ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HÂN
BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO VÀ AN TOÀN CÁ NHÂN BẰNG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HÂN
BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO VÀ AN TOÀN CÁ NHÂN BẰNG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn bảo đảm tính chính xác,
trung thực, tin cậy. Tôi đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Hân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................... 1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền tự
do và an toàn cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự .................................................. 7
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp
luật tố tụng hình sự ................................................................................................................... 7
1.1.1 Khái niệm quyền tự do và an toàn cá nhân trong hệ thống các Quyền con
người……………………………………………………………………………………7
1.1.2. Khái niệm quyền tự do và an toàn cá nhân trong pháp luật tố tụng hình sự……11
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp luật
tố tụng hình sự………………………………………………………………………….14
1.1.4. Ý nghĩa của bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình
sự……………………………………………………………………………………… 17
1.2. Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp luật tố
tụng hình sự ............................................................................................................................. 20
1.2.1. Một số văn bản pháp lý quốc tế về bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng
pháp luật tố tụng hình sự ....................................................................................................... 20
1.2.2. Pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới về bảo đảm quyền tự do
và an toàn cá nhân .................................................................................................................. 25
Chương 2: Bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam và thực tiễn thi hành .................................................................................... 31
2.1. Bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam..31
2.1.1. Bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân trong giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 .................................. 31
2.1.2. Bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân trong giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự 2015........ 34
2.1.3. Bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015........ 43
2.1.3.1. Quy định liên quan đến việc bất khả xâm phạm về thân thể, không bị bắt, giam,
giữ trái pháp luật..................................................................................................................... 44
2.1.3.2. Quy định liên quan đến việc bảo đảm cá nhân không bị tra tấn, đối xử, trừng
phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục .............................................................................. 52
2.1.3.3. Quy định liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa của cá nhân.................. 56
2.1.3.4. Quy định liên quan đến việc bảo đảm xét xử công bằng………………………59
2.2. Thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự
do và an toàn cá nhân ............................................................................................................. 67
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam nhằm đảm bảo quyền tự do và
an toàn cá nhân ..................................................................................................................... 73
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nhằm bảo đảm
quyền tự do và an toàn cá nhân............................................................................................. 73
3.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam nhằm đảm bảo
quyền tự do và an toàn cá nhân............................................................................................. 74
3.2.1. Hoàn thiện quy định liên quan đến việc bất khả xâm phạm về thân thể, không bị
bắt, giam, giữ trái pháp luật................................................................................................... 75
3.2.2. Hoàn thiện quy định liên quan đến quyền bào chữa .............................................. 83
3.2.3. Hoàn thiện quy định liên quan đến vấn đề xét xử công bằng ............................... 88
3.2.4. Hoàn thiện quy định khác có liên quan .................................................................... 90
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự Việt Nam nhằm đảm bảo quyền tự do và an toàn cá nhân ........................................... 93
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 97
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội dân chủ, quyền con người nói chung, quyền tự do và an toàn cá nhân
nói riêng luôn được xác định là những giá trị chung được toàn nhân loại thừa nhận, nó
luôn giữ vị trí thượng tôn và được pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của từng quốc
gia ghi nhận, bảo vệ. Điều này được khẳng định trong các văn kiện quốc tế về quyền con
người như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR); Công ước quốc tế về
các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR), trong đó nhấn mạnh: mọi người đều có
quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự, có thể thấy rằng, vấn đề bảo đảm quyền
con người nói chung, quyền tự do và an toàn cá nhân nói riêng mang nhiều yếu tố đặc
thù bởi vấn đề này sẽ được tiến hành đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là những người đang bị tình nghi là đã thực
hiện hành vi phạm tội.
Tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nhà làm luật đã bổ sung thêm nhiều điểm
mới đột phá có liên quan tới việc bảo đảm các quyền con người nói chung, quyền tự do
và an toàn cá nhân nói riêng như: i) sửa đổi, bổ sung một số nguyên tắc cơ bản của tố
tụng hình sự: nguyên tắc suy đoán vô tội; không ai bị kết án hai lần vì một tội danh, tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm; quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính
mình hoặc buộc phải nhận mình có tội...; ii) hoàn thiện về tổ chức bộ máy, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng
như người tham gia tố tụng khi quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan
tố tụng, tăng quyền, tăng trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, quy
định bắt buộc phải ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can tại nơi giam
giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra… Đây được coi là những điểm mới quan trọng tại Bộ luật Tố tụng hình sự
1
2015, là cơ sở pháp lý nhẳm giải quyết đúng đắn, khách quan, công bằng vụ án hình sự,
đồng thời, thể hiện bước nhảy mới của nước ta trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa khi các nhà làm luật ngày càng thể chế hóa sâu rộng hơn những
chính sách pháp luật tố tụng hình sự được nêu tại các Nghị quyết của Đảng và phản ánh
chủ trương, đường lối thống nhất của Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền con người
nói chung, quyền tự do và an toàn cá nhân nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong thực tiễn vấn đề quyền con
người nói chung và quyền tự do, an toàn cá nhân nói riêng của người bị buộc tội vẫn
đang bị xâm phạm, vẫn còn đó những vụ án có dấu hiệu bức cung, dùng nhục hình; tình
trạng làm oan người vô tội; sự sai phạm trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn
chặn… vẫn chưa thuyên giảm nhiều. Thực trạng này đã và đang gây nên bức xúc lớn
trong dư luận, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần có những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động thực thi pháp luật nói chung, hoạt động tư pháp hình sự nói
riêng nhằm bảo đảm pháp chế, công bằng xã hội cũng như bảo đảm quyền và lợi ích của
công dân.
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề “Bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” dưới góc độ một đề tài khoa học rõ ràng có ý
nghĩa cấp bách và cần thiết trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quyền tự do và an toàn cá nhân của con người trong tố tụng hình sự thì đây
không phải là một nội dung hoàn toàn mới trong khoa học pháp lý, nhưng so với các đề tài
khác như chế định các nguyên tắc cơ bản, các giai đoạn tố tụng hình sự... thì quyền tư do và
an toàn cá nhân vẫn còn là một đề tài chưa có nhiều khai phá, chưa có nhiều sản phẩm
nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp, thay vào đó đa phần các học giả mới chỉ thể hiện sự quan
tâm của mình đối với đề tài này một cách gián tiếp thông qua các chủ đề có liên quan.
2
Qua tìm hiểu, hiện nay có một số giáo trình, bài viết, nghiên cứu, luận văn thạc
sĩ, sách chuyên khảo…đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề này như sau:
Dưới góc độ sách chuyên khảo, giáo trình:
- TS. Trịnh Tiến Việt chủ biên (2015), Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng
pháp luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- TS. Trịnh Tiến Việt (2012), Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
oan, sai và các giải pháp phòng, chống nhìn từ góc độ cải cách tư pháp, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 3, 4/2012;
- Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Hỏi đáp về quyền con người,
Nxb Hồng Đức;
- Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2010), Bảo đảm quyền con người trong tư pháp
hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh;
- GS. TS. Nguyễn Đăng Dung, TS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng (đồng
chủ biên) (2010), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người và cuốn sách
nhiều tập “Quyền con người” của GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 2010.
Dưới góc độ công trình nghiên cứu, luận văn, luận án:
- GS.TSKH Lê Cảm chủ trì (2013), Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà
Nội, Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng
hoàn thiện pháp luật, Hà Nội.
-
Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình, bảo vệ tại Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2011;
Dưới góc độ các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành
3
-
“Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự” của PGS. TS.
Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 23(2)/2009;
v.v...
Có thể thấy rằng, liên quan tới vấn đề bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân
bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
nói riêng, hiện nay đang có rất ít các công trình nghiên cứu một cách trực tiếp, đầy đủ về
vấn đề này.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: quyền tự do và an toàn cá nhân, bảo đảm
quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự do và an
toàn cá nhân như: khái niệm, nội dung của quyền tự do và an toàn cá nhân; khái niệm
bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự, ý nghĩa của việc
bảo đảm quyền tự do, an toàn cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự, quy định của pháp
luật quốc tế, pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới và đặc biệt là pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này…Ngoài ra, Luận văn kết hợp với phân tích thực
tiễn thi hành, nêu hạn chế và nguyên nhân của hạn chế để làm cơ sở đưa ra giải pháp
hoàn thiện.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống
tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử, lý
luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học và triết
4
học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và
các bài viết đăng trên tạp chí trong nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra, tôi đã sử
dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin, dựa trên đường lối
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách kinh tế - xã hội và các nội dung khác
có liên quan.
Trong những trường hợp cụ thể, tôi kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu
phù hợp như thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích…nhằm kết hợp nhuần nhuyễn giữa
kiến thức lý luận và thực tiễn để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là một công trình khoa học ở cấp thạc sĩ luật học đề cập một cách chuyên
sâu, đầy đủ và toàn diện vấn đề lý luận, thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam có liên quan tới vấn đề bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân.
