ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM PHƯƠNG HOA
B¶O §¶M QUYÒN Tù DO TÝN NG¦ìNG vµ Tù DO T¤N GI¸O
TRONG PH¸P LUËT VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS TƯỜNG DUY KIÊN
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Phương Hoa
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Từ viết tắt
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN
NGƯỠNG VÀ TỰ DO TÔN GIÁO............................................................7
1.1.
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TỰ DO TÔN GIÁO VÀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ
DO TÍN NGƯỠNG, TỰ DO TÔN GIÁO...................................................7
1.1.1. Khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo............................7
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo.........................13
1.1.3. Một số nguyên tắc bảo đảm Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo
...................................................................................................................... 16
1.2.
TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM BẢO ĐẢM
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ TỰ DO TÔN GIÁO TRONG
PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ý
NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM..................................................................18
1.2.1. Tiêu chuẩn quốc tế......................................................................................18
1.2.2. Các văn kiện khu vực..................................................................................27
1.2.3. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo trong
pháp luật của một số nước.........................................................................29
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TỰ DO TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
...................................................................................................................... 41
2.1.
KHÁI QUÁT VỀ TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY..................................................................................................41
2.1.1. Khái quát về tín ngưỡng ở Việt Nam........................................................41
2.1.2. Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam..................................................43
2.2.
BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ TỰ DO TÔN
GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY..........................51
2.2.1. Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo tiếp tục được thể hiện
trong các văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước Việt Nam..............51
2.2.2. Các quy định pháp luật của Nhà nước Việt Nam đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng và tự do tôn giáo.................................................................53
2.3.
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ
DO TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT
NAM............................................................................................................63
2.3.1. Thành tựu....................................................................................................63
2.3.2. Hạn chế........................................................................................................74
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO TRONG
PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................84
3.1.
QUAN ĐIỂM VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TỰ
DO TÔN GIÁO...........................................................................................84
3.2.
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TỰ DO
TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM......................................89
3.2.1. Dự báo xu hướng phát triển của các tôn giáo ở Việt Nam và tính tất
yếu phải bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo..................89
3.2.2. Một số yêu cầu đặt ra trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng
và tự do tôn giáo.........................................................................................90
3.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo Quyền tự do tín ngưỡng và
tự do tôn giáo ở Việt Nam..........................................................................95
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................................105
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................109
PHỤ LỤC
TỪ VIẾT TẮT
TCN
SCN
UNESCO (United Nations Educational
Trước Công nguyên
Sau Công nguyên
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
Scientific and Cultural Organization)
ILO (International Labour Organization)
ICCPR (International Convenant on Civil
hóa của Liên hiệp quốc
Tổ chức Lao động quốc tế
Công ước quốc tế về các quyền dân
and Political Rights)
ICESCR (International Convenant on
sự và chính trị
Công ước quốc tế về các quyền kinh
Economic, Social and Cultual Rights)
UDHR (Universal Declaration of Human
tế, văn hóa và xã hội
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
Rights)
ECHR (The European Convention on
con người
Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền
Human Rights)
ACHR (The American Convention on
con người và tự do cơ bản
Công ước Châu Mỹ về quyền con
Human Rights)
ACHPR (The African Commission on
người
Hiến chương Châu Phi về quyền con
Human and Peoples' Rights)
FABC
người
Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á
TĐCSPHVN
Nghị định 26
châu
Tịnh độ Cư sỹ Phât hội Việt Nam
Nghị định số 26/NĐ-CP, ngày 19
tháng 4 năm 1999 của Chính phủ về
Vesak
hoạt động tôn giáo
Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là một quyền con người cơ bản,
được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc tế: Hiến chương
Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948) và các công ước
quốc tế về quyền con người.
