũng áp dụng một số nguyên tắc nhƣ: nguyên tắc bồi thƣờng, nguyên tắc thế
quyền hợp pháp.
2.3. Bảo hiểm con người phi nhân thọ
Mặc dù cũng là loại hình bảo hiểm con ngƣời, nhƣng bảo hiểm con ngƣời
phi nhân thọ trong BHTM có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
-
Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở đây
là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và sức khoẻ của con
ngƣời. Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện “sống” và “chết” trong bảo hiểm
nhân thọ và vì thế tính chất rủi ro đƣợc bộc lộ khá rõ còn tính chất tiết kiệm không
đƣợc thể hiện.
-
Ngƣời đƣợc bảo hiểm thƣờng đƣợc quy địn trong một khoảng tuổi nào
đó, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những có độ tuổi quá
thấp hoặc quá cao tình trạng rủi ro diễn biến phức tạp, xác suất rủi ro cao, việc
kiểm soát và quản lý rủi ro rất khó thực hiện. Chẳng hạn ở nƣớc ta, các công ty bảo
hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những em bé dƣới 12 tháng tuổi và những
ngƣời trên 65 tuổi. Nhƣng ở nƣớc Anh lại quy định khác, những đứa trẻ dƣới 3
tuổi và những ngƣời trên 65 tuổi không đƣợc các công ty bảo hiểm chấp nhận bảo
hiểm.
-
So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con ngƣời phi nhân thọ ngắn
hơn và thƣờng là 1 năm nhƣ: Bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện
phẫu thuật... Thậm chí có nghiệp vụ, thời hạn bảo hiểm chỉ trong vòng vài ngày,
phí bảo hiểm thƣờng đƣợc nộp 1 lần khi ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Trang 9
-
Các nghiệp vụ bảo hiểm con ngƣời phi nhân thọ thƣờng đƣợc triển khai
kết hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm.
Chẳng hạn: bảo hiểm tai nạn đƣợc lồng ghép trong bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp,
bảo hiểm tai nạn lái phụ xe đƣợc triển khai kết hợp với bảo hiểm trách nhiệm dân
sự và bảo hiểm vật chất thân xe trong trƣờng hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới v.v....
Việc triển khai kết hợp náy sẽ làm cho chi phí khai thác, chi phí quản lý.... của
công ty bảo hiểm giảm đi từ đó có điều kiện giảm phí bảo hiểm.
-
Ở hầu hết các nƣớc trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát triển
ngành bảo hiểm con ngƣời phi nhân thọ đƣợc triển khai, vừa rút kinh nghiệm, đến
khi điều kiện kinh tế - xã hội đã chín muồi mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân
thọ. Chính vì vậy, bảo hiểm con ngƣời phi nhân thọ đƣợc coi là loại hình bảo hiểm
bổ sung hữu hiệu nhất cho các loại hình BHXH, BHYT. Ở Việt Nam, hầu hết các
nghiệp vụ bảo hiểm con ngƣời phi nhân thọ đều ra đời trong những năm cuối thập
kỷ 80 và đầu thập kỷ 90,mãi đến năm 1996 mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân
thọ.
2.3.1. Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ
Bảo hiểm con ngƣời phi nhân thọ đƣợc triển khai rất đa dạng và linh hoạt tùy
theo tình hình cụ thể ở từng nƣớc và ngay trong phạm vi một nƣớc, cũng có sự
khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các công ty bảo hiểm về một số nội dung cơ bản
nhƣ: phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, thủ tục trả tiền bảo hiểm
v.v.... Điều này cũng thật dễ hiểu vì BHTM là hoạt động mang tính kinh doanh vì
mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên trong quá trình ký kết hợp đồng hoặc triển khai một
sản phẩm mới đều phải tuân thủ khung pháp lý của mỗi nƣớc. Vì thế nội dung của
phần này chỉ xin đƣợc đề cập đến một số nghiệp vụ chủ yếu mang tính phổ biến.