Trên cơ sở nghiên cứu tác giả sẽ đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
cũng như những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng chúng trong thực tiễn nhằm
bảo đảm hơn nữa quyền tự do và an toàn cá nhân. Luận văn góp phần hoàn thiện về mặt
lý luận khoa học cho đề tài nghiên cứu, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham khảo có thể
được sử dụng để nghiên cứu, học tập, đồng thời cung cấp những luận cứ khoa học phục
vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn của các cơ quan có thẩm quyền, qua đó
góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội này trong giai đoạn
hiện nay.
5
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết thúc, kết quả luận văn bao gồm các nội dung sau đây:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền tự do
và an toàn cá nhân trong pháp luật tố tụng hình sự.
Chương 2: Bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự việt nam nhằm đảm bảo quyền tự do và an
toàn cá nhân.
6
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và pháp luật quốc tế về bảo đảm
quyền tự do và an toàn cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân
bằng pháp luật tố tụng hình sự
1.1.1 Khái niệm quyền tự do và an toàn cá nhân trong hệ thống các Quyền
con người
“Quyền con người” (theo tiếng thuần Việt) hay còn gọi là “Nhân quyền” (theo
Hán – Việt) [50, tr.1239]. Trong khoa học pháp lý có đến gần 50 định nghĩa khác nhau
về quyền con người đã được công bố, mỗi định nghĩa lại tiếp cận vấn đề dưới một góc
độ nhất định, nhưng tựu chung lại thì hầu như tất cả các định nghĩa ấy đều chưa bao hàm
được toàn bộ các thuộc tính của quyền con người [12, tr.37]. Theo định nghĩa của Văn
phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR): “Quyền con người là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do
cơ bản của con người” [43, tr.100]. Đây là định nghĩa thường được trích dẫn bởi các nhà
nghiên cứu và nó được nhìn nhận dưới khía cạnh pháp lý. Xuất phát từ định nghĩa này
có thể hiểu quyền con người được bảo đảm trên phạm vi toàn cầu, không có giới hạn về
mặt không gian địa lý, nó là cơ sở pháp lý vững chắc để đấu tranh lại với những hành
động có tính chất xâm hại tới quyền con người.
Do quyền con người có phạm vi và nội dung rất rộng nên thường được chia thành
các nhóm theo những tiêu chí khác nhau (theo lĩnh vực, chủ thể, nguồn gốc, mức độ pháp
điển hóa, phương thức bảo đảm, điều kiện hưởng thụ, sự thừa nhận, giới hạn áp dụng).
Theo lĩnh vực của đời sống nhân loại, quyền con người được phân thành hai nhóm chính:
các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.
Các quyền chính trị bao gồm: quyền tham gia quản lý Nhà nước và thảo luận các
vấn đề chung của cả nước, quyền bầu cử và ứng cử, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do
7
báo chí, tự do tín ngưỡng, quyền lập hội, quyền được thông tin, quyền biểu tình, quyền
bình đẳng nam nữ, quyền khiếu nại, tố cáo v.v…;
Các quyền dân sự (các quyền tự do cá nhân) bao gồm quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, về chỗ ở, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự, quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín, quyền tự
do đi lại và cư trú v.v…;
Các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm quyền học tập, lao động, quyền tự do
kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền phát minh, sáng chế, quyền được bảo
vệ sức khỏe, quyền được bảo hộ về hôn nhân, gia đình, các quyền của các đối tượng đặc
biệt như thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người già, trẻ em, người tàn tật không
nơi nương tựa v.v…
Xét riêng đối với quyền tự do (đặc biệt là tự do thân thể) và an toàn cá nhân, đây
là quyền dân sự chính trị vô cùng quan trọng. Có tự do thân thể, cá nhân con người mới
có thể có được một cuộc sống bình thường trong môi trường xã hội để học tập, lao
động, kinh doanh và tiến hành các hoạt động xã hội khác. Tự do nói chung, tự do thân
thể nói riêng và an toàn cá nhân là một trong những quyền cơ bản của con người. Điều
3 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của Liên Hợp quốc khẳng đị nh:
“Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân ” [24, tr.48]. Sau đó,
khoản 1 Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên
Hợp quốc tiếp tục quy định: “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân.
Không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ. Không một ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp
có lý do và phải theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định ” [24, tr.81]. Như
vậy, bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân của con người là trách nhiệm của Nhà
nước qua việc ban hành những quy định pháp luật đúng đắn và bảo đảm thực thi có
hiệu quả những quy định đó trên thực tế.
