I.Quá trình hình thành và phát triển của công ty Xi Măng Hoàng
Thạch:
Cách đây 30 năm, nước ta vốn là một nước công nghiệp chậm phát triển lại vừa
trải qua cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, ác liệt, đời sống của nhân dân còn
nhiều khó khăn. Công nghiệp, nông nghiệp còn lạc hậu, quy mô nhỏ bé và thiếu
thốn về cơ sở vật chất. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước hoạch định chiến
lược phát triển kinh tế xã hội trong đó sự phát triển của ngành công nghiệp sản
xuất xi măng.
Ngày 15/12/1976, Phó Thủ Tướng Chính Phủ Đỗ Mười ký quyết định 474/TTg
“phê chuẩn nhiệm vụ thiết kế nhà máy Xi Măng Hoàng Thạch” (cho phép xây
dựng nhà máy) với tên gọi: Nhà Máy Xi Măng Hoàng Thạch. Địa điểm xây dựng
tại thôn Hoàng Thạch (xã Minh tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) và thôn
Vĩnh Tuy (xã Vĩnh Khê, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).
Hơn 3 năm, kể từ ngày Thủ Tướng Chính Phủ ra quyết định phê chuẩn nhiệm vụ
thiết kế, xây dựng Nhà Máy Xi măng Hoàng Thạch. Các đơn vị tham gia thi công
nhà máy đã xây dựng các hạng mục công trình được Thủ Tướng Chính Phủ giao.
Để có bộ máy lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ từng bước tiếp các hạng mục công
trình , tiến tới tiếp nhận toàn bộ nhà máy. Ngày 04/04/1980, Bộ Trưởng Bộ Xây
Dựng Đồng Sỹ Nguyên ký quyết định số 333/BXD-TCCB về việc thành lập nhà
máy Xi Măng Hoàng Thạch. Nhà máy xi măng Hoàng Thạch đặt trụ sở tại thôn
Hoàng Thạch, xã Minh Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Nhà máy là đơn
vị sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh theo chế độ hạch toán
kinh tế, với các nhiệm vụ tổ chức sản xuất các loại xi măng theo kế hoạch của
Liên Hiệp các xí nghiệp xi măng (nay là Tổng Công Ty Xi Măng Việt Nam), bảo
đảm kỹ thuật, chất lượng sản phẩm và an toàn lao động.
Cùng với tiến trình đổi mới và đi lên của đất nước, nhà máy xi măng Hoàng
Thạch ngày càng trưởng thành và phát triển. Từ khi bước vào sản xuất, nhà máy
1
luôn hoàn thành kế hoạch, sản lượng năm sau cao hơn năm trước, giữ được tín
nhiệm của thị trường. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, ngày
24/09/1992, chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Võ Văn Kiệt ký quyết định số
353/CT phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật: Mở rộng Nhà máy xi măng
Hoàng Thạch trên mặt bằng nhà máy hiện có, với diện tích dây chuyền II là 10
ha.
Ngày 28/12/1993, Nhà máy đã khởi công xây dựng dây chuyền II với công suất
thiết kế 1,2 triệu tấn xi măng/năm, đưa công suất của Nhà Máy từ 1,1 triệu tấn xi
măng/năm lên 2,3 triệu tấn xi măng/năm. Như vậy, nhà máy xi măng Hoàng
Thạch trở thành một cơ sở sản xuất xi măng lớn nhất cả nước.
Sau 10 năm đi vào sản xuất kinh doanh, Nhà Máy ngày càng lớn mạnh, đòi hỏi
phải có sự thay đổi trong quy mô sản xuất. Ngày 12/08/1993, Bộ trưởng Bộ xây
dựng ra quyết định số 363/QĐ-BXD thành lập “Công ty xi măng Hoàng Thạch”
trên cơ sở hợp nhất công ty kinh doanh Xi măng số 3 Hoàng Thạch với Nhà máy
xi măng Hoàng Thạch. Nhiệm vụ của công ty xi măng Hoàng Thạch lúc này
không chỉ đơn thuần là sản xuất xi măng mà còn có nhiệm vụ tổ chức kinh doanh
tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn 6 tỉnh phía Bắc và thủ đô Hà Nội.
Đi đôi với việc triển khai thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch được giao, Đảng bộ và
Ban lãnh đạo công ty còn triển khai thực hiện chỉ thị số 227/XMVN-ĐMQLDN
của tổng công ty Xi măng Việt Nam ngày 02/04/1999 về việc cổ phần hoá xưởng
may bao. Ngày 08/01/1999, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số
04/1999/QĐ-TTg về việc chuyển xưởng May Bao thuộc công ty xi măng Hoàng
Thạch thành công ty Cổ phần bao bì Hoàng Thạch, theo đề nghị của Hội đồng
quản trị Tổng công ty xi măng Việt Nam. Với tổng số vốn điều lệ là 6 tỷ đồng,
trong đó cổ phần Nhà nước là 1,21 tỷ đồng.
Sau khi tiến hành cổ phần hoá xưởng may bao thuộc công ty Xi măng Hoàng
Thạch thành công ty cổ phần bao bì Hoàng Thạch, được sự chỉ đạo trực tiếp cuả
2
Tổng công ty xi măng Việt Nam, công ty xi măng Hoàng Thạch tiếp tục cổ phần
hoá Đoàn vận tải thuỷ thành công ty cổ phần thương mại-dịch vụ-vận tải với tổng
số vốn điều lệ trên 6 tỷ đồng trong đó cổ phần Nhà nước 3,354 tỷ đồng.