2.3.2 Bảo hiểm tai nạn con người 24/24.
Bảo hiểm tai nạn cong ngƣời 24/24 là một nghiệp vụ của BHTM mà ở đây,
nhà bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm cho ngƣời đƣợc bảo hiểm (hay ngƣời
đƣợc hƣởng quyền lợi bảo hiểm) khi ngƣời đƣợc bảo hiểm bị tai nạn thuộc phạm
vị bảo hiểm đổi lại ngƣời đƣợc bảo hiểm (hay ngƣời tham gia bảo hiểm) phải nộp
phí bảo hiểm khi họ ký kết hợp đồng.
2.3.3. Bảo hiểm tai nạn hành khách
Trang 10
Đã trở thành quy luật , khi nền kinh tế - xã hội ngay càng phát triển, nhu cầu
đi lại của nhân dân ngày càng tăng và lƣu lƣợng hành khách tham gai giao thông
ngày càng lớn. Kéo theo đó là số lƣợng các loại phƣơng tiện tham gia giao thông
cũng ngày càng gia tăng và hết sức đa dạng, phong phú. Mặc dù các loại phƣơng
tiện tham gia giao thông ngày càng đƣợc cải tiến và hiện đại, cơ sở hạ tầng giao
thông ngày càng đƣợc mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn giao thông
vẫn ngày một gia tăng đã làm ảnh hƣởng trực tiếp đến tính mạng và tình trạng sức
khoẻ của mọi hành khách. Theo số liệu thống kê trên thế giới, hàng năm có hơn
70% lƣợng hành khách tham gia giao thông đều là những ngƣời chủ chốt trong
trong gia đình, cơ quan và doanh nghiệp, mỗi khi tai nạn giao thông không may
đối với họ đã làm ảnh hƣởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi gia đình, ngƣời dân,
cơ quan, doanh nghiệp và toàn xã hội. Vì thế, bảo hiểm tai nạn hành khách ra đời
là hết sức cần thiết mà ở nhiều nƣớc trên thế giới đã đƣợc triển khai dƣới hình thức
bắt buộc.
2.3.4. Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
Các rủi ro ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị hoặc phẫu thuật thƣờng ít
ngƣời tránh khỏi. Khi tình trạng này diễn ra đã làm phát sinh các chi phí điều trị
và phẫu thuật, đồng thời còn làm ngƣời bệnh phải ngừng lao động hoặc mất khả
năng lao động. Trong khi đó, chi phí cho các dịch vụ khám chữa bệnh, điều trị và
phẫu thuật có xu hƣớng ngày càng tăng do kỹ thuật và phƣơng tiện chẩn đoán của
ngành y tế ngày càng tinh xảo và hiện đại, do các loại thuốc đặc trị ngày càng đƣợc
sử dụng phổ biến. Để đối phó với tình hình này, nhiều ngƣời đã tìm đến bảo hiểm
trợ cấp nằm viện phẫu thuật. Thực chất đây là loại hình bảo hiểm sức khoẻ, nhƣng
có phạm vi hẹp hơn, song nó đã mang lại lợi ích to lớn cho con ngƣời.
2.3.5. Bảo hiểm học sinh
Bảo hiểm trẻ em và bảo hiểm sinh viên đại học là những nghiệp vụ đƣợc
nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng. Đây là những nghiệp vụ bảo hiểm hỗn hợp cả
“tai nạn" và "ốm đau, bệnh tật". Còn bảo hiểm học sinh thực chất là sự kết hợp
giữa 2 nghiệp vụ, song thực tế triển khai ở nƣớc ta lại tỏ ra rất phù hợp và có hiệu
quả.
Trang 11
II. ĐẠI LÝ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1. Sự cần thiết và vai trò của đại lý khai thác bảo hiểm
1.1. Khái niệm
Theo thuật ngữ pháp lý, đại lý là ngƣời làm việc một ngƣời khác trên cơ sở
hợp đồng đại lý.
Theo thuật ngữ bảo hiểm, đại lý bảo hiểm là ngƣời làm việc cho doanh
nghiệp bảo hiểm, thay mặt doanh nghiệp bán cho các sản phẩm bảo hiểm cho
ngƣời mua.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam thì "ĐLBH là tổ chức, cá nhân
đƣợc doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền trên cơ sở hợp đồng ĐLBH để thực hiện
hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan" (Điều 84, chƣơng IV).
Hoạt động đại lý là phƣơng thức bán bảo hiểm theo đó đại lý chịu trách
nhiệm thu xếp việc ký kết các hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và
ngƣời mua bảo hiểm theo uỷ quyền của doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở hợp
đồng đại lý để đƣợc hƣởng hoa hồng bảo hiểm.