Thứ nhất về quyền “Tự do cá nhân”
8
Có nhiều khái niệm về tự do (freedom), tuy nhiên có thể hiểu một cách khái quát
“tự do” là tình trạng một cá nhân có thể và có khả năng hành động theo ý chí, nguyện
vọng của mình, phù hợp với các quy phạm pháp lý và đạo đức trong một xã hội dân chủ.
Tự do thường được phân thành tự do chủ động (positive freedom) và tự do thụ động
(negative freedom). Tự do chủ động là tự do của cá nhân nhằm để đạt được mục tiêu cụ
thể nào đó (ví dụ như tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp…). Tự do thụ động là tự
do của cá nhân khỏi bị các chủ thể khác xâm phạm đến (như tự do thân thể…).
Quyền tự do cá nhân không được các văn kiện pháp lý quốc tế định nghĩa mà chủ
yếu được giải thích trong thực tiễn áp dụng. Mạng lưới chuyên gia độc lập của Liên minh
Châu Âu về các quyền cơ bản giải thích về quyền này như sau: Quyền tự do cá nhân, chỉ
liên quan đến một khía cạnh rất cụ thể của quyền tự do của con người, tự do di chuyển cơ
thể theo nghĩa hẹp trong việc bắt bớ và giam giữ. Tất cả các hình thức ít nghiêm
trọng khác hạn chế về tự do di chuyển của cơ thể, chẳng hạn như quản chế hoặc cấm cư
trú, trục xuất, lưu vong, lệnh giới nghiêm hoặc sự giám sát đối với các tù nhân được
phóng thích không thuộc phạm vi của quyền tự do.
Như vậy, quyền tự do cá nhân tức là quyền được bảo hộ khỏi bị bắt, giam hoặc
làm tội một cách vô lý. Do đó, tự do cá nhân không hướng tới lý tưởng về một xã hội
không có nhà tù, trại giam mà chỉ hướng tới một sự bảo đảm về mặt thủ tục. Quyền tự
do cá nhân không phủ nhận chính việc tước quyền tự do cá nhân mà chỉ phản đối việc
bắt giữ và giam cầm một cách tùy tiện.
Tóm lại, khái niệm quyền tự do cá nhân cần được hiểu là quyền tự do về thân
thể con người, được bảo đảm khỏi việc bắt giữ một cách tùy tiện. Pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam cũng đã thực hiện tinh thần đó trên nguyên tắc: “Không ai bị bắt, nếu
không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường
hợp phạm tội quả tang…” và “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa
có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”.
9
Thứ hai, về quyền “An toàn (an ninh) cá nhân”
“An toàn (an ninh)” trong tiếng Anh gọi là security và có hàm ý là mức độ an toàn
(safety) cao nhất cho chủ thể. Trong tất cả các văn bản pháp lý về quyền con người,
định nghĩa pháp lí về quyền an toàn cá nhân chưa được ghi nhận. Tại khoản 1 Điều 9
trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966, quyền an toàn cá nhân
có thể khiến cho nhiều người nghĩ rằng quyền này chỉ liên quan đến việc bị bắt và giam
giữ. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các điều khoản còn lại trong Công ước này cùng với
các văn bản pháp lý khác về quyền con người thì nhận thấy rằng, quyền an toàn cá nhân
không chỉ thu hẹp ở giới hạn quyền được bảo vệ khỏi bắt và giam giữ tùy tiện mà nó
còn được thể hiện trên những phương diện các quyền sau:
- Quyền được bảo vệ sự riêng tư.
- Quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục.
- Quyền về xét xử công bằng bao gồm một số quyền như sau: Quyền được xét
xử công bằng và công khai bởi một Tòa án có thẩm quyền; quyền không bị xét xử hai
lần về cùng một hành vi; quyền được thông báo lời buộc tội không chậm trễ, được sử
dụng và hỗ trợ sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong tố tụng; quyền có mặt khi xét xử,
được bào chữa và được sự trợ giúp của luật sư ngay khi bị bắt hoặc bị giam giữ; quyền
suy đoán vô tội; quyền được xét xử trong thời gian hợp lí mà không bị trì hoãn; quyền
được kháng cáo; quyền được bồi thường thiệt hại trong trường hợp oan.
Về mặt khoa học pháp lý, hiện nay có rất ít những nghiên cứu cụ thể đưa ra được
khái niệm về quyền an toàn (an ninh) cá nhân. Khi nói về tự do và an ninh cá nhân, TS.