- Thực trạng tôn giáo ở Việt Nam: Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo,
số lượng đồng bào các tôn giáo chiếm tỉ lệ cao. Các tôn giáo đều có giá trị nhân văn
cao đẹp, đạo đời hòa hợp, đều mong muốn sống ‘‘tốt đời, đẹp đạo”, làm cho ‘‘Nước
vinh, đạo sáng”. Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng một sự thật lịch sử, một thực
tế và đã đáp ứng kịp thời những nhu cầu, nguyện vọng tôn giáo chính đáng của tín
đồ là nhân tố quan trọng để động viên đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo tích cực
tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Xuất phát từ nhận thức mới về tôn giáo: Trong thời kỳ đổi mới, vấn đề tôn
giáo có những nội dung mới. Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24 về công tác
tôn giáo đã khẳng định ‘Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều
điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, đây là kim chỉ nam cho mọi
hành động của hệ thống chính trị trong ứng xử đối với các đồng bào các tôn giáo.
- Xuất phát từ kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự
do tôn giáo: xuất phát từ chính sách đối ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa
các mối quan hê quốc tế, Việt Nam tham gia hầu hết các công ước quốc tế, Việt
Nam có trách nhiệm thực hiện các công ước đã gia nhập, đòi hỏi phải nội luật hóa
các điều quốc tế để xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia tương thích với pháp luật
quốc tế và phù hợp với xu thế quốc tế hóa.
- Xuất phát từ chính sách và thực hiện chính sách về tôn giáo: Tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là một xu thế tiến bộ của nhân
loại, đã trở thành một chính sách lớn của nhiều nhà nước. Tôn trọng quyền tự do tín
1
ngưỡng và tự do tôn giáo, theo hay không theo một tôn giáo nào là tư tưởng nhất
quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là một nguyên tắc trong quan hệ của
Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tôn giáo; là động lực quan trọng giúp đồng bào
tôn giáo nhận thức rằng, Nhà nước không phân biệt đối xử, bình đẳng giữa đồng
bào có tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; là một nhân tố quan
trọng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong quá trình triển khai thực hiện, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng
và Nhà nước ta cũng đã và đang bộc lộ những hạn chế, chưa phù hợp với tình hình
thực tế. Có nơi, có lúc còn hiện tượng hạn chế, thu hẹp thậm chí vi phạm quyền tự do
tín ngưỡng và tự do tôn giáo; chính sách của Đảng về tự do tín ngưỡng và tự do tôn
giáo chưa được thể chế hóa kịp thời thành pháp luật; hoặc chưa rõ ràng, cụ thể dẫn
đến việc áp dụng không thống nhất giữa các địa phương, thậm chí sai chủ trương,
chưa đáp ứng được nhu cầu tôn giáo ngày càng tăng của tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật, văn hóa nhân quyền của người
dân đến nay vẫn chưa cao, chưa đồng đều, ngay cả cán bộ trong bộ máy nhà nước
cũng chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tín ngưỡng, tôn giáo; về chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo;
đặc biệt là khuôn khổ pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Ngoài
ra, khó khăn trong việc luật pháp hóa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo còn gặp phải
từ sự thiếu thiện chí xây dựng của một số cá nhân trong và ngoài nước. Một bộ phận
tín đồ, chức sắc trong tôn giáo đã bị các thế lực xấu tìm cách lợi dụng để chống phá
công cuộc xây dựng đất nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; những
phần tử cực đoan ở nước ngoài cấu kết với bọn phản động trong nước lợi dụng vấn
đề tôn giáo với chiêu bài ‘tự do, dân chủ, nhân quyền”, coi đó như là con bài gây
sức ép với Việt Nam trong thảo luận về các vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao để
can thiệp sâu vào công việc nội bộ của ta.
Như vậy, từ những nhận thức lý luận mới về tôn giáo, về bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; từ kinh nghiệm quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tự
2
do tôn giáo; từ thực trạng chính sách và việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo,
mặc dù có nhiều thành tựu, song chưa tạo được hành lang pháp lý vững chắc, tính
khả thi và hiệu quả chưa cao.
Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng và tự do tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình, với mục đích góp phần khắc phục những hạn chế trong nghiên cứu
khoa học về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của cá nhân, tổ chức
tôn giáo trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay, nhằm bổ sung, hoàn thiện và phát triển các quan điểm, chính sách đã có,
đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do
tôn giáo ở Việt Nam trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ lâu, giới nghiên cứu nước ngoài, nhất là các học giả Liên Xô, Trung
Quốc, Pháp, Mỹ đã có nhiều công trình nghiên cứu lý luận về tôn giáo, mối quan hệ
giữa Nhà nước và giáo hội đã giới thiệu quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn
giáo, thái độ của các Đảng Cộng sản cũng như kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn
giáo của các nước Xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng ‘‘tôn giáo và xã hội xã hội chủ nghĩa cùng chung sống” của Bành
Diệu (Nghiên cứu tôn giáo, số 9/2007); Luật pháp tôn giáo ở Trung Quốc: Tiến
trình lịch sử và những phát triển gần đây (Nghiên cứu tôn giáo, số 4 và 5/2009) đã
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo dưới nhãn quan mới,
khẳng định sự tồn tại của tôn giáo trong xã hội chủ nghĩa, đặc biệt các tác phẩm nêu
trên đã đi sâu nghiên cứu về luật pháp tôn giáo, cũng như kinh nghiệm giải quyết
vấn đề tôn giáo ở Trung quốc. Đây là kinh nghiệm quan trọng để Việt Nam tham
khảo để hoàn thiện luật pháp về tôn giáo.
Liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong
nước, như các tác phẩm:Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận và thực
tiễn, PGS.TS Đỗ Quang Hưng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, giúp tác giả có
3
cái nhìn toàn diện, hệ thống về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta qua
các thời kỳ lịch sử, nhất là sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.
Tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam, Viện Khoa học xã
hội nhân văn quân sự thuộc Bộ quốc phòng, NXb. Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2005. Cuốn sách đã cung cấp cho tác giả những thông tin khái quát về một số vấn
đề cơ bản về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
chống phá cách mạng của các thế lực thù địch và quan điểm, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, nhiều bài viết đã đề cập đến quan điểm, đường lối của Đảng và
Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, trong đó là các bài viết: Tôn trọng tự do
tín ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước của Đặng
Tài Tính (Công tác tôn giáo, số 1/2005); Trở lại những quan điểm đổi mới về tôn
giáo của Nghị quyết 24 của Nguyễn Thanh Xuân (Công tác tôn giáo, số 2/2005); Quá
trình nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo và chính sách tôn
giáo qua cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết từ đổi mới đến nay (Nghiên cứu tôn giáo,
số 1/2011), Luận văn thạc sĩ – Nguyễn Thị Diệu Thúy – Mã số 603810 về Quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn; đặc biệt là cuốn sách Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, của Ban Tôn
giáo Chính phủ, đã giúp tác giả có cái nhìn toàn diện hơn về tình hình tôn giáo; hiểu
rõ quan điểm nhận thức tư duy lý luận mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo, tôn trọng
tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, các công trình trên mới nghiên cứu, phân tích về chính sách, hoặc
pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc về tình hình tôn giáo, chưa có
công trình nào nghiên cứu tổng thể về vấn đề bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Nghiên cứu tổng quát về khuôn khổ pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Đánh giá lại hệ
thống chính sách, pháp luật liên quan đến tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo
4
trong thời kỳ mới, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nói trên, tác giả đã đưa ra và
giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ về nhận thức lý luận về tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
- Nghiên cứu, phân tích khuôn khổ pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng,
tự do tôn giáo.
- Quan điểm, chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Từ đó đối chiếu, so sánh pháp luật Việt Nam về bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo với các chuẩn mực quốc tế.
- Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo
trong pháp luật Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của những
bất cập trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
- Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tự do tôn
giáo; quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo;
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bảo đảm thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, xã hội
học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận văn cũng khai
thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho
các luận điểm.