Đại lý bảo hiểm là những ngƣời hoặc tổ chức trung gian giữa doanh nghiệp
bảo hiểm và ngƣời tham gia bảo hiểm, đại diện cho doanh nghiệp và hoạt động vì
quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Đại lý có thể là các tổ chức ngân hàng hay
luật sƣ. Những tổ chức này làm đại lý bảo hiểm rất thuận lợi do có sự tiếp xúc với
nhiều khách hàng; đồng thời bảo hiểm là một dịch vụ bổ sung cho khách hàng của
họ. Đại lý có thể là một cá nhân hoạt động chuyên trách hoặc bán chuyên trách.
Đại lý bảo hiểm hoạt động tại văn phòng hoặc đi đến từng nhà, từng doanh
nghiệp để bán bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và đàm phán những thay đổi về nhu cầu
bảo hiểm của khách hàng thực tế và tiềm năng.
Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định về điều kiện hoạt động đại lý
bảo hiểm nhƣ sau:
a) Cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Là công dân Việt Nam thƣờng trú tại Việt Nam
- Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Trang 12
- Có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm hoặc Hiệp
hội bảo hiểm Việt Nam cấp.
b) Tổ chức hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Là tổ chức đƣợc thành lập và hoạt động hợp pháp
- Nhân viên trong tổ chức đại lý trực tiếp thực hiện hoạt động đại lý bảo
hiểm phải có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 điều này.
c) Ngƣời đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành
hình phạt tù hoặc bị Toà án tƣớc quyền hành nghề vi phạm các tội theo quy định
của pháp luật không đƣợc ký kết hoạt động đại lý bảo hiểm". (Điều 80, mục 1,
chƣơng IV).
Ngoài ra, doanh nghiệp bảo hiểm có thể quy định bổ sung các chỉ tiêu khác
để đảm bảo chất lƣợng và ràng buộc trách nhiệm của đại lý. Ví dụ, quy định về
kinh nghiệm hoặc sự thành công và ổn định trong các công việc cũ, bằng cấp, hình
dáng, khả năng giao tiếp, thái độ tích cực, tiền ký quỹ, thời gian học việc.. doanh
nghiệp bảo hiểm có thể không cho phép nhân viên của doanh nghiệp làm đại lý
cho chính mình; hoặc không cho phép tổ chức và cá nhân đƣợc đồng thời làm đại
lý cho doanh nghiệp bảo hiểm khác nếu không đƣợc sự chấp thuận của doanh
nghiệp bảo hiểm mà đại lý đang làm việc…
1.2. Phân loại đại lý bảo hiểm
Đại lý đƣợc phân loại theo các tiêu thức sau:
Căn cứ vào tƣ cách pháp lý, có hai loại đại lý là cá nhân và tổ chức. Cách
phân loại này giúp doanh nghiệp bảo hiểm quản lý tốt lực lƣợng bán hàng của
mình, đặc biệt là khâu tuyển dụng đại lý.
Căn cứ theo loại hình bảo hiểm và tính chất rủi ro, có hai loại đại lý là đại lý
bảo hiểm nhân thọ và đại lý bảo hiểm phi nhân thọ.
- Đại lý bảo hiểm nhân thọ: là ngƣời đƣợc doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
uỷ quyền thực hiện các hoạt động liên quan đến công việc khai thác bảo hiểm nhân
thọ, thu phí bảo hiểm và các hoạt động khác trong khuôn khổ về quyền và trách
nhiệm của đại lý đƣợc nêu trong hợp đồng đại lý.
- Đại lý bảo hiểm phi nhân thọ: là tổ chức hoặc cá nhân đƣợc doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ uỷ quyền thực hiện các hoạt động liên quan đến công việc
Trang 13
khai thác bảo hiểm phi nhân thọ, thu phí bảo hiểm và các hoạt động khác trong
khuôn khổ về quyền và trách nhiệm của đại lý đƣợc nêu trong hợp đồng đại lý.
Do đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cách phân loại này rất cần
thiết và đƣợc sử dụng phổ biến trên thị trƣờng bảo hiểm vì nó đáp ứng đƣợc yêu
cầu về marketing bảo hiểm, nhất là trong chính sách phân phối, đồng thời giúp
hoạt động quản lý đại lý đạt hiệu quả cao.