Trịnh Tiến Việt đã cho rằng: Tự do và an ninh cá nhân là quyền cơ bản của con người,
phản ánh trạng thái tồn tại của con người trong đó mỗi cá nhân được bảo đảm về mặt
pháp lý cho sự bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tự do
thân thể của họ. Như vậy, xét riêng về khái niệm quyền an toàn (an ninh) cá nhân, chúng
ta có thể hiểu như sau: Quyền an toàn cá nhân là quyền của một người được pháp
10
luật bảo hộ để chống lại những hình thức xâm phạm/đe dọa xâm phạm đến sức
khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người đó.
Tự do và an toàn (an ninh) cá nhân đều là những quyền cơ bản quan trọng của con
người. Tự do là nền tảng và xuất phát điểm của an toàn cá nhân, an toàn cá nhân là một
trong những hệ quả mà cá nhân (con người) có được do tự do mang lại. Tự do không
mang lại an toàn (an ninh) mà an toàn (an ninh) mới mang lại tự do. Vì thế được bảo đảm
về an toàn (an ninh) thì lúc đó con người mới tự do thực sự. Ngược lại, tự do thân thể,
không bị bắt giữ, giam cầm, tù đầy nhưng con người lại bị tấn công, hành hung, bạo hành
thì không phải là có tự do thực sự. Nói như học giả người Anh, J.E.S. Fawcett: “Tự do cá
nhân theo nghĩa gốc, tức là sự tự do thể chất của con người... Quyền an ninh cá nhân, mặt
khác, là quyền được pháp luật bảo vệ trong việc thực hiện các quyền tự do” [45, tr.286].
Như vậy, trong khi quyền tự do cá nhân là điều kiện thiết yếu để có được tất cả các quyền
và tự do khác thì quyền an toàn (an ninh) cá nhân là yếu tố bảo đảm cho các quyền, tự do
(bao gồm cả tự do cá nhân) được thực hiện.
Tóm lại, khái niệm quyền tự do và an toàn (an ninh) cá nhân của con người có thể
được hiểu như sau: Tự do và an toàn (an ninh) cá nhân là quyền cơ bản của con người,
phản ánh trạng thái tồn tại của con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều được hệ
thống pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế bảo hộ nhằm chống lại sự xâm
phạm/đe dọa xâm phạm về tự do, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm một cách
thiếu căn cứ, sai trình tự luật định.
1.1.2. Khái niệm quyền tự do và an toàn cá nhân trong pháp luật tố tụng
hình sự
Tố tụng hình sự là cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan Nhà
nước khác và các tổ chức xã hội để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự. Hay nói cách khác, tố tụng hình sự là hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự
của Cơ quan điều tra, hoạt động truy tố người phạm tội ra trước tòa án của Viện kiểm
11
sát, hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án và hoạt động thi hành bản án, quyết định
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án [48, tr.786]. Hoạt động tố tụng hình
sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng như Cơ quan
điều tra và Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên, Tòa án và Thẩm phán, Thư
ký, Hội thẩm; nhưng tham gia vào quá trình tố tụng hình sự còn những người tham gia
tố tụng khác mà quyền và lợi ích của họ có liên quan đến vụ án hoặc đến quá trình tố
tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng v.v…
Cần phải khẳng định lại rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của
con người, được áp dụng bình đẳng cho tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại,
không có sự phân biệt đối xử vì bất kì lí do gì. Quyền con người trong Tố tụng hình sự
là quyền dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cho cũng nghiêm trọng
nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh của một cá nhân.
Bởi lẽ, Tố tụng hình sự với tư cách là một quá trình Nhà nước đưa một người ra xử lí
trước pháp luật khi họ bi coi là tội phạm luôn thể hiện tính quyền lực với sức mạnh cưỡng
chế nhà nước, với sự yếu thế luôn thuộc về người bị buộc tội. Chính vì vậy, hoạt động
Tố tụng hình sự, trong bất kì Nhà nước nào đều được xếp vào nhóm “nguy cơ cao” khi
người ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con người [42, tr.8].