Căn cứ Nghị quyết số 29/NQ-ĐU, ngày 18/02/2002 của Đảng uỷ công ty xi
măng Hoàng Thạch về công tác tổ chức công ty cổ phần thương mại-dịch vụ-vận
tải chính thức được thành lập và đi vào hoạt động.
Sau 25 năm sản xuất và kinh doanh, công ty xi măng Hoàng Thạch đã thực sự
trưởng thành. Giai đoạn bắt đầu sản xuất, công ty có 979 cán bộ công nhân viên,
trong đó Đại học 86 người, Trung học 89 người, công nhân kỹ thuật 664 người,
đến nay công ty có 2802 cán bộ công nhân viên, trong đó Đại học trên 477
người, công nhân kỹ thuật tay nghề từ bậc 4 trở lên là 1656 người. Với đội ngũ
công nhân viên chức tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, nâng cao trình độ đã vươn
lên làm chủ thiết bị công nghệ, công tác sản xuất ngày càng được chủ động đảm
bảo vận hành cả 2 dây chuyền an toàn hiệu quả sản lượng năm sau cao hơn năm
trước. Mỗi năm công ty sản xuất ra hàng triệu tấn xi măng có chất lượng cao, đạt
tiêu chuẩn ISO 9001 và ISO 14001 được các cơ quan chức năng trong nước và
quốc tế thừa nhận.
Công ty xi măng Hoàng Thạch đã đạt được những thành tích to lớn; được Đảng
và Nhà nước; các Bộ, ngành ở Trung ương, được các tỉnh uỷ, UBND hai tỉnh Hải
Dương và Quảng Ninh tặng hàng chục huân chương các loại, hàng trăm bằng
khen, cờ luân lưu, đặc biệt làn ngày 6/1/2005 công ty được phong tặng danh hiệu
“Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”.
II. Đặc điểm của công ty xi măng Hoàng Thạch:
1.Đặc điểm quy trình công nghệ:
Hoàng Thạch là một trong những nhà máy xi măng lớn và hiện đại nhất Việt
Nam, có tầm cỡ quốc tế.
3
Công ty xi măng Hoàng Thạch có lò nung Clinker kiểu quay, sản xuất theo
phương pháp khô, theo một chu trình khép kín với các giai đoạn sau:
a.Giai đoạn chuẩn bị nguyên liệu:
Các nguyên liệu chính để sản xuất xi măng là đá vôi và đá sét được khai thác ở
các mỏ gần công ty, ngoài ra còn sử dụng nguyên liệu điều chỉnh là quặng sắt và
quặng bô xít, lượng quặng sắt và quặng bô xít cho vào nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
thành phần hoá học có trong đá vôi và đá sét như: SiO2; CaO; Fe2O3; Al2O3…
Đá vôi được khai thác bằng phương pháp khoan nổ cắt tầng theo quy trình và quy
hoạch khai thác, đảm bảo chất lượng ổn định. Sau đó được vận chuyển tới trạm
đập nghiền và đưa vào kho chứa đồng nhất.
Quặng sắt và quặng bô xít được mua ngoài, vận chuyển bằng đường sông, tập kết
vào kho.
b.Giai đoạn nghiền liệu và đồng nhất:
Đá vôi, đá sét cùng các nguyên liệu điều chỉnh được đưa vào máy nghiền liệu
qua hệ thống cân cấp liệu tự động theo tỷ lệ kỹ thuật cho phép. Bột liệu sau khi
nghiền mịn được đưa tới hệ thống si lô, các si lô này vừa có tác dụng để chứa
đồng thời còn để đồng nhất bột liệu.
c.Giai đoạn nung Clinker:
Nhiên liệu để nung Clinker là dầu FO và than cám 3B. Phần than nguyên khai có
chất bốc cao được đưa vào máy sấy khô và chuyển về máy nghiền, nghiền thành
bột than mịn sau đó bằng hệ thống bơm khí nén về các đường ống dẫn chuyền về
két chứa ở lò nung, nó được phun vào lò dưới dạng bột khí linh động nhiều hay ít
tuỳ theo yêu cầu kỹ thuật của từng giờ. Dầu FO chỉ dùng để đốt sấy lò khi lò mới
trở lại hoạt động sau một thời gian dừng sửa chữa bảo dưỡng, còn sau khi lò hoạt
động ổn định người ta chỉ dùng than cho rẻ.
4
Bột liệu từ các si lô chứa trước khi cho và lò được đưa qua hệ thống sấy nóng
đến nhiệt độ 500-600oC mới đưa vào lò nung luyện vừa để tiết kiệm thời gian,
vừa tiết kiệm được than dầu. Khí nóng dùng để sấy bột liệu được tận dụng từ khí
thải trong lò ra của quá trình nung luyện trước đó. Bột liệu được nung đến vê
viên nhờ các vòng quay của lò và được vận chuyển, làm lạnh, rồi đưa tới si lô
chứa Clinker. Silô này vừa có tác dụng chứa, vừa có tác dụng ủ cho clinker đạt
được các khoáng quy định, vừa làm nguội clinker.
c.Giai đoạn nghiền xi măng:
Ở giai đoạn này có thêm nguyên liệu để nghiền clinker thành xi măng là thạch
cao với tỷ lệ 5% để điều chỉnh quá trình liên kết của xi măng trong thi công, còn
thêm một số phụ gia pha vào xi măng như sỉ than, đá silíc, đá đen…vừa có tác
dụng làm cho xi măng có màu đẹp, vừa thêm một số tính năng tác dụng khác như
chịu kiềm, chịu axít…và đặc biệt là pha thêm để hạ giá thành sản phẩm xi măng.