So với đại lý bảo hiểm phi nhân thọ thì đại lý bảo hiểm nhân thọ có số lƣợng
đông hơn, công tác quản lý đại lý phức tạp hơn, nhất là khâu tuyển dụng, đào tạo
và quản lý. Đồng thời, đại lý bảo hiểm nhân thọ đƣợc hƣởng quyền lợi nhiều hơn
do tính phức tạp của công việc và tính ổn định cao hơn…
Ngoài ra, còn có một số tiêu thức phân loại đại lý khác nhƣ: Căn cứ vào thƣ
bổ nhiệm, có đại lý giới thiệu dịchvụ và đại lý thu phí. Căn cứ theo trình độ chuyên
môn, có đại lý học việc và đại lý chính thức. Căn cứ theo phạm vi hoạt động của
đại lý, có đại lý phụ thuộc và đại lý độc lập…
Đối với đại lý bảo hiểm nhân thọ, có nhiều cách phân loại: Căn cứ theo
phạm vi quyền hạn, có đại lý toàn quyền, tổng đại lý và đại lý uỷ quyền. Căn cứ
theo thời gian hoạt động, có đại lý chuyên nghiệp và đại lý bán chuyên nghiệp.
Căn cứ theo nhiệm vụ chủ yếu, có đại lý chuyên khai thác và đai lý chuyên thu…
Việc phân loại này giúp doanh nghiệp bảo hiểm quản lý tốt mạng lƣới đại lý và
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
2. Vai trò của đại lý bảo hiểm
- Đối với doanh nghiệp bảo hiểm: Đại lý là lực lƣợng tiếp thị có hiệu quả
nhất, giúp doanh nghiệp bán sản phẩm. Thông qua bán hàng, đại lý giải thích cho
khách hàng tiềm năng những điều họ chƣa biết hoặc chƣa rõ về sản phẩm cũng
nhƣ thƣơng hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm.
Đại lý cũng là ngƣời trực tiếp nhận các thông tin phản hồi về sản phẩm bảo
hiểm từ phía khách hàng. Vì vậy những ý kiến họ đóng góp với doanh nghiệp bảo
hiểm về các vấn đề chính sách sản phẩm, phát hàh và quản lý hợp đồng… rất có
giá trị thực tế, giúp doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu, điều chỉnh kịp thời để
nâng cao tính cạnh tranh.
Trang 14
- Đối với khách hàng: Đại lý là ngƣời trực tiếp tiếp xúc với khách hàng.
Thay vì ngƣời mua phải tự tìm hiểu về bảo hiểm thì đại lý sẽ làm công việc này.
Nhƣ vậy, sẽ giúp khách hàng tiết kiệm thời gian về tiền của.
- Đối với xã hội: Đại lý là ngƣời cung cấp dịch vụ cho xã hội, mang đến sự
đảm bảo cho mỗi cá nhân, tổ chức và gia đình và sự yên tâm cho những ngƣời có
trách nhiệm trong gia đình. Do vậy, xét trên một khía cạnh nào đó, đại lý bảo hiểm
còn góp phần đảm bảo an toàn cho xã hội.
3. Các nhiệm vụ chính của đại lý bảo hiểm
a. Tư vấn cho khách hàng ký hợp đồng bảo hiểm
Sau khi xác định đƣợc nhu cầu của khách hàng thì giới thiệu, đƣa ra các
nghiệp vụ bảo hiểm thích hợp, và giới thiệu luôn về công ty, doanh nghiệp bảo
hiểm của mình nhƣ: khả nƣng tài chính trách nhiệm vị thế, uy tín, địa chỉ, các vấn
đề có liên quan. Sau đó giải thích rõ quyền lợi và nghĩa vụ của khách hàng khi
tham gia loại hình bảo hiểm. Khi đƣợc sự đồng ý của khách hàng tham gia bảo
hiểm thì hƣớng dẫn họ các thủ tục và đánh giá những rủi ro ban đầu để kê khai
trung thực về các yếu tố cần thiết. Khi chấp nhận bảo hểm đồng thời thu phí bảo
hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm) và theo dõi.
