Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình từ thực...

Tài liệu Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình từ thực tiễn tỉnh đắk nông

.PDF
89
100
148

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ VIỆT HÀ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ VIỆT HÀ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN THANH HÀ HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn “Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông” là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Đắk Nông, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Vũ Thị Việt Hà MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH ................................................................................................................................ 9 1.1. Quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ...................... 9 1.2. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình .17 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình .......................................................................................31 1.4. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của quốc tế và một số địa phương ..................................................................................................................36 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG ...................................................................................42 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình của tỉnh Đắk Nông ........................................................42 2.2. Thực trạng các quy định của Trung ương và tỉnh Đắk Nông về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ........................45 2.3. Thực trạng các hoạt động bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực Phát thanh - Truyền hình ở tỉnh Đắk Nông ..........................................................52 2.4. Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình của tỉnh Đắk Nông ................................................................57 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYÊN HÌNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG ..............................................................64 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình............................................................................................................64 3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ...............................................................................................66 3.3. Giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình tỉnh Đắk Nông ...................................................................................74 KẾT LUẬN .........................................................................................................78 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 TCTT Tiếp cận thông tin 2 QTCTT Quyền tiếp cận thông tin 3 UBND Ủy ban nhân dân 4 HĐND Hội đồng nhân dân 5 XHCN Xã hội chủ nghĩa 6 VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật 7 PT-TH Phát thanh truyền hình 8 TT-TT Thông tin truyền thông 9 KT-XH Kinh tế - xã hội 10 TT-TH Truyền thanh – truyền hình 11 QLNN Quản lý nhà nước MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo đảm thực hiện quyền TCTT là điều kiện cần thiết cho hoạt động quản lý dân chủ, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Trong một quốc gia, việc không công khai thông tin đồng nghĩa với thiếu trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền trong quá trình thực thi quyền lực công và có thể quyền lực đó sẽ mâu thuẫn hoặc đi ngược lại lợi ích của công chúng, của cộng đồng xã hội. Để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, việc bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan công quyền được xác định là một trong những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của bộ máy Nhà nước. Phù hợp nguyên tắc này, bảo đảm quyền được thông tin của công dân, tạo cơ chế để nhân dân tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, qua đó sẽ hạn chế tình trạng quan liêu, tham nhũng và tăng cường trách nhiệm của cán bộ, công chức là nội dung đặc biệt quan trọng. Đây là những điều kiện, tiền đề cho hoạt động quản lý dân chủ, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong một nền quản trị công hiện đại, chuyên nghiệp, cùng với trách nhiệm giải trình, tính dự đoán được và sự tham gia của công chúng vào hoạt động quản lý, tính minh bạch được coi là một trong bốn trụ cột cơ bản. Yêu cầu công khai các thông tin, hoạt động của cơ quan nhà nước là yêu cầu được đặc biệt quan tâm bởi lẽ các cơ quan này nắm giữ các thông tin mà người dân quan tâm. Theo đó, trách nhiệm công khai thông tin của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng có mối quan hệ mật thiết với quyền được TCTT của người dân. Tại Việt Nam, Hiến pháp và luật của nước ta trước đây chỉ quan tâm chủ yếu đến quyền của người dân được