5. Những nét mới của luận văn
- Luận văn đưa ra cái nhìn tổng thể về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn
giáo: khái niệm, bản chất, đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; một
số nguyên tắc liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
5
- Luận văn phân tích những tiêu chuẩn quốc tế và kinh nghiệm bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong pháp luật một số nước có ý nghĩa
với Việt Nam;
- Góp phần làm rõ thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo
trong pháp luật Việt Nam hiện nay, tính tương thích của pháp luật Việt Nam và
pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
- Phân tích, làm rõ nhận thức lý luận mới về tín ngưỡng, tôn giáo; chính sách
mới về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam.
- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa
ra các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa
học cơ bản mang tính lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; giúp người
đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về khuôn khổ pháp luật quốc tế và quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
Luận văn cũng nêu lên những thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo; những bất cập trong việc bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo ở Việt Nam; từ đó nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết
cấu gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
- Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo
trong pháp luật Việt Nam hiện nay
- Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do
tôn giáo trong pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ TỰ DO TÔN GIÁO
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TỰ DO TÔN GIÁO VÀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN
NGƯỠNG, TỰ DO TÔN GIÁO
1.1.1. Khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng và tự do
tôn giáo
1.1.1.1. Khái niệm về tín ngưỡng và tôn giáo
Hiện nay với nhiều khái niệm về tín ngưỡng và tôn giáo với nhiều hướng tiếp
cận khác nhau. Năm 1871, Taylor với câu nói “tôn giáo là lòng tin vào những vật
linh", đúng hơn là những "vật siêu nhân", hay nói rộng ra là những "lực lượng phi
nhân". Đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu xã hội học tôn giáo nổi tiếng người Đức
Max Weber tuy không đưa ra một định nghĩa chính thức nào về tôn giáo nhưng ông
cho rằng tôn giáo "như một dạng đặc biệt của hoạt động trong cộng đồng" gắn với
"các thế lực siêu nhiên".
Theo cách nhìn tôn giáo từ góc độ tư tưởng, triết học của các nhà kinh điển
Mác- Lênin. Mác định nghĩa "tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
thế giới trái tim không có trái tim. Cũng như nó là tinh thần của trạng thái xã hội mà
ở đó tinh thần bị loại bỏ...Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân"...."Tôn giáo là sản
phẩm của Nhà nước và xã hội mà Nhà nước và xã hội là thế giới đảo ngược" [5].
Cũng trong tác phẩm góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác
đã khẳng định lại: "Tôn giáo là cái ý thức về bản thân và cái cảm giác về bản thân
con người chưa tìm thấy trong bản thân mình hoặc đánh mất bản thân mình một lần
nữa". Sau này một số người đã tiếp cận phân tích trích dẫn những định nghĩa của
Mác, Ăng ghen, Lênin một cách giáo điều, không đầy đủ, thậm chí còn cắt xén làm
sai lạc đi nhiều.
Gần đây một số nhà nghiên cứu tôn giáo Việt Nam cũng đưa ra những lý giải
7
hoặc chia sẻ quan điểm của mình về tín ngưỡng, tôn giáo. Tác giả Hoàng Phê trong
Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1992, đưa ra định nghĩa "Tôn giáo là hình thức xã
hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu
nhiên, cho rằng có lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người
phải phục tùng, tôn thờ". Tác giả Mai Thanh Hải trong Từ điển Tôn giáo xuất bản
năm 2001, đưa ra định nghĩa "tôn giáo là một hình thái nhận thức xã hội, phản ánh
hiện thực qua các khái niệm, hình ảnh mang tính chất ảo ảnh, ảo vọng. Nói chung
đó là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, vô hình mà con người cho là linh thiêng,
được sùng bái và cầu khấn để nhờ cậy, che chở hoặc ban phát điều tốt lành". Giáo
sư Đặng Nghiêm Vạn trong sách Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt
Nam xuất bản năm 1998 cho rằng "tôn giáo là thế giới siêu nhiên vô hình được
chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại hư ảo giữa con người và thế giới
đó nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế, cũng như ở thế giới bên kia trong những
hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau, của từng cộng đồng tôn giáo hay xã hội khác
nhau". Tiến sĩ Nguyễn Thanh Xuân, Phó trưởng Ban Ban Tôn giáo Chính phủ đã
đưa ra một định nghĩa về tôn giáo khá bao trùm là, “tôn giáo là những hành vi (hoạt
động) của con người để thực hiện niềm tin vào thế giới siêu nhiên”. Với định nghĩa
này, tôn giáo gồm hai phạm trù là niềm tin và hanh vi của con người để thực hiện
niềm tin vào thế giới siêu nhiên và đấng siêu nhiên.