b. Theo dõi giúp đỡ khách hàng và tái tục hợp đồng bảo hiểm
Các hợp đồng bảo hiểm có thời hạn ngắn, dài tuỳ thuộc vào ngƣời tham gia
bảo hiểm theo các loạ hình bảo hiểm khác nhau. Nhƣng khi cấp đơn bảo hiểm
xong còn phải tiếp tục quan hệ giao tiếp, theo dõi khách hàng để nhằm giúp đỡ
khách hàng khi cần thiết và từ mối quan hệ thƣờng xuyên này káhch hàng sẽ giới
thiệu giúp đại lý bảo hiểm mở mang thêm các khách hàng khác, cũng nhƣ giúp
công ty bảo hiểm phát triển. Đại lý nhận thông tin hai chiều từ khách hàng - đại lý
- Công ty bảo hiểm sẽ giúp các hợp đồng bảo hiểm đạt kết quả trong theo dõi phuc
vụ đồng thời tạo sự tin cậy và uy tín cho việc tái tục hợp đồng khi đến thời gian
đáo hạn.
c. Chấp hành các nội quy và quy định của công ty bảo hiểm
Bảo hiểm là một nghề kinh doanh dịch vụ đặc biệt do vậy nội quy, quy định
quản lý về nghiệp vụ, quản lý về tài chính đòi hỏi mỗi đại lý phải thực hiện nghiêm
túc nhƣ: Thu nộp phí bảo hiểm, hoá đơn, giấy chứng nhận bảo hiểm phải thực hiện
Trang 15
nộp đúng đủ, đúng địa điểm thời gian quy định, việc quản lý hoá đơn ấn chỉ bảo
hiểm đúng nguyên tắc, hoá đơn thu phí cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn
bảo hiểm không để hƣ hỏng mất mát. Thực hiện đầy đủ việc báo cáo thống kê
nghiệp vụ tài chính theo quy định.
d. Tham gia đầy đủ các buổi tập huấn nghiệp vụ
Việc tham gia này là để giúp cho đại lý nắm đƣợc các thông tin trang bị kiến
thức mới về nghiệp vụ, các kinh nghiệm trong quản lý mới của công ty để góp
phần nâng cao trình độ năng lực khai thác và các nghiệp vụ khác của đại lý. Đặc
biệt tăng cƣờng khả năng giao tiếp mở rộng các khách hàng.
4. Quyền lợi của đại lý bảo hiểm
a. Đại lý đƣợc đào tạo cơ bản và nâng cao theo các chƣơng trình đào tạo
bảo hiểm cấp 1 và đào tạo các khoá học cao hơn: Đại lý cấp 2, đào tạo về quản lý
đại lý, đào tạo về marketing.
b. Đƣợc hƣởng chế độ hỗ trợ trong thời gian học nghề và các chế độ phúc
lợi. Thời gian học nghề thƣờng là 3 tháng hoặc ngắn hơn. Đại lý sẽ đƣợc hƣởng trợ
cấp học nghề trong thời gian học nghề. Trong thời gian học nghề nếu đại lý thực
tập đi khai thác bảo hiểm đem lại doanh thu cho công ty thì đƣợc hƣởng nguyên
100% hoa hồng các nghiệp vụ theo quy định của Bộ Tài chính.
c. Đƣợc xem xét khen thƣởng khi có thành tích trong quá trình khai thác:
Bằng hiện vật hoặc các giấy khen, bằng khen các cấp, đƣợc hƣởng chế độ tham
quan, nghỉ mát du lịch…
d. Đƣợc thăng tiến trong nghề nghiệp: Phụ thuộc vào khả năng phấn đấu và
tinh thần trách nhiệm của cá nhân đại lý thì đƣợc bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh
đạo đại lý: Tổ trƣởng, tổ phó, trƣởng phòng hoặc phó trƣởng phòng đại lý.
e. Đƣợc tham gia sinh hoạt vào các tổ chức đoàn thể nhƣ: Đoàn thanh niên,
công đoàn, nữ công và tham gia các sinh hoạt văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao.
f. Đƣợc hƣởng một số các quyền lợi khác nhƣ: Chủ động quyết định trong
các công việc bảo hiểm mà mình đƣợc giao, có thu nhập không bị giới hạn.