phổ biến, được tuyên truyền các đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, đến việc công khai, công bố các văn bản của các cơ quan nhà nước. Quyền thông tin là quyền rất mới ở Việt Nam, chỉ đến năm 1992, lần đầu tiên Hiến pháp đã ghi nhận “quyền được thông tin” của công dân (Điều 69, Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ 1 sung năm 2001). Tuy nhiên, đó vẫn là tinh thần cũ, người dân là đối tượng thụ động tiếp nhận thông tin từ các cơ quan nhà nước. Đến gần đây, “quyền tiếp cận thông tin” mới được ghi nhận một cách đầy đủ hơn tại Điều 25 của Hiến pháp năm 2013. Cùng với đó, Luật Tiếp cận thông tin được Quốc hội thông qua ngày 06/4/2016, có hiệu lực áp dụng từ ngày 01/7/2018 là một động thái cho thấy, Nhà nước ta đã nhận thức và đang từng bước hoàn thiện cơ chế đảm bảo cho quyền tiếp cận thông tin dần được ứng dụng vào đời sống. Với đa phần dân số sống ở nông thôn và tỷ lệ đồng bào người dân tộc thiểu số nhiều, chủ yếu lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, việc hiểu và thực hiện bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của tỉnh Đắk Nông gặp nhiều khó khăn, các hình thức, biện pháp giúp người dân tiếp cận thông tin như băng rôn, khẩu hiệu, các chương trình phát thanh - truyền hình tiếng Việt và tiếng dân tộc… Xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như thể chế chưa hoàn thiện, nhận thức của xã hội về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình chưa được nâng cao, việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập, chưa có hướng dẫn thực hiện một cách chi tiết,... việc thực hiện bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông chưa đạt được những kết quả như mong muốn. Người dân chủ yếu tiếp cận thông tin thụ động thông qua mạng lưới đài phát thanh, truyền hình Trung ương, địa phương, qua người quen mà việc tiếp cận thông tin qua hệ thống báo chí điện tử, các kênh truyền hình khác… chưa được nhiều. Từ đây, những thông tin chính sách kinh tế xã hội của địa phương chưa được người dân tiếp cận một cách đầy đủ và chính xác. Đây là một trong những lý do khiến tỉnh Đắk Nông chưa thể khai thác tối đa các tiềm năng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Từ các lý do trên cho thấy, việc chọn và nghiên cứu đề tài về “Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông” là yêu cầu khách quan, tất yếu, cấp thiết cả về lý luận cũng như thực tiễn, tạo điều kiện cho cá nhân tại tỉnh Đắk Nông có thể sử dụng quyền này một cách hợp pháp và hợp lý, đảm bảo lợi ích chính đáng, khai thác thông tin một cách chính xác tạo đà cho sự phát triển của tỉnh nhà. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kể từ thời điểm quyền được thông tin được đề cập trong Hiến pháp năm 1992, quyền tiếp cận thông tin được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và đặc biệt là từ khi Luật tiếp cận thông tin năm 2016 được đưa vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội thì số lượng sách, bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin phát triển một cách mạnh mẽ. Điều đó chứng tỏ, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin có sức thu hút lớn về mặt khoa học và thực tiễn. Việc nghiên cứu về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp trong các cuộc hội thảo, các công trình nghiên cứu, luận án, luận văn, các bài nghiên cứu của các nhà khoa học trong những năm gần đây: Cuốn sách “Tiếp cận thông tin: pháp luật và thực tiễn trên thế giới và Việt Nam”, GS.TS Nguyễn Đăng Dung và đồng chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011. Cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu của nhiều tác giả, cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể, toàn diện về nhiều khía cạnh khác nhau của quyền tiếp cận thông tin: lịch sử hình thành, các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật các nước và của Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin. Luận án “Quyền tiếp cận thông tin trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của TS Bùi Thị Hải (2016). Luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về quyền tiếp cận thông tin trong quản lý hành chính nhà nước, chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin, đánh giá thực trạng thực hiện quyền tiếp cận thông tin; đề xuất các quan điểm, giải pháp xây dựng, củng cố khuôn khổ pháp lý về quyền tiếp cận thông tin trong quản lý hành chính nhà nước phù hợp với Hiến pháp, thông lệ quốc tế và hoàn cảnh, điều kiện thực tế của Việt Nam. Luận án “Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Thái Thị Tuyết Dung (2014) đã làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng việc thực hiện quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm quyền được thông tin trong điều kiện nước ta. 3 Luận văn “Quyền tiếp cận thông tin và viện bảo đảm thực hiện ở Việt Nam” của tác giả Đoàn Ngọc Chung (2014) nghiên cứu tổng quát về tình hình thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, đánh giá lại hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, từ đó đề xuất các giải pháp đảm bảo quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam. Luận văn “Xây dựng cơ chế bảo đảm quyền quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam từ kinh nghiệm ở các nước trên thế giới” của tác giả Đinh Quỳnh Mây (2014) làm rõ khái niệm, nhận diện đúng bản chất về quyền tiếp cận thông tin, khái quát pháp luật tiếp cận thông tin ở các nước khác nhau để đưa vào các nhóm, các xu thế khác nhau và rút ra kinh nghiệm trong việc hoàn thiện thể chế ở Việt Nam. Thái Vĩnh Thắng (2009), Quyền tiếp cận thông tin - Điều kiện thực hiện các quyền con người và quyền công dân; Dương Thị Bình (2009), Thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam; Nguyễn Thị Hạnh (2009), Sự cần thiết ban hành luật tiếp cận thông tin; Mai Thị Kim Huế (2009), Phạm vi chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin; Chu Thị Thái Hà (2009), Thông tin được tiếp cận và nội hàm của quyền tiếp cận thông tin; Nguyễn Thị Thu Vân (2009), Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin… Các bài viết, bài tạp chí của các tác giả như: Đào Trí Úc (2011), Tự do thông tin trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4; Trần Ngọc Đường (2008), Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với quyền được tiếp cận thông tin, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01 (112+114); Vũ Văn Nhiêm (2010), Quyền được thông tin từ góc độ bảo đảm quyền con người và liên hệ với dự luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam (Nghiên cứu lập pháp số 9 (170); Nguyễn Công Hồng và Hoàng Thị Ngân (2010), Nhà nước pháp quyền và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề; Lê Thị Hồng Nhung (2011), Quyền tiếp cận thông tin dưới góc độ quyền con người, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp và luận văn thạc sĩ “Bảo đảm pháp lý về quyền được thông tin của công dân trong quản lý nhà nước về đất đai” (2011)… Những bài viết này đã đề cập đến một số khía 4 cạnh về quyền tiếp cận thông tin trên những phương diện và phạm vi khác nhau như thực trạng pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam, những nội dung cơ bản quyền tiếp cận thông tin ở nước ngoài, những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin, những kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện luật tiếp cận thông tin ở các quốc gia, tính cấp thiết của việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin ở Việt Nam… Qua nghiên cứu các tài liệu, công trình có liên quan đến đề tài luận văn về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình, tác giả nhận thấy kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước đã có sự thống nhất chung khi đề cập đến khái niệm, sự hình thành và phát triển; các nội hàm và vai trò của quyền tiếp cận thông tin. Nhiều công trình nghiên cứu tiếp cận quyền tiếp cận thông tin không chỉ dưới góc độ là một quyền dân sự, chính trị mà còn dưới góc độ khác như một quyền cơ bản của công dân, một quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là những giá trị quan trọng giúp tác giả củng cố nhận thức về vấn đề này, làm cơ sở cho các nghiên cứu cụ thể trong lĩnh vực phát thanh – truyền hình trong luận văn. Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận về bảo đảm QTCTT trước hết là xuất phát từ mối quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân và những bảo đảm QTCTT trong lĩnh vực phát thanh truyền hình. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách cụ thể và riêng biệt về việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông thời gian qua. Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu có tính cấp thiết và kết quar nghiên cứu của đề tài có thể giải đáp các câu hỏi về giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình của tỉnh Đắk Nông. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình, trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh ĐắkNông, từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường bảo đảm quyền 5 tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình nói chung và ở tỉnh Đắk Nông nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau: Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình; Hai là, đánh giá về thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông như: thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đak Nông, thực trạng vận hành việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông. Ba là, nghiên cứu về các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những quan niệm, tư tưởng, các quy định pháp luật, thực tiễn thực hiện bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình thông qua việc nghiên cứu một số quy định pháp luật nước ta và các văn bản có liên quan cũng như các quan điểm học thuật về khái niệm này. Cùng với đó, liên hệ tới thực tiễn tại địa phương, đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm mục đích đảm bảo quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng. Khái niệm “bảo