Các loại thạch cao và phụ gia kể trên đều được mua ngoài qua phương tiện
đường thuỷ và vận chuyển tập kết vào kho.
Clinker từ si lô chứa, thạch cao, phụ gia được tập kết vào các két chứa trước các
máy nghiền. Các nguyên, vật liệu này được đưa vào nghiền qua các cân tự động
theo tỷ lệ kỹ thuật quy định. Hỗn hợp này được nghiền mịn thành xi măng ở
nhiệt độ 120-150oC. Xi măng ra khỏi máy nghiền được vận chuyển tới hệ thống
silô chứa xi măng, vừa để chứa, vừa làm nguội và để ủ xi măng và chờ đóng bao
xuất xưởng.
d.Giai đoạn xuất xi măng:
Xi măng bột từ các xilô chứa được đưa tới 8 máy đóng bao (nếu xuất xi măng
bao), hoặc xuất thẳng nếu xuất xi măng rời. Xi măng sau đóng bao được đưa
thẳng tới các phương tiện vận tải đường bộ, thuỷ, sắt để xuất xưởng.
Công ty xi măng Hoàng Thạch sản xuất xi măng theo phương pháp khô, tiên tiến
hơn phương pháp ướt truyền thống mà các nhà máy xi măng đương thời đang sử
5
dụng, vì phải đồng nhất phối liệu trong môi trường nước rồi mới sấy khô. Do
vậy, phương pháp khô tiết kiệm được nước, nhiên liệu, thời gian.
Toàn bộ dây chuyền sản xuất từ khâu cấp nguyên liệu đến công đoạn nghiền,
đóng bao và xuất xi măng được điều khiển tự động hoàn toàn từ phòng điều
khiển trung tâm của công ty thông qua hệ thống các máy tính điện tử và thiết bị
vi xử lý. Kết quả thành phẩm nguyên liệu được phân tích quang phổ bằng tia
Rơnghen, xác định mỗi một giờ một lần, trên cơ sở đó máy tính điện tử sẽ phân
tích tính toán và điều chỉnh tỷ lệ phối liệu cho giờ tiếp theo.
Gần 300 thông số công nghệ như: nhiệt độ, áp suất, lưu lượng, vòng quay, tỷ lệ
các thành phần nguyên liệu, dòng điện, điện áp…được liên tục chỉ báo và ghi
chép một cách tự động tại phòng điều khiển nhờ hệ thống các đồng hồ tự ghi,
giúp người vận hành theo dõi, kiểm tra và xử lý khi cần thiết. Ngoài ra tại đây
còn có hệ thống các sơ đồ công nghệ được gắn đèn tín hiệu thể hiện tình trạng
hoạt động của từng thiết bị cùng với hệ thống Camera và truyền hình công
nghiệp quan sát được trên 10 vị trí trọng yếu của dây chuyền sản xuất giúp người
vận hành phát hiện các sự cố và phối hợp xử lý kịp thời.
SƠ ĐỒ QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT XI MĂNG
GIAI ĐOẠN 1: SẢN XUẤT BỘT LIỆU
Đất sét
Đập búa
Cầu trục
Kho đồng nhất sơ bộ
đá vôi và đất sét
6
Đập búa
Đá vôi
GIAI ĐOẠN 2:SẢN XUẤT CLINKER
Kho
-Cát
-Xỉ
-Than
Cảng
nhập
Kho đồng nhất sơ
bộ đá vôi và đất
sét
Cấp cát và xỉ
Sấy nghiền than
Sấy nghiền liệu
Két than mịn
Si lô đồng nhất
Cấp liệu vào lò
Lò nung Clinker
Sấy dầu
Sà lan
dầu FO
Si lô chứa Clinker
Bể dầu
FO
7
GIAI ĐOẠN 3: SẢN XUẤT XI MĂNG
Kho
-Phụ gia
-Thạch cao
Xilô chứa clinker
Két thạch
cao
cảng
nhập
Nghiền xi măng
xilô xi măng
máy đóng bao
xuất bao
ôtô
Két phụ
gia
xuất bao
đường thủy
xuất bao
đường sắt
Xuất xi
măng rời
2.Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh:
Công ty xi măng Hoàng Thạch là một doanh nghiệp nhà nước có quy mô tài
chính lớn ở Việt nam hiện nay, vấn đề quản lý vốn, kinh doanh sao cho có hiệu
quả tốt nhất đòi hỏi phải có một bộ máy quản lý tổ chức lãnh đạo giỏi, vừa
chuyên sâu từ các vấn đề tài chính, cung cấp vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu cho
sản xuất đến kế hoạch sản xuất và tiêu thụ.
8
Hiện tại để đáp ứng được yêu cầu đó, bộ máy tổ chức quản lý của công ty xi
măng Hoàng Thạch sử dụng phương thức tổ chức quản lý theo hình ô; tức là có
sự phân quyền lãnh đạo, các cấp lãnh đạo không tập trung hết quyền lực trong
tay mà giao một phần cho các bộ phần chức năng. Mô hình này sẽ giúp công ty
có tính chất linh hoạt cao, phản ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường.