III. PHÂN BIỆT GIỮA ĐẠI LÝ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VỚI ĐẠI LÝ
BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Trang 16
Dựa vào tính đặc trƣng cơ bản của bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân
thọ mà đại lý bảo hiểm phi nhân thọ và đại lý bảo hiểm nhân thọ cũng có những
hình thức hoạt động, tiếp xúc khách hàng thu phí bảo hiểm, theo dõi, thụ lý hồ sơ
giải quyết bồi thƣờng cũng có khác nhau.
- Đại lý bảo hiểm nhân thọ: một loại hình bảo hiểm qua đó Công ty bảo
hiểm cam kết sẽ trả một số tiền theo thoả thuận ghi trong hợp đồng, khi có sự kiện
bảo hiểm nhƣ quy định trong hợp đồng xảy ra liên quan đến sinh mạng và sức
khoẻ con ngƣời nhƣ sống đến thời hạn nhất định, ốm đau, thƣơng tật, nằm viện,
chi phí chăm sóc, chết do mọi nguyên nhân. Hoạt động của đại lý chủ yếu là hoạt
động cá nhân riêng lẻ. Phí bảo hiểm theo tháng, quý, năm, 1 vài năm… hoặc cả
hợp đồng bảo hiểm. Phí bảo hiểm nhân thọ không thay đổi trong suốt quá trình của
hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực. Các hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực. Các hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ là dài hạn, trung hạn… không có ngắn hạn: 1 vài ngày,
vài tháng, 1 năm… Nên khách hàng phải có tài chính ổn định thƣờng xuyên. Đồng
thời khi tham gia loại hình bảo hiểm này ngƣời ta có thể hiểu đƣợc nhƣ là một hình
thức tiết kiệm tiền, có lãi, và đƣợc bảo hiểm theo một số điều khoản cam kết, kết
thúc hợp đồng sẽ nhận đƣợc tiền của mình đóng góp vào. Đại lý bảo hiểm nhân thọ
sẽ thu phí định kỳ: tháng, quý, năm… ổn định theo thoả thuận đã cam kết.
Nhƣng đại lý bảo hiểm phi nhân thọ có tính chất hoạt động khác hơn: vì bán
sản phẩm bảo hiểm là vô hình ngƣời mua không dễ gì cảm nhận đƣợc sản phẩm
mình định mua nhƣ: chất lƣợng, độ bền… yêu cầu đại lý có tính chuyên nghiệp
cao, gây lòng tin. Hợp đồng bảo hiểm cam kết chỉ khi nào xảy ra sự kiện bảo hiểm
thì khách hàng mới đƣợc hƣởng quyền lợi bảo hiểm. Còn không xảy ra thì không
đƣợc hƣởng.
Phí bảo hiểm phi nhân thọ đƣợc tính theo thời hạn bảo hiểm thƣờng là 1
năm, 1 vài ngày, từng chuyến hàng. Đối tƣợng tham gia bảo hiểm có thể là tổ
chức, cá nhân. Phí có thể thay đổi không cố định, có thể thay đổi của các năm tiếp
theo nhƣ có sự thay đổi các điều kiện bảo hiểm, phụ thuộc vào mức độ rủi ro. Nếu
ngƣời tham gia bảo hiểm giới hạn phạm vi bảo hiểm vào 1 vài rủi ro không tham
gia bảo hiểm thì bảo hiểm sẽ xem xét giảm bớt phí và ngƣợc lại, nếu mở rộng
phạm vi bảo hiểm thêm một số rủi ro phụ khác thì phí bảo hiểm sẽ tăng lên.
Trang 17
Các nghiệp vụ bảo hiểm khác nhƣ: tài sản, trách nhiệm dân sự giữa ngƣời
bảo hiểm - ngƣời đƣợc bảo hiểm và đối với ngƣời thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo
hiểm thì đều có mối quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm bồi thƣờng những thiệt
hại.
Trang 18
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC CỦA ĐẠI LÝ BẢO HIỂM TẠI
CÔNG TY BẢO HIỂM PHÚ THỌ
I. VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM PHÚ THỌ
1. Lịch sử hình thành Công ty bảo hiểm Phú Thọ
Công ty bảo hiểm Phú Thọ thành lập vào cuối năm 1980, bắt đầu hoạt động
năm 1981 thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh trên lĩnh vực Bảo hiểm nhằm góp
phần vào sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phƣơng.