đảm quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình” trong luận văn tập trung nghiên cứu ở khía cạnh bảo đảm pháp lý và được hiểu theo nghĩa là việc Nhà nước thông qua các hoạt động của mình thực hiện trách nhiệm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình. 6 Về thời gian, học viên nghiên cứu bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông từ khi ban hành Hiến pháp năm 2013 và Luật tiếp cận thông tin năm 2016 cho đến nay. Về không gian, luận văn nghiên cứu không gian bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn cũng vận dụng quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền tiếp cận thông tin; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: hệ thống, thống kê, phân tích tài liệu, tổng hợp, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Trong đó, phương pháp hệ thống được sử dụng xuyên suốt để đảm bảo các vấn đề, nội dung của luận văn được trình bày theo trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, phát triển các vấn đề để đạt được mục tiêu nghiên cứu. Luận văn cũng khai thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố, các bài viết nghiên cứu để chứng minh cho các luận điểm. Ở mỗi chương sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ đạo để làm rõ mục đích nghiên cứu. Cụ thể là: Chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê để trình bày những vấn đề lý luận cơ bản, những quan điểm về thông tin, quyền tiếp cận thông tin cũng như các bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình. Chương 2,3 sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá để đưa ra thực trạng hiện nay của bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình ở tỉnh Đắk Nông đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, đánh giá để nhận xét về thực trạng đó nhằm đề ra những giải pháp phù hợp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp bổ sung những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận, giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình; nhận xét 7 về thực trạng thực hiện tại Đắk Nông; góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, cơ quan nhà nước và nhân dân tỉnh Đắk Nông về thực hiện quyền tiếp cận thông tin và bảo đảm để quyền tiếp cận thông tin được thực hiện một cách hiệu quả. Ngoài ra, kết quả của luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học cũng như một số chuyên ngành liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực Phát thanh - Truyền hình Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình của tỉnh Đắk Nông 8 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH 1.1. Quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình 1.1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình Ngày nay, trong đời sống hàng ngày, thông tin là yếu tố thường xuyên được đề cập đến, ở đâu người ta cũng nói đến thông tin. Nói cách khác, thông tin là nền tảng của tất cả các hoạt động của xã hội. Xét từ góc độ lịch sử, thông tin tạo ra các cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật, gắn bó chặt chẽ, mật thiết và có tính quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người. Mọi tri thức của nhân loại đều được cập nhật, lưu trữ và phổ biến dưới dạng thông tin về những điều đã diễn ra, về những điều người ta đã biết, đã nói, đã làm. Thông tin không thể cầm giữ như các hiện vật được. Chính vì vậy, tùy theo góc độ và mục đích sử dụng, có rất nhiều cách hiểu về thông tin. Thông tin hình thành trong quá trình nhận biết hiện tượng xung quanh, trong quá trình giao tiếp. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “thông tin là tin tức được truyền đi cho biết hoặc tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh”. Theo các cách hiểu trên, mọi tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới tự nhiên và xã hội đều trở thành thông tin. Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi thông tin đều có ý nghĩa với nhà nước, xã hội và đều được sử dụng trong quản lý nhà nước, đều là nhu cầu cần tiếp cận của mọi công dân. Khoản 1 Điều 2 Luật TCTT năm 2016 quy định “Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra” [41]. Theo đó, khái niệm thông tin được đề cập trong Luật TCTT có nghĩa rằng, thông tin đó 9 phải do cơ quan nhà nước tạo ra trong quá trình thực thi công vụ, được người có thẩm quyền ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản và được lưu giữ trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác. Như vậy, mỗi lĩnh vực nghiên cứu khác nhau thì có định nghĩa về thông tin khác nhau. Các khái niệm, quan điểm về thông tin nêu trên rất đa dạng và đều phù hợp theo từng lĩnh vực nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài, chỉ đề cập đến thông tin mà công dân có thể tiếp cận do cơ quan nhà nước tạo ra. Ngày nay, trong một thế giới mở, nhu cầu thông tin của cá nhân, tổ chức ngày càng nhiều, càng đa dạng, phong phú, tùy theo nhu cầu của mình mà cần những thông tin khác nhau: thông tin về tri thức của nhân loại trên các lĩnh vực tự