Ở bình diện khái quát nhất, quyền con người trong tố tụng hình sự được thể hiện ở
hai khía cạnh: Thứ nhất, trừng trị người phạm tội gây ra những thiệt hại cho các quyền và
lợi ích hợp pháp của con người, của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần bảo vệ quyền
con người; Thứ hai, khi tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng
có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội, bị
can, bị cáo. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được lợi dụng
quyền tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền của những người nêu trên [19,
tr.75]. Tuy nhiên, phạm vi quyền con người trong tố tụng hình sự hẹp hơn, không bao gồm
12
cả hai khuynh hướng trên mà chỉ là sự ghi nhận và bảo đảm quyền của những người dễ bị
tổn thương bao gồm: Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị tình nghi phạm tội (bị can, bị
cáo) hoặc người bị kết án tránh sự lạm dụng của người tiến hành tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án.
Theo ThS.Đinh Thế Hưng: “quyền con người trong tố tụng hình sự là những giá
trị thiêng liêng chỉ giành cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình
sự mà Nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và đảm bảo thực
hiện trên thực tế” [39, tr.3]. Ngoài ra, trên tạp chí nghề luật số 5/2006, TS.Tường Duy
Kiên cho rằng quyền con người trong tố tụng hình sự là “ quyền pháp lý của cá nhân,
công dân hay nói chính xác hơn là quyền của bị can, bị cáo, do đang ở vào tình thế bất
lợi vì có hành vi vi phạm pháp luật hình sự hoặc đang bị tình nghi phạm tội, nên thông
qua pháp luật, Nhà nước trao cho họ những quyền pháp lý nhất định, những quyền pháp
lý, thường được quy định trong Hiến pháp và luật để giúp họ có công cụ tự bảo vệ hoặc
nhờ người khác bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, tránh các nguy cơ xâm phạm
không đúng pháp luật từ phía các cơ quan hoặc cá nhân đang thực thi pháp luật”. Theo
đó, quyền con người trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân
sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh
dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh cũng như bảo đảm việc xét xử công
bằng bởi một tòa án độc lập khách quan đối với những người yếu thế (người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác) khỏi sự tùy tiện và
sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động tố tụng hình sự.
Liên quan đến quyền tự do và an toàn cá nhân trong tố tụng hình sự, có thể hiểu
rằng: Quyền tự do và an toàn cá nhân trong tố tụng hình sự là một trong những quyền
dân sự, chính trị quan trọng. Nó là sự bảo đảm của Nhà nước cho người bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam, bị tình nghi phạm tội (bị can, bị cáo) hoặc người bị kết án … nhằm
tránh sự lạm quyền dẫn đến việc xâm phạm/đe dọa xâm phạm sức khỏe, tính mạng,
13
danh dự, nhân phẩm của của họ khi giải quyết vụ án hình sự.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm quyền tự do và an toàn cá nhân
bằng pháp luật tố tụng hình sự
GS.TSKH Lê Cảm đã từng nêu: bảo đảm các quyền con người bằng pháp luật tố
tụng hình sự là “Sự điều chỉnh đầy đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về mặt hành
pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để
làm cho các quy định đó phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm tương ứng của
pháp luật quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự, được tuân thủ, chấp hành và áp dụng
một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa
án, cũng như những người có chức vụ của các cơ quan này trong thực tiễn điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự, đồng thời góp phần tạo nên lòng tin của công dân vào
sự nghiêm minh của pháp chế, tính minh bạch và sự bình đẳng của pháp luật, sức mạnh
và uy tín của bộ máy công quyền, tính nhân đạo và dân chủ của xã hội dân sự và Nhà
nước pháp quyền nói chung” [17, tr.392]. Theo đó, bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự là sự vận hành của các yếu tố khách quan nhằm mục đích ghi nhận về mặt
pháp lý các quyền con người trong tố tụng hình sự và bảo vệ cũng như thực thi các quyền
đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Có thể nói, quyền con người nói chung và quyền an toàn cá nhân nói riêng ngày
càng được cộng đồng các quốc gia trên thế giới chú trọng phát triển và bảo vệ thể hiện
bằng việc ghi nhận những quyền này vào pháp luật mỗi quốc gia và pháp luật quốc tế.
Tuy nhiên, việc ghi nhận các quyền con người trong pháp luật là điều kiện cần nhưng
chưa đủ. Điều kiện đủ là phải có các biện pháp để bảo vệ các quyền khỏi bị vi phạm và
thúc đẩy sự tôn trọng và thực hiện các quyền trên thực tế [23, tr37]. Nếu như pháp luật
hình sự bảo vệ quyền tự do và an toàn cá nhân của con người thông qua việc ghi nhận
các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm về hình phạt cho các tội phạm đó, thì pháp
luật tố tụng hình sự lại thực hiện việc bảo vệ các quyền này với những quy định cụ thể
14
- Xem thêm -