Với hơn 25 năm hoạt động Bảo hiểm Phú Thọ đã đạt đƣợc những kết quả
nhƣ sau:
1.1. Phát triển nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu Bảo hiểm của đời sống và sản
phẩm, phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước
Từ khi mới thành lập Công ty Bảo hiểm Phú Thọ tiến hành 2 nghiệp vụ bảo
hiểm là Bảo hiểm tai nạn hành khách đi lại trên các phƣơng tiện vận tải công cộng
và Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với ngƣời thứ 3 với doanh
thu còn rất nhỏ bé, khả năng tài chính còn chƣa vững chắc, tầm phục vụ còn hạn
hẹp. Đến những năm gần đây, khi nƣớc ta chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, các
doanh nghiệp Nhà nƣớc đƣợc giao vốn, tự chủ về tài chính, đầu tƣ nƣớc ngoài vào
Việt Nam gia tăng, đời sống nhân dân không ngừng đƣợc cải thiện, Bảo Việt Phú
Thọ đã phát triển thêm nhiều loại hình Bảo hiểm mới, phục vụ nhu cầu của sản
xuất và đời sống của nhân dân.
Cuối năm 1996 Bảo Việt Phú Thọ bắt đầu đƣa các loại hình bảo hiểm nhân
thọ lần đầu tiên phục vụ nhu cầu Bảo hiểm của nhân dân. Đến nay Bảo hiểm nhân
thọ đã phát triển nhanh chóng và đƣợc nhiều ngƣời dân trong tỉnh quan tâm, tham
gia.
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn
nhà nƣớc, Bảo Việt còn tiến hành một số nghiệp vụ nhằm thực hiện nhiệm vụ
chính trị của nhà nƣớc nhƣ: Bảo hiểm cây lúa, cây công nghhiệp, vật nuôi, bảo
hiểm lao động cho ngƣời nông dân, bảo hiểm học sinh…
Trang 19
Đến năm 2000 cùng với chủ trƣơng của Tổng Công ty và sự phát triển lớn
mạnh, Công ty Bảo hiểm Phú Thọ đã tách ra thành hai Công ty; Công ty bảo hiểm
Nhân Thọ hoạt động trên lĩnh vực nhân thọ và Công ty Bảo hiểm Phú Thọ hoạt
dộng trên lĩnh vực phi nhân thọ.
Đến nay Bảo Việt Phú Thọ tiến hành trên các nghiệp vụ Bảo hiểm thuộc hầu
hết các lĩnh vực khác nhau nhƣ: Bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con ngƣời và bảo hiểm
trách nhiệm.
1.2. Các nghiệp vụ bảo hiểm chính
Bao gồm:
- Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và vận chuyển nội địa
- Bảo hiểm thân tàu (tàu biển, tàu sông, tàu đánh cá)
- Bảo hiểm trách nhiệm các chủ xe cơ giới và thân xe
- Bảo hiểm thuỷ thủ thuyền viên
- Bảo hiểm tai nạn hành khách
- Bảo hiểm tai nạn lái xe và phụ xe và ngƣời ngồi trên xe
- Bảo hiểm tai nạn khách du lịch
- Bảo hiểm tai nạn con ngƣời kết hợp 03 điều kiện : A, B,C
- Bảo hiểm toàn diện học sinh
- Bảo hiểm cho ngƣời đình sản
- Bảo hiểm xây dựng lắp đặt
- Bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt
- Bảo hiểm trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động
- Các loại bảo hiểm khác.
Tóm lại: Mọi nhu cầu bảo hiểm của các tầng lớp dân cƣ, các thành phần
kinh tế, các chủ đầu tƣ nƣớc ngoài đề đƣợc Bảo Việt Phú Thọ đáp ứng bằng các
hình thức bảo hiểm thích hợp góp phần quan trọng vào việc phát triển thị trƣờng
bảo hiểm ở Việt Nam.
1.3. Cung cấp nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, mang lại hiệu quả kinh
tế cao
Từ các quỹ dự phòng Bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi, Bảo Việt đã đầu tƣ trở lại
cho nền kinh tế hàng ngàn tỷ đồng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trang 20
- Xem thêm -