nhiên, xã hội; thông tin chính trị, thông tin kinh tế, xã hội, thôngtin pháp luật; thông tin trong nước, thông tin quốc tế... Với vai trò của thông tin như đã nói ở trên thì nó có tầm quan trọng như một thứ tài sản, tài sản ấy thuộc sở hữu chung của cộng đồng mà không một cá nhân hay tổ chức nào được độc quyền nắm giữa hay ngăn cản và ngăn cấm người khác tiếp cận, trừ phi những thông tin này có liên quan đến việc đảm bảo an ninh quốc gia hoặc đời tư cá nhân được luật pháp quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Vì lẽ đó, tiếp cận thông tin dần trở thành một thuật ngữ ngày càng phổ biến. Đó là quyền được tiếp cận các thông tin đang được các cơ quan nhà nước quản lý, kiểm soát để thỏa mãn nhu cầu trong của sống của mình hay để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác được pháp luật ghi nhận. Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin và nhu cầu TCTT đối với con người và xã hội, quyền TCTT được quốc tế cũng như các quốc gia ghi nhận ở hai góc độ là quyền con người và quyền công dân. Thứ nhất, quyền TCTT luôn là một bộ phận không thể thiếu của quyền con người. Trong tất cả các công ước quan trọng về quyền con người như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966… đều ghi nhận quyền thông tin, quyền TCTT như một cấu thành căn bản. Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày 10 tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tực do giữ quan điểm không có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận cà chia sẻ các ý tưởng và và thông tin bằng bất kì bằng phương tiện nào mà không có giới hạn về biên giới”. Phát triển những nội trên, khoản 2 Điều 19 ICCPR cũng quy định: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can thiệp vào...” [24]. Mặc dù Điều 19 ICCPR không đề cập đến thuật ngữ “quyền tiếp cận thông tin” nhưng tại Bình luận chung số 34 của Ủy ban nhân quyền (HRC) đã đặc biệt lưu ý đến quyền tiếp cận các thông tin được nắm giữ bởi cơ quan nhà nước. HRC giải thích rằng, quyền này được bao hàm trong khoản 2 Điều 19 ICCPR. Theo đó, mọi người có quyền tiếp cận thông tin mà các cơ quan công quyền nắm giữ. Các thông tin ấy bao gồm các dạng hồ sơ do một cơ quan công quyền nắm giữ, bất kể hình thức lưu trữ, nguồn tin và ngày xác lập. Các cơ quan công quyền là các cơ quan được nêu trong đoạn 7 của Bình luận chung này bao gồm “Tất cả mọi nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư pháp) và các cơ quan công quyền và tổ chức của Chính phủ, dù ở cấp độ nào quốc gia, khu vực hay địa phương”. Quyền TCTT làm tăng tính chủ động của chủ thể có nhu cầu thông tin khi có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin phải cung cấp thông tin mà họ cần với điều kiện thông tin đó nằm trong giới hạn cho phép. Một điều cần lưu ý là quyền TCTT cũng chỉ có nghĩa là quyền tìm kiếm, tiếp nhận thông tin mà không bao gồm quyền chia sẻ, phổ biến thông tin được cơ quan nhà nước, các tổ chức và các nhân khác trong xã hội chia sẻ. Nó khác với thuật ngữ “quyền tự do thông tin”…hàm chứa một nội hàm rộng với nghĩa là công nhận và bảo hộ quyền của con người được tự do tìm kiếm, tiếp nhận, lưu giữ, phổ biến, sử dụng thông tin dưới tất cả các hình thức khác nhau với bất kỳ người nào khác. Như vậy, dưới góc độ quyền con người, quyền TCTT là quyền rất căn bản mà mọi người ở tất cả các quốc gia đều có quyền được hưởng. Đó là quyền được biết thông tin của Nhà nước, nắm bắt được những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục và những vấn đề khác trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích, đến 11 cuộc sống của họ nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận. Thứ hai, quyền TCTT là quyền cơ bản của công dân vì được pháp luật các nước ghi nhận trong Hiến pháp, được các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa. Chủ thể của quyền TCTT luôn là các cá nhân đặt trong mối quan hệ với nhà nước, và nhà nước là một bên bảo đảm thực hiện quyền này bằng pháp luật dựa trên mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với một nhà nước cụ thể. Ở Việt Nam, quyền TCTT được Hiến định trong nhóm quyền cơ bản của con người, công dân tại Điều 25, Hiến pháp 2013 “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” [35]. Đây không phải là lần đầu tiên Việt Nam hiến định về quyền TCTT, bởi quyền này trong Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 đã được ghi nhận với tên gọi là quyền được thông tin tại Điều 69. Tuy nhiên, khái niệm và nội hàm của quyền TCTT đến năm 2016 mới được giải thích một cách chính thức và đầy đủ trong Luật TCTT. Theo đó, Luật TCTT năm 2016 chỉ ra rằng TCTT là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra vì đây là loại thông tin được đánh giá là quan trọng nhất và đại diện cho loại thông tin mà các công dân bình thường đều cần đến khi thực hiện các quyếtđịnh có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Với tư cách là một quyền công dân, quyền TCTT là một trong những hình thức, phương thức, phương tiện để nhân dân