Đứng đầu bộ máy quản lý là Giám đốc công ty: Giám đốc công ty do tổng giám
đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của Tổng Giám
Đốc. Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ty và chịu trách nhiệm trước tổng
công ty và pháp luật về điều hành hoạt động của công ty, Giám đốc có quyền
điều hành cao nhất trong công ty.
Giúp việc Giám đốc trong công tác quản lý là các phó giám đốc phụ trách theo
lĩnh vực công tác được phân công bao gồm:
-Phó giám đốc khai thác mỏ: chịu trách nhiệm quản lý chuyên sau kỹ thuật khai
thác đá, vận tải và tổ chức chỉ đạo công tác kỹ thuật, nghiệp vụ đối với xưởng xe
máy, xưởng khai thác đá và phòng kỹ thuật mỏ.
-Phó giám đốc cơ điện: Chịu trách nhiệm quản lý chuyên sâu về cơ khí, điện-điện
tử, tự động hoá và tiến bộ kỹ thuật để tổ chức sửa chữa và bảo dưỡng chế tạo,
thay thế, vận hành các thiết bị trong dây chuyền sản xuất xi măng và các thiết bị
khác đảm bảo thiết bị hoạt động ổn định, liên tục, đồng bộ, chất lượng tốt. Tổ
chức chỉ đạo công tác kỹ thuật nghiệp vụ đối với xưởng cơ khí, xưởng điện-điện
tử, phòng kỹ thuật cơ điện.
-Phó giám đốc sản xuất: chịu trách nhiệm quản lý chuyên sâu về công nghệ, tiến
bộ kỹ thuật để tổ chức sản xuất clinker, xi măng từ các nguyên liệu đá vôi, đá sét,
xỉ, thạch cao, than dầu và các loại vật tư khác, đảm bảo chất lượng sản phẩm
nhằm phục vụ nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao
9
nhất. Tổ chức chỉ đạo công tác kỹ thuật nghiệp vụ đối với xưởng xi măng, xưởng
đóng bao, xưởng nguyên liệu, phòng kỹ thuật sản xuất.
-Phó giám đốc kinh doanh-hành chính: chịu trách nhiệm về mọi hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh, quản lý phòng kinh doanh và trong lĩnh vực hành chính
quản trị, đời sống, y tế.
Các phó giám đốc giúp việc giám đốc theo sự phân công hoặc uỷ quyền của giám
đốc, chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giám đốc
phân công hoặc uỷ quyền.
Kế toán trưởng giúp việc giám đốc công ty chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế
toán, thống kê, tài chính của công ty và có nhiệm vụ quyền hạn theo quy định của
pháp luật.
Sau đó là đến các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ có chức năng, nhiệm vụ
tham mưu giúp việc cho Giám đốc bao gồm:
+Phòng kỹ thuật sản xuất: Quản lý chuyên sâu về công nghệ, tiến bộ kỹ thuật để
tổ chức sản xuất clinker, xi măng từ các nguyên liệu đá vôi, sét, xỉ, thạch cao,
than, dầu, và các loại vật tư khác, đảm bảo chất lượng sản phẩm nhằm phục vụ
nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao nhất.
+phòng kỹ thuật cơ-điện: Có chức năng quản lý chuyên sâu về cơ khí, điện-điện
tử, tự động hoá và tiến bộ kỹ thuật để tổ chức sửa chữa và bảo dưỡng, chế tạo
thay thế, vận hành các thiết bị trong dây chuyền sản xuất xi măng và các thiết bị
khác đảm bảo thiết bị hoạt động ổn định, liên tục, đồng bộ, chất lượng tốt nhằm
phục vụ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất.
+phòng Kỹ thuật mỏ: có chức năng quản lý chuyên sâu kỹ thuật khai thác đá, vận
tải và tổ chức chỉ đạo công tác kỹ thuật, nghiệp vụ đối với xưởng xe máy và
xưởng khai thác đá, nhằm nâng cao hiệu quả công tác khai thác vận chuyển, sửa
10
chữa phương tiện thiết bị xe máy dáp ứng kịp thời cho sản xuất kinh doanh của
công ty.
+phòng tổ chức lao động: có chức năng quản lý tổ chức nhân sự, lập kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ tay nghề. Xác định mức lao động và theo
dõi thời gian làm việc, theo dõi chi trả lương của cán bộ công nhân viên trong
toàn công ty.
+phòng kế hoạch: có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch, theo dõi thực hiện kế hoạch
cung ứng vật tư, sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm; tiến hành hợp đồng
kinh tế với các chủ thể ngoài công ty. Đồng thời tham mưu cho ban giam đốc chỉ
đạo kịp thời các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn với hiệu quả cao nhất.
+phòng vật tư: có nhiệm vụ mua sắm vật tư và tiếp nhận nguyên, nhiên, vật liệu
phục vụ sản xuất. Tham gia tư vấn cho ban giám đốc về lĩnh vực vật tư, phụ
tùng, nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào.
+ phòng hành chính quản trị: có chức năng quản lý nghiệp vự và tài sản thuộc
lĩnh vực hành chính, văn thư, quản trị dịch vụ và các loại phương tiện vận tải đưa
đón cán bộ lãnh đạo đi làm việc, công tác.
+Phòng kế toán: Có chức năng quản lý tài chính và giám sát mọi hoạt động kinh
tế tài chính trong công ty, tổ chức chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toánthống kê-thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế tài chính của nhà nước tại công
ty.
+Phòng đời sống: có chức năng quản lý và tổ chức các nhà ăn phục vụ cho 2 bữa
ăn chính của công nhân viên ở tập thể, các bữa ăn giữa ca, bữa ăn của khách đảm
bảo tiêu chuẩn, chất lượng, vệ sinh sạch sẽ, đồng thời quản lý các nhà trẻ mẫu
giáo, nuôi dạy trẻ.
11
+phòng y tế: có chức năng nhiệm vụ quản lý chăm sóc sức khoẻ, tổ chức phòng
bệnh, phòng dịch, vệ sinh môi trường, cấp cứu, khám bệnh và điều trị cho cán bộ,
công nhân theo khả năng chuyên môn và phân cấp của ngành y tế, phục vụ tốt
việc điều trị tại chỗ nhằm duy trì sức khoẻ cho toàn thể công nhân viên.
+Phòng điều khiển trung tâm: là trung tâm điều khiển toàn bộ máy móc và hoạt
động của nhà máy bằng hệ thống máy tính và các máy móc tự động hoá.
+Phòng thí nghiệm-KCS: chịu trách nhiệm kiểm tra chất lượng sản phẩm xuất ra
và nguyên liệu đầu vào.
+Phòng kinh doanh: có chức năng nhiệm vụ tổ chức, điều tra, nghiên cứu thị
trường, chịu trách nhiệm quản lý và tổ chức mọi hoạt động kinh doanh tại công
ty.
+Phòng bảo vệ quân sự: có chức năng nhiệm vụ bảo vệ trật tự an ninh, tài sản và
hạ tầng cở sở của công ty.
+Ban kỹ thuật an toàn: có chức năng nhiệm vụ quản lý về an toàn kỹ thuật và an
toàn môi trường.
+Tổng kho: chịu trách nhiệm quản lý tất cả các kho lưu trữ vật tư, thiết bị,
nguyên vật liệu.
+Tổ thẩm định: có chức năng trợ giúp giám đốc trong việc thẩm định lại giá vật
tư, phụ tùng, nguyên vật liệu mua vào, các hồ sơ đấu thầu xem có đúng với luật
pháp quy định hay không.
+Ban quản lý dự án dây chuyền 3: có chức năng quản lý và tổ chức toàn bộ hoạt
động liên quan đến việc xây dựng dây chuyền Hoàng Thạch 3.
+Xưởng điện-điện tử: chịu trách nhiệm sửa chữa thiết bị điện trong công ty.
+Xưởng cơ khí: chịu trách nhiệm sửa chữa thiết bị, máy móc phần cơ khí.
12
+Xưởng nước: Quản lý và sửa chữa các trạm bơm nước phục vụ cho sản xuất và
sinh hoạt của cán bộ công nhân viên trong công ty.
+Xưởng đóng bao, Xi măng, lò nung, nguyên liệu: quản lý và sửa chữa hệ thống
công nghệ thuộc công đoạn đóng bao, nghiền xi măng, lò nung, và nguyên liệu
đầu vào.
+Xưởng khai thác: chịu trách nhiệm và tổ chức các hoạt động nổ mìn khai thác
đá vôi, đá sét.
+Xưởng xe máy: có chức năng quản lý và sửa chữa xe, máy xúc, xe vận chuyển
trong công ty.
Tất cả các phòng ban chức năng trong bộ máy quản lý của công ty đều có thể
tham gia, tư vấn, góp ý kiến cho ban giám đốc về các lĩnh vực thuộc phạm vi đơn
vị mình quản lý, phụ trách; sao cho ban giám đốc ra được các quyết định chính
xác, hợp lý phục vụ cho công tác sản xuất kinh doanh của công ty đạt hiệu quả
cao nhất.
13
III. Thực trạng hoạt động của công ty Xi Măng Hoàng Thạch đến
năm 2005:
Công ty Xi Măng Hoàng Thạch đã và đang hoạt động được 25 năm, trong đó
năm 2005 là năm thứ 22 công ty sản xuất kinh doanh tiêu thụ sản phẩm theo chỉ
tiêu định hướng của nhà nước. Năm 2005 là năm kỷ niệm 25 năm ngày thành lập
công ty và đón nhận danh hiệu anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới…đồng
thời vì mục tiêu cùng với các đơn vị thành viên trong tổng công ty xi măng giữ
ổn định chất lượng, đáp ứng đủ và nhằm ổn định thị trường tiêu thụ xi măng
trong nước, tình hình hoạt động của công ty diễn ra như sau:
1.Tình hình sản xuất-kinh doanh đến năm 2005:
Khoảng 10 năm trở lại đây, công ty luôn sản xuất vượt mức kế hoạch đặt ra, năm
sau cao hơn năm trước. Công tác lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch luôn được
chú trọng. Để đảm bảo hiệu quả sản xuất, cùng với kế hoạch sản xuất tổng thể
các bản kế hoạch cụ thể về các mảng như: xây dựng cơ bản, sửa chữa lớn, vận
chuyển, mua sảm thiết bị lẻ, phụ tùng…. được song song lập và thực hiện để đảm
bảo thực hiện được kế hoạch sản xuất tổng thể. Cụ thể tình hình sản xuất- kinh
doanh của công ty trong năm 2005 như sau:
Kết quả sản xuất và tiêu thụ của năm 2005:
-Tổng sản lượng tiêu thụ đạt 3.534.205,211 tấn, bằng 100,4% kế hoạch năm.
Trong đó:
+xi măng : KH năm = 3.520.000 tấn; Thực hiện= 3.495.205,211 tấn, bằng
100,4%.
+Clinker: KH năm= 40.000 tấn; Thực hiện= 30.000 tấn, bằng 97,5%.
14
-Nộp ngân sách ước đạt: 135 tỷ đồng, bằng 103,8% kế hoạch năm.
-Lợi nhuận ước đạt:
275 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch năm.
a.về sản xuất:
Công ty đã tăng cường công tác quản lý, theo dõi bảo dưỡng thiết bị để xử lý
nhanh những sự cố về cơ, điện, công nghệ trên dây chuyền sản xuất để đưa thiết
bị trở lại hoạt động ổn định. Đồng thời công ty cũng tổ chức giám sát chặt chẽ hệ
số phối liệu từ khâu khai thác nguyên liệu đến khâu vận hành thiết bị để giữ phối
liệu ổn định. Công ty hiện nay đã nghiệm thu và đưa vào sử dụng hệ thống đếm
bao tự động nên đã tiết kiệm nhân lực và đảm bảo tính chính xác trong từng khâu
xuất hàng. Kế hoạch cung cấp phụ gia đồng thời cân đối từng loại phụ gia, thử
nghiệm khả năng hoạt tính, khả năng cải thiện màu sắc để xác định tỷ lệ pha tối
ưu đang được tích cực triển khai. Ngoài ra, công ty cũng đã triển khai sản xuất
thử thành công Clinker mác cao, tiến tới sản xuất đại trà để tăng tỷ lệ pha phụ
gia, giảm giá thành sản phẩm. Hiện nay, công ty đã sản xuất xi măng PCB40 để
đưa vào tiêu thụ tại thị trường miền nam nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường
đồng thời để đảm bảo giữ vững, ổn định thị trường truyền thống và từng bước
mở rộng thị trường tiêu thụ hơn nữa… (bắt đầu từ tháng 10/2005 ). Ngoài ra,
trong năm 2005, công ty còn tổ chức được nhiều chuyên đề khoa học có giá trị
mang lại hiệu quả kinh tế cao nhằm từng bước tháo gỡ khó khăn cho sản xuất của
công ty như: đề tài sử dụng quặng sắt Lạng Sơn, đề tài pha phụ gia từ 15%- 20%
trong sản xuất xi măng PCB40, đề tài nghiên cứu chế tạo lắp đặt lò đốt phụ cho
nghiền than K2…
Về sản phẩm gạch chịu lửa vẫn chưa mở rộng được thị trường tiêu thụ, các công
ty thành viên trong tổng công ty chưa quen sử dụng gạch nội và giá thành sản
xuất cao do giá nguyên vật liệu đầu vào cao, nên sản lượng tiêu thụ của nhà máy
vật liệu chịu lửa kiềm tính chưa cao. Nhưng nhà máy vật liệu chịu lửa kiềm tính
vẫn khắc phục những khó khăn do phải dừng sản xuất nhiều ngày để sửa chữa và
15
những khó khăn do nguồn nguyên vật liệu cung cấp cho sản xuất để tiếp tục sản
xuất, sản lượng vật liệu chịu lửa sản xuất và tiêu thụ đều đạt vượt kế hoạch đề ra.
b. về sửa chữa thiết bị:
Trong năm 2005, công ty đã quản lý tốt khâu sửa chữa thiết bị từ việc xây dựng
kế hoạch đến tổ chức thực hiện đúng qui trình , phát huy sáng kiến cải tiến kỹ
thuật để rút ngắn thời gian, đảm bảo chất lượng và tiết kiệm vật tư trong sửa
chữa. Khi dừng lò sửa chữa với khối lượng công việc lớn, công ty đã chủ động
kết hợp với công ty lắp máy và xây dựng 69.3, 69.1, công ty xây dựng 201 và các
đơn vị gia công chế tạo phụ tùng để tiến hành sửa chữa. Vì vậy các đợt dừng sửa
chữa đều đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng và đúng tiến độ đề ra. Chủ động
duy trì công tác vệ sinh, bảo dưỡng góp phần đưa thiết bị hoạt động ngày một ổn
định hơn, dài ngày hơn.
Ngoài việc sửa chữa thiết bị trong dây chuyền sản xuất chính, công ty thường
xuyên quan tâm kết hợp sửa chữa đồng thời các công trình kiến trúc, các thiết bị
xe máy, khai thác mỏ theo đúng kế hoạch tổng công ty giao góp phần ổn định sản
xuất.
c.công tác vật tư, phụ tùng:
Căn cứ vào kế hoạch sản xuất hàng tháng, tiến độ và thời gian sửa chữa lớn thiết
bị, công ty đã đảm bảo đầy đủ nguyên, nhiên vật liệu, vật tư, phụ tùng cho sản
xuất và sửa chữa thiết bị. Chất lượng vật tư, phụ tùng, nguyên nhiên vật liệu nhập
về được kiểm tra chặt chẽ, đảm bảo yêu cầu. Công tác phụ tùng luôn đợc quan
tâm theo dõi chặt chẽ, các đơn hàng phụ tùng nhập ngoại được rà xét và triển
khai sớm kịp thời phục vụ sản xuất. Phụ tùng đặt hàng trong nước chất lượng
ngày một nâng cao do tận dụng ưu thế về chất lượng từng loại phụ tùng đối với
từng đơn vị gia công chế tạo. Luôn tổ chức rà soát lại toàn bộ hệ thống thiết bị
công nghệ, thiết bị cơ, điện để có kế hoạch đặt hàng phụ tùng thay thế hợp lý đáp
ứng kịp thời nhu cầu sửa chữa.
16
Trong quá trình mua vật tư, phụ tùng, công ty luôn bám sát giá cả thị trường để
chỉ đạo việc mua sắm đảm bảo giá cả hợp lý theo đúng quy định của nhà nước và
chỉ đạo của tổng công ty xi măng Việt Nam. Ngoài những đối tượng và thị
trường mua sắm vật tư truyền thống, để đảm bảo mua được hàng với chất lượng
tốt và giá cả hợp lý, công ty đã mở rộng đối tượng và thị trường mua sắm thông
qua chào giá cạnh tranh và mời thầu rộng rãi góp phần làm hạ giá thành sản
phẩm. Trong năm 2005, công ty đã tổ chức kiểm kê, rà soát toàn bộ số vật tư,
phụ tùng tồn kho lâu ngày, mất, kém chất lượng, không sử dụng. Đã hợp đồng
thuê thẩm định chất lượng, thẩm định giá và dã bán thu hồi vốn về cho công ty.
d.về kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm:
Trong năm 2005, giá cả xi măng trên thị trường ổn định , không có biến động về
giá, đồng thời công ty đã thực hiện tiết kiệm chi phí bán hàng bình quân trên
10.000đ/tấn xi măng theo chỉ đạo của tổng công ty.
Mới đây, ngoài thị trường truyền thống , công ty còn mở rộng thêm thị trường tại
Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng và Hà Tây, đề ra biện pháp tiêu thụ tại các chi
nhánh phù hợp với cơ chế như: giao cho các chi nhánh ký kết với các đại lý hoa
hồng, đồng thời giao khoán gọn chi phí vận tải, bốc xếp và thu tiền trước khi xuất
hàng, tổ chức hội nghị khách hàng để đúc kết kinh nghiệm, phối hợp chặt chẽ với
các đơn vị thành viên trong tổng công ty…vì vậy, mà thu hồi vốn nhanh, không
để xảy ra nợ tồn đọng lâu hoặc thất thoát tài chính và hoàn thành kế hoạch tiêu
thụ đề ra.
e.về công tác xây dựng cơ bản:
Trong những năm qua, công ty đã thực hiện theo đúng các hạng mục công trình
được duyệt và theo đúng trình tự qui định hiện hành của nhà nước. Cụ thể năm
2005, tổng giá trị đầu tư xây dựng là: 175,545 tỷ đồng, theo kế hoạch đã được
tổng công ty duyệt là 16,723 tỷ đồng, thực hiện cả năm 2005 là: 14,726 tỷ đồng,
bằng 88,058% kế hoạch tổng công ty giao.
17
Trong đó: Dây chuyền I và các công trình đồng bộ đạt 4,328 tỷ, bằng 82,28%
KH; dây chuyền II đạt 9,258 tỷ, bằng 89,6% KH; dây chuyền II đạt 1,140 tỷ
đồng, bằng 100% KH tổng công ty giao.
Trong năm 2005, công ty tiếp tục triển khai thi công các công trình chuyển tiếp
từ năm 2004 sang và đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng các công trình như:
cải tạo mương thoát nước từ cổng chính nhà máy đến công trình 19.1, nhà làm
việc xưởng xi măng, gói thầu mua sắm thiết bị số 5 và số 7 cho xưởng khai thác.
Đồng thời công ty tiếp tục đôn đốc các công trình đang thi công dở dang như:
nhà xưởng điện-điện tử, lọc bụi 48.3 đảm bảo tiến độ bàn giao đưa vào sử dụng,
tiếp tục giải quyết các vướng mắc và hoàn chỉnh thiết kế, dự toán bổ xung kiến
thiết cơ bản mỏ Áng Dâu để bàn giao đưa vào sử dụng từ đầu năm 2006.
Dây chuyền Hoàng Thạch 3 về cơ bản đã xét thầu xong gói thầu thiết bị chính
giai đoạn 2.
f. công tác tổ chức, đào tạo và lao động tiền lương:
*Công tác tổ chức: Công ty đã thành lập tổ giám sát hợp đồng lixăng thuộc
phòng kinh doanh công ty từ tháng1/2005; chuyển giao nhiệm vụ phòng xây
dựng cơ bản và một phần của ban quản lý công trình cho các phòng kế hoạch,
phòng kĩ thuật cơ điện, phòng kĩ thuật sản xuất, phòng khai thác mỏ từ
01/6/2005; quyết định đổi tên xưởng xây dựng cơ bản nội bộ thành xưởng sửa
chữa công trình. Đã sắp xếp, điều động, đề bạt, ổn định tổ chức phù hợp với tình
hình hoạt động của cả 2 dây chuyền như:
+Bổ nhiệm mới 16 cán bộ gồm: 01 quản đốc; 04 phó quản đốc; 04 phó phòng
ban chi nhánh; 01 trưởng chi nhánh; 06 trưởng ca; thực hiện điều động luân
chuyển 04 cán bộ. Bổ nhiệm lại 31 trưởng phó phòng ban chi nhánh, quản đốc và
phó quản đốc; 12 trưởng ca.
+Tiếp nhận thêm 23 kỹ sư các ngành (điện, silicát, luật, trắc địa, cơ khí, kinh
tế..); 23 công nhân kỹ thuật, nghề vận hành thiết bị sản xuất xi măng; tuyển 06
lao động hợp đồng ngắn hạn để bổ sung cho số lao động nghỉ hưu tại phòng đời
18
sống công ty; tuyển dụng 21 con cán bộ công nhân viên công ty để đào tạo công
nhân kỹ thuật xây vá lò.
*công tác lao động, tiền lương: Công ty đã thực hiện việc giao khoán đơn giá
tiền lương năm 2005 cho các đơn vị trong công ty đồng thời thực hiện tốt công
tác chuyển đổi lương mới cho cán bộ công nhân viên theo nghị định
205/2005NĐ/CP; duyệt và trình duyệt quyết toán tiền lương, thưởng cho cán bộ
công nhân viên nhanh, đảm bảo tiến độ.
g.công tác quản lý tài chính:
Hoạt động tài chính trong năm 2005 của công ty luôn ổn định và lành mạnh.
Đồng vốn được bảo toàn và phát triển, quản lý và sử dụng đúng mục đích, đạt
được hiệu quả cao. Không để thất thoát tài sản, vật tư, tiền vốn, không để phát
sinh công nợ dây dưa, khó đòi. Trả nợ vay ngân hàng kịp thời, giảm số dư nợ vay
vốn lưu động. Thực hiện thanh toán nợ phải trả đối với khách hàng đúng quy
định của hợp đồng, không có nợ quá hạn.
Cụ thể năm 2005 các chỉ tiêu tài chính ước đạt ở mức cao, hoàn thành kế hoạch
được giao. Lợi nhuận ước đạt 275 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch năm, cao hơn
thực hiện năm 2004 là 47,752 tỷ đồng; nộp ngân sách ước đạt 135 tỷ đồng, bằng
103,8% kế hoạch năm và cao hơn thực hiện năm 2004 là 5,104 tỷ đồng.
h.công tác tiết kiệm:
Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm để tăng
cường sức cạnh tranh, công ty đã chỉ đạo và áp dụng nhiều biện pháp tiết kiệm
như: Tiết kiệm trong chi phí lưu thông, tiết kiệm trong mua vật tư, phụ tùng và
tiết kiệm trong chi phí văn phòng… Công ty đã đặc biệt chú trọng trong việc tiết
kiệm dầu, tăng tỷ lệ chạy than, tiết kiệm điện trong giờ cao điểm và làm tốt công
tác phối liệu để duy trì lò chạy dài ngày với năng suất cao. Nên năm 2005 giá trị
tiết kiệm dự tính đạt được khoảng 30 tỷ đồng.
19
2. Những vấn đề lớn còn tồn tại:
Trong thời gian hoạt động, công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ
nhưng kiểm điểm vào từng việc còn có những thiết sót tồn tại cần được khắc
phục như sau:
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế-xã hội của đất nước tương đối
ổn định , tốc độ đầu tư xây dựng tăng mạnh dẫn đến nhu cầu tiêu thụ xi măng
liên tục tăng. Trong khi đó điều kiện thiết bị dây chuyền 1 sau thời gian hoạt
động trên 20 năm đã xuống cấp và nhiều thời điểm phải hoạt động trên công suất
thiết kế mới đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của thị trường nên đã gây áp lực cho
tình hình sản xuất của công ty. Hơn thế nữa, đợt hạn hán trong năm 2005 vừa qua
dẫn đến việc cung cấp điện không ổn định, điều đó đã gây khó khăn đáng kể cho
tình hình sản xuất của công ty. Cùng lúc đó, trên thị trường giá vật tư đầu vào
cho sản xuất liên tục tăng (xăng dầu, sắt thép, vỏ bao…); Trong điều kiện kinh tế
cạnh tranh hiện nay, thực hiện chỉ đạo của tổng công ty, về việc hỗ trợ các đơn vị
thành viên trong tổng công ty đã làm tăng giá thành sản phẩm sản xuất của công
ty nhưng theo chỉ đạo của chính phủ thì sản phẩm xi măng vẫn không được tăng
giá nên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến một số chỉ tiêu tài chính của công ty.
Do là một thành viên trong tổng công ty xi măng Việt Nam nên vùng tiêu thụ
sản phẩm của công ty được tổng công ty chỉ định trước, chính điều này đã làm
hạn chế tính chủ động của công ty. Hoạt động tiêu thụ của công ty xi măng
Hoàng Thạch đang rất thụ động: giá cả, số lượng sản phẩm sản xuất và khách
hàng đang khá phụ thuộc vào tổng công ty. Ví dụ: năm 2005 vừa qua công ty tiếp
tục thực hiện hợp đồng Li xăng với công ty xi măng Hoàng Mai theo chỉ đạo của
tổng công ty, công ty đã nhường lại một phần thị trường khu vực miền trung cho
sản phẩm xi măng Li măng, nên đã ảnh hưởng đến sản lượng tiêu thụ sản phẩm
sản xuất tại công ty.
20
- Xem thêm -