Như vậy, tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào thế giới
siêu nhiên mà họ cho rằng đã chi phối thế giới và con người, niềm tin này không
nhận biết được. Tôn giáo là hành vi hay hoạt động của con người để thực hiện niềm
tin vào thế giới siêu nhiên và đấng siêu nhiên. Khái niệm này nhấn mạnh những
hoạt động của con người như: thờ phụng, cúng bái, cầu nguyện, việc thực hiện các
nghi lễ khác,...Các hoạt động này đều được thể hiện ra bên ngoài và đều nhận biết
được. Tín ngưỡng là phạm trù rộng, còn tôn giáo là phạm trù cụ thể, là cái biểu hiện
bên ngoài của tín ngưỡng. Không thể có những hoạt động tôn giáo nếu như không
có niềm tin tôn giáo.
Ở Việt Nam, bên cạnh khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo, còn có khái niệm tín
8
ngưỡng dân gian. Trước đây, khái niệm tín ngưỡng đã bao gồm cả tôn giáo, nên khi
nói các loại hình tôn giáo sơ khai (nguyên thủy) trong các dân tộc thiểu số, tôn giáo
truyền thống trong người Kinh, người ta gọi "sang ngang" luôn là tín ngưỡng
nguyên thủy hay tín ngưỡng dân gian (truyền thống). Như vậy, khái niệm tín
ngưỡng ở nước ta được hiểu theo hai nghĩa, tùy theo từng văn cảnh khác nhau, khi
chỉ niềm tin của con người vào thế giới siêu nhiên (tín ngưỡng), khi chỉ các loại
hình tôn giáo nguyên thủy, tôn giáo truyền thống hay tín ngưỡng dân gian.
1.1.1.2. Khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo
Xét về nguồn gốc, quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ra đời gắn liền với
quá trình phát triển của các tôn giáo. Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ của lực
lượng sản xuất và điều kiện sinh hoạt vật chất còn thấp, con người cảm thấy yếu
đuối và bất lực trước thiên nhiên. Vì vậy, người nguyên thủy đã gắn cho thiên nhiên
những sức mạnh siêu nhiên. Giai đoạn này tôn giáo chỉ phản ánh những nhận thức
hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới quanh mình. Nhưng khi
xuất hiện giai cấp thì tôn giáo cũng phản ánh lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Kitô giáo ra đời ở La Mã cổ đại, Phật giáo là đời ở ấn Độ cổ đại (thế kỷ 6TCN), Hồi
giáo ra đời ở bán đảo Ả Rập (TK7 TCN) đều để đáp ứng nhu cầu của quần chúng bị
nô lệ, quần chúng lao khổ khát vọng về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái.
Vào thế kỷ III (SCN), những người theo đạo Phật bị ngược đãi hành hạ ở Ấn
Độ bởi vì họ đã tin tưởng vào những giáo huấn của Đức Phật. Bắt đầu từ thế kỷ IX
(SCN) được gọi là “thời kỳ tăm tối” ở Châu Âu. Đạo Hồi và các đạo khác không
phải đạo Cơ Đốc, bị ngược đãi hành hình “trên danh nghĩa chúa Trời”. Kế tiếp đó,
chiến tranh mở rộng của Đế chế Ottoman và Đạo Hồi đã làm châu Âu khiếp sợ.
Những người Do Thái bị dồn vào sống trong những khu riêng biệt không chỉ bởi
người Cơ Đốc mà còn bởi người Hồi Giáo trước đấy. Những hành động chống đối
người Ấn ở Mỹ La tinh cũng xảy ra trong quá trình Cơ Đốc hóa.
Ngay sau khi các cuộc cách mạng tư sản thành công, các chế độ dân chủ (tư
sản) cộng hoà ra đời, tình trạng đó cơ bản chưa thay đổi, dù quyền lực thần quyền
đã bị hạn chế. Trong khi đó, các vấn đề khủng bố, bạo lực, kết tội tôn giáo hoặc
9
chiến tranh sắc tộc tôn giáo vẫn không ngừng diễn ra. Nhu cầu lớn đầu tiên trong
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo với rất nhiều quốc gia là nhu cầu mỗi công
dân có thể theo một tín ngưỡng riêng hay cải đạo mà không sợ bị chính phủ phạt tội
hoặc các “tôn giáo chính thống” trả thù. Trong quá khứ và cả hiện tại, những người
theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều bị đe dọa bởi điều họ tin hay không tin.
Do đó, nhu cầu tin theo một tín ngưỡng và biểu hiện niềm tin của tín ngưỡng ấy ra
bên ngoài cần được bảo vệ.
Quan niệm về tự do tôn giáo được hình thành ở châu Âu với các cuộc cách
mạng tư sản thế kỷ XVII - XVIII. Những nhà tư tưởng như John Locke, đã đặt nền
móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng, tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn là
của xã hội. Vai trò của Nhà nước không phải là khuyến khích phát triển tôn giáo mà
cơ bản là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu niềm tin tôn giáo của chính
mình và cách tốt nhất là hãy để con người tự lựa chọn tôn giáo cho mình.“Không ai
tự nhiên bị trói buộc phải theo một nhà thờ hay một giáo phái, nhưng mọi người đều
có thể tự nguyện tham gia vào xã hội mà ở đó anh ta tin là anh ta đã tìm thấy tín
ngưỡng và sự tôn sùng thực sự có thể được Chúa Trời chấp nhận. Hy vọng cứu rỗi
linh hồn, là lý do duy nhất khiến mỗi người bước vào thế giới đó, và vì vậy cũng có
thể là lý do duy nhất để anh ta ở lại đó […]. Nhà thờ, vì vậy, là một xã hội mà thành
viên tự nguyện hợp nhất lại” [49].
Sự bảo vệ thoả đáng ngày càng trở nên cấp thiết trong những năm gần đây
bởi vì không khoan dung về tôn giáo và ngược đãi luôn ở vị trí hàng đầu của các
xung đột bi thảm trên toàn thế giới liên quan đến các vấn đề về sắc tộc, mâu thuẫn
chủng tộc, hay sự hận thù giữa các nhóm tôn giáo. Ngược đãi trên khía cạnh tôn
giáo có thể được nhận ra trong các xung đột hiện nay giữa những tín đồ của một tín
ngưỡng, tôn giáo và những người không theo tín ngưỡng, tôn giáo ấy; giữa tín
ngưỡng truyền thống và tín ngưỡng “mới” ở những quốc gia đa tôn giáo, hoặc giữa
các quốc gia với một tôn giáo chính thống hay được ưa chuộng với những cá nhân
hoặc cộng đồng không thuộc tôn giáo đó.
Trong tiến trình vận động của lịch sử, quan niệm về tự do tôn giáo dần dần
10
trở nên hoàn thiện hơn. Trước khi quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trở thành
quy tắc trong luật quốc tế, ở phạm vi các quốc gia, một số nước đã đề cập đến tự do
trong đó có mầm mống của quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong các bản
Tuyên ngôn của Quốc gia.
Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 đề cập đến tự
do: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền
tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc" [24]. Mặc dù chưa nói cụ thể về tự do tôn
giáo nhưng văn kiện này ảnh hưởng lớn đến tuyên ngôn độc lập của nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam.
Bộ Luật về Quyền của Hoa Kỳ năm 1791 ghi nhận các quyền và tự do trong
các tu chính án, trong đó tu chính án thứ 1 "Quốc hội sẽ không ban hành một đạo
luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận,
báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị chính phủ sửa chữa
những điều gây bất bình" [24].
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do
cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, song cũng chưa nói rõ về tự do tôn giáo:
“Không ai phải lo ngại vì nêu ý kiến, kể cả tín ngưỡng của mình, miễn là không có
biểu hiện gây rối trật tự công cộng do pháp luật quy định” [28].
Tuyên bố về tự do tôn giáo của Hội đồng nhà thờ thế giới năm 1948. Mọi
người đều có quyền bày tỏ niềm tin tôn giáo của mình trong giảng dạy, thờ phượng
và thực hành, và công bố tác động của niềm tin của mình cho các mối quan hệ trong
một cộng đồng xã hội hay chính trị.
Ngày 10-12-1948, Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về
nhân quyền thì tự do tôn giáo mới thực sự trở thành một quyền mang tính quốc tế,
được tái khẳng định trong nhiều văn bản quốc tế khác.
Nếu như khái niệm về tín ngưỡng, tôn giáo có nhiều cách tiếp cận khác nhau,
thì việc đưa khái niệm phổ quát cho Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo cũng rất
khó khăn, ngay cả khi soạn thảo Điều 18 Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới đã có
11
nhiều quan điểm, tranh luận về vấn đề tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia, tự do tín ngưỡng hay tự do tôn
giáo thường được coi là một nguyên tắc ủng hộ quyền tự do của cá nhân hay cộng
đồng trong việc công khai hoặc bí mật thực hành, thờ phụng, rao giảng, hay tu tập
một tôn giáo hay tín ngưỡng. Khái niệm này thường được thừa nhận là có bao gồm
cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự do không theo một tôn giáo nào.
Quan điểm về tự do tôn giáo của Công đồng Vatican II, Thánh Công đồng
Vatican II tuyên bố: "Con người có quyền tự do tôn giáo, quyền tự do này con
người không bị lệ thuộc vào áp lực của cá nhân, đoàn thể xã hội hay của bất cứ
quyền bính trần gian nào khác. Với ý nghĩa đó, trong lĩnh vực tôn giáo, không ai bị
ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo
lương tâm, dù cho đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với
người khác, trong những giới hạn chính đáng" [19]. Ngoài ra, theo Công đồng
Vatican II, "Tự do tôn giáo còn có nghĩa là các cộng đoàn tôn giáo không bị ngăn
cản trong việc tự do biểu lộ các hiệu năng riêng của giáo thuyết mình trong việc tổ
chức xã hội và làm cho toàn thể sinh hoạt nhân loại được sống. Sau hết, theo bản
tính xã hội của con người, cũng như theo bản chất của tôn giáo, con người có quyền
dự to hội họp hay thành lập những hiệp hội giáo dục, văn hóa, từ thiện và xã hội do
cảm thức tôn giáo thúc đẩy" [20].
Tiếp cận theo các yếu tố cấu thành, thì khái niệm về Quyền tự do tín ngưỡng,
tự do tôn giáo được khẳng định tại Điều 18 Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền và
tái khẳng định ở Điều 18 Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị năm 1966. Điều
18 của Tuyên ngôn định nghĩa Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo như sau: “Mọi
người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo; kể cả tự do thay đổi tín
ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình
bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ,
dưới hình thức cá nhân hay tập thể tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư" [29].
Về mặt nội dung, Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo bao gồm: quyền
theo hoặc không theo một tôn giáo; quyền tự do thay đổi tôn giáo; quyền tự do thể
12
hiện, bày tỏ tín ngưỡng, tôn giáo (quyền tự do thực hiện các hoạt động tôn giáo):
- Tự do lựa chọn theo hay không theo một tôn giáo nhất định, không thể ép
buộc con người từ bỏ đức tin của mình hay buộc phải tôn thờ điều mà họ không có
đức tin. Do đó con người phải được tự do lựa chọn đức tin của mình, tự do lựa chọn
theo một tín ngưỡng, tôn giáo nhất định.
- Quyền tự do thể hiện, thực hành tín ngưỡng, tôn giáo dưới nhiều hình
thức: thờ cúng, cầu nguyện, hành lễ, giảng đạo, truyền bá đức tin; đào tạo, bổ
nhiệm những người đứng đầu phù hợp với quy định và tiêu chuẩn của tôn giáo
theo tín ngưỡng; thành lập và duy trì các cơ sở nhân đạo hoặc từ thiện thích hợp;
chế tạo, thu mua và sử dụng đồ vật cần thiết liên quan đến phong tục của một tôn
giáo hay tín ngưỡng; phát hành và phổ biến các ấn phẩm tôn giáo; được có ngày
nghỉ và kỷ niệm những ngày lễ và buổi lễ phù hợp với giáo luật tôn giáo hay tín
ngưỡng của mỗi người.
- Quyền thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo, việc theo hay không theo một tín
ngưỡng, tôn giáo nào là biểu hiện của sự tự nguyện, tự do lựa chọn theo hay không
theo hoặc từ bỏ một tôn giáo mà cá nhân họ đang theo.
Như vậy, Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo là một trong những quyền
cơ bản của con người, thuộc nhóm các quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật
của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo bao
gồm các quyền: được tự do tin theo hoặc không tin theo, được tự do thay đổi tôn
giáo; được thực hành, thờ phụng, rao giảng, hay tu tập một tôn giáo hay tín ngưỡng
(trong khuôn khổ quy định của pháp luật). Việc thực hành quyền Tự do tín
ngưỡng tôn giáo được luật pháp quy định và các giới hạn cần thiết để bảo vệ an
toàn, trật tự, sức khỏe xã hội, hay tinh thần hoặc các quyền cơ bản và quyền tự do
của những người khác.
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng và tự do
tôn giáo
- Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là một quyền con người cơ bản
thuộc nhóm các quyền dân sự, chính trị, gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân,
13
không thể chuyển giao, không thể chia cắt và không thể bị tước bỏ bởi bất cứ ai, và
bất kỳ thể chế chính trị nào.
- Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo được xác lập, thực hiện và phát
triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
trong xã hội. Vì vậy, nó luôn phản ánh bản chất của chế độ chính trị xã hội và trình
độ phát triển của xã hội.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng sự tồn tại và phát triển của một tôn giáo
phụ thuộc sự bành trướng của một thế lực chính trị có trong tay một tiềm lực kinh tế
nhất định. Hồi giáo ra đời ở bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII (SCN) gắn liền với sự
biến chuyển của xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ xã hội có giai cấp, đòi hỏi
phải thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập thành một Nhà nước phong kiến. Phật
giáo ra đời trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại bắt nguồn từ những nguyên nhân chính trị
sâu xa, là trào lưu chống lại chế độ đẳng cấp và đạo Bà - la - môn. Kitô giáo ra đời là
phản ứng của quần chúng trước chính sách áp bức bóc lột của đế quốc La Mã.
- Những quy tắc về tôn giáo trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo là
quy tắc đối nhân xử thế giữa con người với con người, giữa con người với thế
giới; quy tắc đề cao, cổ vũ tình yêu thương đồng loại, sự công bằng, bình đẳng, tự
do và nhân phẩm, là nền tảng của quyền con người. Do đó, việc bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo không chỉ là một vấn đề luật pháp mà còn là một vấn
đề về đạo đức. Tín ngưỡng tôn giáo có ảnh hưởng mạnh đến nhận thức cá nhân,
hiểu biết về thế giới quan của mỗi cá nhân. Niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên
nào đó, được coi là một nhân tố chủ đạo trong việc thể hiện bản sắc văn hóa của
mỗi người, đó là lý do vì sao tự do tôn giáo lại là một chủ đề nhạy cảm và có vẻ
như là một quyền khi đề cập đến bị gây nhiều khó khăn hơn so với những vấn đề
quyền con người khác.
- Quyền và tự do của cá nhân luôn gắn liền với quyền và lợi ích của cộng
đồng, của dân tộc; quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo cũng gắn liền với độc lập
dân tộc, chủ nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia, với an ninh và ổn định chính trị-xã
hội. Bởi vậy, quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo không thể thoát ly khỏi tính
14
- Xem thêm -