làm chủ đất nước, thật sự tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Chỉ khi tiếp cận thông tin về hoạt động của bộ máy nhà nước một cách công khai, trung thực thì người dân mới có thể tham gia vào quản lý xã hội và thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình, quản lý, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, vừa nâng cao tính minh bạch, tính trách nhiệm trong hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa bệnh quan liêu, phòng ngừa tham nhũng. Như vậy theo ý nghĩa chung nhất, có thể hiểu quyền TCTT là quyền của mọi công dân được tiếp cận những thông tin được ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước. Công 12 dân có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức cung cấp những thông tin, tiếp cận những thông tin mà họ nắm giữ một cách dễ dàng và nhanh chóng mà không bị ngăn cản, hạn chế vì những lý do xuất phát từ ý chí chủ quan của những những người này hoặc những lý do ngoài các quy định của pháp luật. Từ những phân tích trên, tác giả nhận định: QTCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình là khả năng của người dân được tìm kiếm, tiếp nhận những thông tin về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm bảo đảm tiếp cận được các thông tin của các cơ quan quản lý là nước thông qua hệ thống phát thanh truyền hình từ trung ương đến địa phương. 1.1.1.2. Đặc điểm quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực phát thanh truyền hình Thứ nhất, quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình là một quyền hiến định và được bảo đảm về mặt pháp lý như quyền tiếp cận thông tin nói chung. Ở nhiều nước, quyền đối với thông tin đã được công nhận bởi Hiến pháp một cách cụ thể, trong khi ở các nước khác các toà án cấp cao đã giải thích những sự bảo đảm nói chung về tự do ngôn luận bao gồm cả quyền đối với thông tin. Tầm quan trọng của quyền đối với thông tin cũng được phản ánh trong xu hướng toàn cầu hướng tới việc ban hành pháp luật quốc gia nhằm mang lại hiệu lực cho nó. Bên cạnh việc hiện diện một cách độc lập trong các đạo luật đơn hành, quyền thông tin hay quyền được thông tin - với tư cách là một trong những quyền cơ bản của công dân - đã được ghi nhận trong rất nhiều bản Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới. Nhiều hiến pháp hiện đại quy định quyền thông tin như một quyền được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Các bản Hiến pháp có các quy định về quyền thông tin đã tăng nhanh một cách đáng kể, đặc biệt là các quốc gia đang chuyển đổi đều có quy định trong hiến pháp về quyền TCTT nói chung và trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình nói riêng, ở một số quốc gia mà Hiến pháp đã được ban hành từ lâu đời, đã sửa đổi Hiến pháp của mình để bổ sung một số quy định về 13 quyền TCTT. Ở Việt Nam, ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua bản Hiến pháp mới và Nghị quyết số 64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, Điều 25 Hiến pháp năm 2013 đã hiến định quyền TCTT. Quyền được thông tin của công dân quy định tại Điều 69 của Hiến pháp năm 1992 mới chỉ thể hiện một phần nội dung của quyền TCTT theo các chuẩn mực quốc tế về quyền tự do thông tin. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã chuyển từ quy định “quyền được thông tin” sang khẳng định công dân có “quyền TCTT”. Quy định về quyền TCTT của công dân trong Hiến pháp năm 2013 có nội hàm, ý nghĩa rất mới và phù hợp với xu hướng chung của thế giới so với Hiến pháp năm 1992: (1) Công dân có quyền tìm kiếm, sử dụng và truyền bá thông tin; (2) Công dân TCTT không chỉ thông qua hình thức công khai thông tin của cơ quan nhà nước mà còn có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin; (3) Đây là quyền của công dân, nhà nước có trách nhiệm ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm; (4) Quyền này của công dân chỉ bị hạn chế bởi luật trong trường hợp vì lý do an ninh, quốc phòng, vì đạo đức và sức khỏe cộng đồng (Điều 25 và Điều 14 Hiến pháp năm 2013). Việc thực hiện quyền TCTT do pháp luật quy định. Chính vì vậy, ngày 06 tháng 4 năm 2016, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật TCTT để thể chế hóa và và bảo đảm về mặt pháp lý việc thực thi quyền TCTT của công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 [35] [41]. Thứ hai, mối quan hệ hai chiều giữa chủ thể cung cấp thông tin và chủ thể thực hiện quyền TCTT trong lĩnh vực phát thanh - truyền hình Đặc điểm này xuất phát từ việc Hiến pháp của hầu hết các nước quy định nguyên tắc hiến định quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Để thực hiện nguyên tắc này, hầu hết Hiến pháp các nước thừa nhận bản chất tự nhiên của quyền con người, phân biệt quyền con người và quyền công dân; tôn trọng quyền con người, quan tâm, bảo vệ và bảo đảm lợi ích của con người; hiến định nguyên tắc trách nhiệm nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; giới hạn quyền con người, quyền công 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan