Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, sự giao lƣu kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới theo xu hƣớng khu
vực hoá, toàn cầu hoá đang đánh dấu một bƣớc tiến quan trọng trong lịch sử phát triển
nền kinh tế thế giới. Các nƣớc không chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế của mình trong phạm
vi quốc gia mà còn tham gia vào các hoạt động kinh tế toàn cầu hoặc khu vực để tận
dụng mọi lợi thế so sánh. Hoà chung xu thế quốc tế hoá đó, Việt Nam đã thực hiện
nhiều chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ với các nƣớc trong khu vực
cũng nhƣ trên thế giới trong nhiều năm qua. Một trong những nỗ lực lớn nhất của Việt
Nam để hội nhập kinh tế thế giới là sự kiện ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) - một công cụ thƣơng
mại đa biên quan trọng nhất để điều chỉnh nền thƣơng mại quốc tế. Những bƣớc phát
triển mới này thúc đẩy các quan hệ thƣơng mại quốc tế đã và đang phát triển mạnh mẽ
giữa các thƣơng nhân Việt Nam và các chủ thể thƣơng nhân quốc tế. .
Thƣơng mại quốc tế có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nƣớc. Nó
thu hút vốn đầu tƣ của các nhà đầu tƣ vào Việt Nam, tạo cơ hội hợp tác kinh doanh đối
với các doanh nghiệp trong nƣớc, tạo việc làm với thu nhập cao cho ngƣời lao động, và
thúc đẩy một loạt các ngành dịch vụ trong nƣớc phát triển.
Trong hoạt động thƣơng mại quốc tế của Việt Nam những năm qua, các hoạt
động mua bán hàng hoá quốc tế đã có những bƣớc tiến vƣợt bậc, góp phần tích cực vào
sự tăng trƣởng và phát triển nền kinh tế đất nƣớc. Điều này khiến Nhà nƣớc ta luôn
quan tâm sâu sắc đến việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thƣơng mại quốc tế. Môi
trƣờng pháp lý thuận lợi, thông thoáng đƣợc coi là biện pháp tối ƣu để tăng cƣờng hiệu
quả trong hoạt động thƣơng mại quốc tế. Trong hoạt động này, mua bán hàng hoá quốc
tế đóng vai trò phổ biến và rất quan trọng. Cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền lợi và ràng
buộc trách nhiệm của các bên tham gia của việc mua bán hàng hoá này chính là hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Trong thời gian thực tập tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Vật tƣ khoa học kỹ
thuật Đông Dƣơng - Indochina, vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế của Công ty đã thu hút sự quan tâm của tôi. Qua nghiên cứu thực tiễn ký kết
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Công ty, đƣợc sự hƣớng dẫn tận
tình của thầy giáo PGS, TS Trần Văn Nam, tôi đã chọn đề tài: “Giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Công ty TNHH Vật tƣ khoa học kỹ thuật
Đông Dƣơng- Indochina” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Bố cục chuyên đề, ngoài phần mở đầu và kết luận, đƣợc kết cấu thành ba
chƣơng:
Chƣơng I: Các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Chƣơng II: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế tại Indochina.
Chƣơng III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giao kết
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Indochina.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian thực tập tại công ty để khảo
sát thực tế chƣa nhiều nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong chuyên đề thực
tập. Tôi rất mong nhận đƣợc sự quan tâm đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để
chuyên đề thực tập của tôi đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Hải Ninh
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
CHƢƠNG I:
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HOÁ QUỐC TẾ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
1.1. Khái niệm
Mua bán hàng hoá là hoạt động thƣơng mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận
(Điều 3 khoản 8- Luật Thƣơng mại 2005) Mua bán hàng hoá quốc tế là hoạt động mua
bán hàng hoá đƣợc thực hiện dƣới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất, tạm
xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Việc MBHHQT phải đƣợc thực hiện trên cơ sở hợp đồng
bằng văn bản, hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng (Điều 27- Luật
Thƣơng mại 2005)
Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hoá chính là hợp đồng. Hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế (MBHHQT) trƣớc hết là một hợp đồng mang đầy đủ đặc trƣng của
một hợp đồng mua bán hàng hoá, nhƣng có thêm yếu tố quốc tế. Tính quốc tế của hợp
đồng MBHHQT có thể đƣợc xác định bằng nhiều cách, đƣợc công nhận cả trên phạm vi
luật pháp quốc tế và phạm vi luật pháp quốc gia. Việc xác định yếu tố quốc tế này căn
cứ vào nơi kinh doanh hoặc nơi thƣờng trú của các đối tác, hay những tiêu chuẩn tổng
quát hơn nhƣ việc đánh giá hợp đồng “có quan hệ quan trọng tới nhiều quốc gia”, “liên
quan đến sự lựa chọn giữa luật của các nƣớc khác nhau”, hoặc “có ảnh hƣởng đến các
quyền lợi trong buôn bán quốc tế”(1) . Theo giả định của nguyên tắc hợp đồng thƣơng
mại quốc tế ( PICC- Principles of International Commercial Contracts) thì quan điểm về
các hợp đồng “quốc tế” nên đƣợc giải thích theo nghĩa rộng nhất, để loại trừ những
trƣờng hợp không liên quan đến yếu tố quốc tế, ví dụ khi tất cả các yếu tố cơ bản của
hợp đồng chỉ liên quan đến một quốc gia cụ thể.
Điều 1 Công ƣớc La Haye 1964 về mua bán hàng hoá quốc tế những tài sản hữu
hình, hợp đồng MBHHQT đƣợc định nghĩa: “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là
1“
Nguyên tắc hợp đồng thƣơng mại quốc tế” Ngƣời dịch: Lê Nết-NXB TP HCM 1999.
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
hợp đồng, trong đó các bên ký kết có trụ sở thƣơng mại ở các nƣớc khác nhau, hàng hoá
đƣợc chuyển từ nƣớc này sang nƣớc khác, hoặc việc trao đổi ý chí kí kết hợp đồng giữa
các bên ký kết đƣợc thiết lập ở các nƣớc khác nhau” Công ƣớc Viên 1980 của Liên hợp
quốc về hợp đồng MBHHQT đã gián tiếp định nghĩa loại hợp đồng này khi quy định
trong Điều 1: “Công ƣớc này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá đƣợc
ký kết giữa các bên có trụ sở thƣơng mại tại các quốc gia khác nhau”.
Ở Việt Nam, Luật Thƣơng mại 1997 đề cập đến “hợp đồng mua bán hàng hoá
với thƣơng nhân nƣớc ngoài” ở Điều 80, và chỉ đề cập đến những điểm khác biệt của
loại hợp đồng này thông qua sự khác biệt trong quốc tịch của các chủ thể tham gia hợp
đồng: “hợp đồng mua bán hàng hoá với thƣơng nhân nƣớc ngoài là hợp đồng mua bán
hàng hoá đƣợc ký kết giữa một bên là thƣơng nhân Việt Nam với một bên là thƣơng
nhân nƣớc ngoài”. Luật Thƣơng mại Việt Nam 2005 cũng chỉ đƣa ra quy định hình
thức hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là “thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn
bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng” (Điều 27.2)
Việc đưa ra một khái niệm rõ ràng, chính xác cho hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế chưa được quan tâm thích đáng trong khoa học pháp lý Việt Nam. Điều này có
thể do Việt Nam mới tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế và trong thực tiễn
chưa có vụ tranh chấp nào liên quan đến việc xác định luật áp dụng, căn cứ vào tính
quốc tế cuả hợp đồng(2). Một số tác giả đã đƣa ra khái niệm cho hợp đồng này trên tinh
thần của các công ƣớc quốc tế, các văn bản pháp luật mà Việt Nam đề cập. Tiến sỹ Phan
Thị Thanh Hồng – Đại học KT Đà Nãng đƣa ra khái niệm: “hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các thương nhân cớ trụ sở kinh doanh đặt ở các
quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng và
chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên khác gọi là Bên nhập khẩu và nhận thanh toán.
Bên nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán cho bên xuất khẩu, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hoá theo thoả thuận.”(3) Một khái niệm khá phổ biến nữa là của ông Vũ Hữu Tửugiảng viên cao cấp, già giáo ƣu tú Đại học Ngoại Thƣơng Hà Nội thì “hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế, còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng mua bán
ngoại thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác
2
Dƣơng Anh Sơn: “Tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thƣơng”. Tạp chí KHPL Số 6/2004, phiên
bản html: http://www.hcmulaw.edu.vn Ngày truy cập 6/3/2008.
3
Phan Thị Thanh Hồng: “Hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế”. NXB Lao Động 2005.
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (Bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở
hữu của một bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua) một tài sản nhất định gọi là
hàng hoá; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng”(4)….
Nhƣ vậy, ta có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống nhất về ý
chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có yếu tố nƣớc ngoài mà thông qua
đó, thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể đó
với nhau.
Yếu tố nƣớc ngoài trong hợp đồng mua bán hàng quốc tế đƣợc biểu hiện:
- Các bên tham gia giao kết hợp đồng MBHHQT là các thƣơng nhân có quốc tịch
khác nhau (nếu chỉ xác định tính quốc tế bằng cách này thì gặp nhiều khó khăn và đôi
khi không xác định đƣợc do pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau xác định quốc tịch
của pháp nhân không giống nhau) và có trụ sở thƣơng mại ở các nƣớc khác nhau (đây là
cách xác định theo Công ƣớc Viên 1980 đƣợc áp dụng rất phổ biến);
- Hàng hóa - đối tƣợng của hợp đồng đƣợc dịch chuyển qua biên giới quốc gia
hoặc giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể đƣợc thiết lập ở các nƣớc khác
nhau;
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc
chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá từ ngƣời bán sang ngƣời mua ở các nƣớc khác
nhau;
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là ngoại tệ đối
với ít nhất là một bên trong quan hệ hợp đồng;
- Luật điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, các điều ƣớc quốc tế và các tập quán
quốc tế khác về thƣơng mại và hằng hải.
1.2. Đặc điểm
- Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận có ý chí giữa các bên giao kết. Đây là
đặc trƣng rất cơ bản của một hợp đồng nói chung.
- Chủ thể của hợp đồng là bên bán và bên mua là các thƣơng nhân có trụ sở kinh
doanh đặt tại các quốc gia khác nhau. Nếu các bên không có trụ sở kinh doanh thì sẽ căn
cứ vào nơi cƣ trú của họ. Việc căn cứ vào quốc tịch của cá nhân ít đƣợc sử dụng do
không phổ biến và đôi khi gặp khó khăn ví dụ hai ngƣời trực tiếp ký vào hợp đồng đều
4
Vũ Hữu Tửu: “Hợp đồng mua bán quốc tế”.Bài viết hỗ trợ kinh doanh. http://laocai.com .Ngày 6/3/2008.
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
mang quốc tịch Việt Nam nhƣng đại diện cho các bên có trụ sở kinh doanh đặt tại các
quốc gia khác nhau, và hợp đồng này vẫn là hợp đồng MBHHQT.
- Đối tƣợng của hợp đồng là hàng hoá phải qua biên giới quốc gia (biên giới hải
quan) hay giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể đƣợc thiết lập ở các nƣớc
khác nhau; hoặc hàng hoá không phải qua biên giới nhƣng hàng đƣợc các tổ chức quốc
tế dùng ở lãnh thổ Việt Nam (sứ quán, công trình đầu tƣ nƣớc ngoài…). Thuật ngữ
“biên giới hải quan” được sử dụng xuất phát từ thực tiễn hình thành các kho ngoại
quan, các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế, và những quy chế hải quan đặc biệt dành
cho sự hoạt động của các khu vực này làm cho biên giới lãnh thổ không thật chính xác
để xác định ranh giới di chuyển của hàng hoá xuất nhập khẩu(5).
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc
chuyển giao quyền sở hữu của hàng hoá từ ngƣời bán sang ngƣời mua ở các nƣớc khác
nhau;
- Đồng tiền tính giá hoặc thanh toán không còn là đồng nội tệ của một quốc gia
mà là ngoại tệ đối với ít nhất một bên ký kết. Phƣơng thức thanh toán thông qua hệ
thống ngân hàng.
- Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng đa dạng và phức tạp. Không chỉ còn luật quốc
gia mà còn bao gồm các điều ƣớc quốc tế về thƣơng mại, luật nƣớc ngoài và các tập
quán thƣơng mại quốc tế.
- Cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là toà án, hay trọng tài
thƣơng mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại là
cơ quan nƣớc ngoài đối với ít nhất một trong các chủ thể.
2. Nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng MBHHQT có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật khác nhau
nhƣ các điều ƣớc về MBHHQT, các tập quán quốc tế về thƣơng mại, pháp luật của các
quốc gia… Việc nguồn luật nào điều chỉnh còn tuỳ vào từng trƣờng hợp cụ thể.
2.1. Điều ước quốc tế
Theo Công ƣớc Viên 1969 về Luật Điều ƣớc quốc tế: “Điều ƣớc quốc tế là tất cả
các văn bản đƣợc ký kết giữa các quốc gia và do Luật quốc tế điều chỉnh”. Vậy có thể
nói, điều ƣớc quốc tế về thƣơng mại là sự thoả thuận bằng văn bản giữa hai hoặc nhiều
5
Phan Thị Thanh Hồng: “Mộ số vấn đề cần lƣu ý nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế”. http://vietsmall.wordpress.com. Ngày truy cập 6/3/2008.
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
quốc gia ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhằm ấn định,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ thƣơng mại quốc
tế.
Trong lĩnh vực mua bán hàng hoá quốc tế có một số điều ước quốc tế tiêu biểu:
- Điều kiện chung về giao hàng giữa các tổ chức kinh tế của các nƣớc thành viên
Hội đồng tƣơng trợ kinh tế (ĐKCGHSEV 1968/1988) điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Một điều ƣớc quốc tế quan trọng trong lĩnh vực MBHHQT là công ƣớc Viên về
mua bán hàng hoá quốc tế ngày 1/1/1980. Đến nay đã có hơn 60 nƣớc phê chuẩn công
ƣớc này (Xem phụ lục 1)..
- Quy tắc La Hay ngày 15/6/1955 về Luật áp dụng vào hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế.
- Công ƣớc Rôma về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
đƣợc ký tại Rôm ngày 19/6/1980.
- Công ƣớc Liên Mỹ về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế đƣợc ký ở Mehico
City ngày 17/5/1994, đƣợc thông qua bởi Hội nghị quốc tế Liên Mỹ về tƣ pháp quốc tế
tổ chức tại Mehico City(6).
Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết hơn 60 Hiệp định thƣơng mại song phƣơng.
Trong đó phải kể đến: Hiệp định Buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU là hiệp định
thƣơng mại chứa đựng những điều khoản liên quan đến xuất xứ của hàng hoá, điều
khoản liên quan đến hạn ngạch (quota) và quy định danh mục mặt hàng. Việc ký kết các
hiệp định thƣơng mại, là thành viên của các công ƣớc quốc tế sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận
lợi và thống nhất cho hoạt động MBHHQT giữa các thƣơng nhân Việt Nam với các
thƣơng nhân nƣớc ngoài(7).
2.2. Luật quốc gia
Trong hoạt động thƣơng mại quốc tế, luật quốc gia áp dụng thông thƣờng là luật
của nƣớc bên bán, nhƣng cũng có thể là luật của nƣớc bên mua, có thể là luật của nƣớc
thứ ba, luật nơi ký hợp đồng, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ hợp đồng đƣợc thực
6
Nguyễn Vũ Hoàng: “Giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế bằng con đƣờng toà án” NXB Thanh Niên 2004.
Trang 23.
7
Trần Văn Nam - Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thƣơng mại quốc tế”. Đại học kinh tế
quốc dân. 2005. Trang 100.
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
hiện…(8) Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT trong các trƣờng
hợp:
- Các bên ký hợp đồng về việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng.
Việc thoả thuận áp dụng luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng phải đƣợc ghi trong
hợp đồng MBHHQT.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT đƣợc quy định trong
các điều ƣớc quốc tế liên quan xác định luật của một quốc gia đƣơng nhiên trở thành
luật áp dụng cho các hợp đồng đó. Thông thƣờng, luật quốc gia áp dụng sẽ là luật của
nƣớc bên bán, nhƣng cũng có thể là luật của nƣớc bên mua, có thể là luật của nƣớc thứ
ba, luật nơi ký kết hợp đồng, luật của nƣớc mà các bên mang quốc tịch,…
2.3. Án lệ
Án lệ hay tiền lệ pháp về thƣơng mại cũng đƣợc các thƣơng nhân tham gia ký kết
hợp đồng thƣơng mại quốc tế coi trọng và lựa chọn, đặc biệt là ở các quốc gia theo hệ
thống thông luật (Common law). Trong thƣơng mại quốc tế, việc công nhận và sử dụng
các phán quyết của toà án cũng nhƣ thừa nhận vai trò tích cực của án lệ đang ngày một
gia tăng tại các nƣớc có hệ thống pháp luật khác nhau. Cơ quan xét xử có thể vận dụng
án lệ tƣơng tự để giảm nhẹ những khó khăn phức tạp trong việc tra cứu, mà các tranh
chấp trong hoạt động thƣơng mại quốc tế thƣờng tập trung vào một số vấn đề và có
nhiều trƣờng hợp tƣơng đồng.
2.4. Tập quán thương mại quốc tế
Các tập quán thƣơng mại quốc tế hình thành từ rất lâu đời. Các tập quán này sẽ
trở thành nguồn luật đìều chỉnh các hợp đồng MBHHQT nếu các chủ thể tham gia ký
kết hợp đồng chấp nhận các tập quán thƣơng mại quốc tế sẽ là nguồn luật điều chỉnh.
Khi đƣợc dẫn chiếu vào hợp đồng MBHHQT, các tập quán thƣơng mại sẽ có
hiệu lực bắt buộc áp dụng đối với các chủ thể ký kết, chúng đƣợc chia thành nhóm: Các
(1)
tập quán có tính chất nguyên tắc; các tập quán thƣơng mại quốc tế chung và các tập
quán thƣơng mại khu vực. Ví dụ, một tập quán thông dụng trong mua bán quốc tế đƣợc
Phòng Thƣơng mại quốc tế (The International Chamber of Commerce - ICC) soạn thảo
và ban hành một tập quán thông dụng trong mua bán quốc tế là Incoterms (phụ lục 2).
8
Bùi Xuân Nhự (Chủ biên): “Giáo trình Tƣ pháp quốc tế”. ĐH Luật HN. NXB Công an nhân dân.1997. Tr 38-41
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
II. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG
ƢỚC VIÊN 1980
Công ƣớc này đƣợc ký kết ngày 11/4/1980 tại Viên (Áo). Ban đầu ký kết chỉ có 6
quốc gia thành viên. Số lƣợng các quốc gia phê chuẩn Công ƣớc ngày càng tăng lên và
đến nay đã có trên 60 quốc gia thành viên (phụ lục 1). Công ƣớc Viên là nguồn luật chủ
yếu để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hiện nay.
1. Phạm vi áp dụng
Công ƣớc Viên đƣợc áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên
có trụ sở thƣơng mại tại các quốc gia khác nhau. Theo Điều 1, Công ƣớc Viên chỉ coi
trọng nơi đặt trụ sở thƣơng mại chứ không chú ý tới quốc tịch của các bên tham gia hợp
đồng.
Công ƣớc đƣợc áp dụng khi các bên tham gia hợp đồng có trụ sở ở các quốc gia
là thành viên của Công ƣớc.. Công ƣớc cũng đƣợc áp dụng nếu chỉ có một bên có trụ sở
tại nƣớc phê chuẩn Công ƣớc, nhƣng quy định xung đột về luật điều chỉnh đã dẫn tới
việc áp dụng luật của nƣớc này ví dụ nhƣ khi các bên thoả thuận áp dụng luật của nƣớc
bên bán, mà nƣớc bên bán là thành viên của Công ƣớc; hoặc trƣờng hợp các bên thoả
thuận áp dụng luật của nƣớc thứ 3, mà nƣớc này là thành viên của Công ƣớc. Ngoài ra,
Công ƣớc cũng có thể đƣợc áp dụng khi hai bên không có trụ sở thƣơng mại tại nƣớc
thành viên Công ƣớc nhƣng lại thoả thuận áp dụng Công ƣớc. Trƣờng hợp này, Công
ƣớc cũng cho phép các bên có thể thoả thuận không áp dụng hoặc không áp dụng hoàn
toàn một điều khoản nào đó của Công ƣớc trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng(9).
2. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
2.2. Giao kết hợp đồng MBHHQT
2.2.1. Chào hàng (Offer order)
Chào hàng là “đề nghị về việc giao kết hợp đồng đƣợc gửi đích danh cho một
hoặc một vài ngƣời” (Điều 14). Có hai loại: chào hàng cố định –Firmed (ngƣời đề nghị
bày tỏ ý chí rằng buộc bởi lời đề nghị của mình nếu có sự chấp nhận); chào hàng tự do –
Free (đề nghị đƣợc gửi cho một hoặc nhiều ngƣời không xác định). Hiệu lực chào hàng
chỉ phát sinh khi chào hàng tới nơi ngƣời đƣợc chào hàng (Điều 15 khoản 1). Chào hàng
cũng có thể bị huỷ nếu thông báo của ngƣời chào hàng về việc huỷ chào hàng gửi đến
9
Trần Văn Nam - Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thƣơng mại quốc tế”. Đại học kinh tế
quốc dân. 2005. Trang 104 – 205
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
tới nơi ngƣời đƣợc chào trƣớc hoặc cùng lúc với chào hàng (Điều 15 khoản 2). Một
chào hàng sẽ mất hiệu lực khi ngƣời chào hàng nhận đƣợc thông báo về việc từ chối
chào hàng (Điều 17).
2.2.2. Chấp nhận chào hàng (Accept order)
Chấp nhận chào hàng là “một lời tuyên bố hay một hành vi khác của ngƣời đƣợc
chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng” (Điều 14.khoản 1). Sự im lặng hoặc không
hành động của ngƣời nhận đƣợc chào hàng không đƣợc coi là chấp nhận chào hàng.
Một chấp nhận chào hàng có hiệu lực pháp lý từ khi ngƣời chào hàng nhận đƣợc chấp
thuận chào hàng, và đƣợc gửi tới trong thời hạn mà ngƣời chào hàng đã quy định trong
chào hàng. (Điều 18 khoản 2).
Hợp đồng đƣợc coi là đã ký kết kể từ thời điểm sự chấp nhận chào hàng có hiệu
lực (Điều 23), và từ thời điểm này các bên có những quyền và nghĩa vụ đƣợc quy định
trong hợp đồng.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng
3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán
3.1.1. Nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng hoá
Công ƣớc Viên quy định về giao hàng và chuyển giao chứng từ liên quan đến
hàng hoá từ Điều 31 đến Điều 34 của Công ƣớc. Theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao
hàng và các chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua đúng thời gian. Thời gian
này là thời điểm mà các bên đã thoả thuận, nếu không thoả thuận cụ thể trong hợp đồng
thì có thể căn cứ vào hợp đồng để xác định đƣợc. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng
số lƣợng, chất lƣợng, quy cách phẩm chất nhƣ mô tả trong hợp đồng. Về địa điểm giao
hàng, nếu các bên không thoả thuận thì bên bán phải giao hàng theo quy định tại Điều
31 Công ƣớc.
3.1.2. Quyền của bên bán
Công ƣớc nêu rõ, bên bán có quyền đƣợc thanh toán theo những quy định trong
hợp đồng. Trƣờng hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ của mình thì bên bán có quyền thực
hiện những biện pháp bảo hộ pháp lý cũng theo quy định của Công ƣớc nhƣ sau:
- Yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hay thực hiện các nghĩa vụ khác của ngƣời
mua, trừ phi họ sử dụng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác không thích hợp với các
yêu cầu đó (Điều 62).
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
- Có thể chấp nhận cho ngƣời mua một thời gian bổ sung hợp lý để thực hiện
nghĩa vụ của họ (Điều 63 khoản 1).
- Tuyên bố huỷ hợp đồng trong các trƣờng hợp quy định tại Điều 64.
- Yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại theo quy định của Điều 74.
- Ngoài ra, bên bán có thể yêu cầu trả tiền lãi khi bên mua chậm thanh toán, theo
quy định Điều 78.
3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua
3.2.1. Quyền của bên mua
Bên mua có quyền thực hiện một số biện pháp để bảo vệ lợi ích của mình khi bên
bán vi phạm nghĩa vụ của họ. Một số biện pháp đƣợc quy định trong Công ƣớc là:
- Yêu cầu bên bán phải thực hiện nghĩa vụ của họ theo thoả thuận trong hợp
đồng. Ở đây có thể là yêu cầu bên bán cung cấp hàng hoá đúng thoả thuận trong trƣờng
hợp hàng hoá chƣa phù hợp; hoặc yêu cầu tiếp tục bổ sung hàng hoá nếu không đảm
bảo đủ số lƣợng; hoặc sửa chữa…
- Bên mua có thể cho phép bên bán thêm một thời hạn nhất định để thực hiện hợp
đồng nếu bên bán không đảm bảo đƣợc đúng thời hạn giao hàng (Điều 47).
- Bên mua cũng có quyền tuyên bố huỷ hợp đồng trong các trƣờng hợp bên bán
không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tạo thành một vi phạm cơ bản hợp đồng hay
khi bên bán không giao hàng trong thời hạn bên mua gia hạn thêm hoặc bên bán tuyên
bố sẽ không giao hàng trong thời bạn bổ sung đó (Điều 49).
3.2.2. Nghĩa vụ của bên mua
Điều 53 Công ƣớc Viên quy định: ngƣời mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng
và nhận hàng theo quy định của hợp đồng.
- Về thanh toán tiền hàng: bên mua phải trả tiền vào ngày thanh toán đã quy định
hoặc có thể đƣợc xác định theo hợp đồng và theo Công ƣớc, mà không cần phải có một
lời yêu cầu hay việc thực hiện một tục nào khác về phía ngƣời bán (Điều 59). Nghĩa vụ
thanh toán tiền hàng bao gồm việc áp dụng các biện pháp và tuân thủ các biện pháp mà
hợp đồng hoặc luật lệ đòi hỏi để có thể thực hiện đƣợc thanh toán.
- Về việc nhận hàng: Bên mua có các nghĩa vụ theo quy định của Công ƣớc Viên
tại Điều 60. Theo đó, bên mua phải thực hiện mọi hành vi tạo điều kiện cho bên bán
giao hàng và tiếp nhận hàng hoá.
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
4. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi
phạm hợp đồng phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết. Theo Công
ƣớc Viên, có các hình thức trách nhiệm pháp lý sau:
4.1. Tiếp tục thực hiện hợp đồng
Bên vi phạm hợp đồng phải tiếp tục thực hiện hợp đồng khi bên bị vi phạm vẫn
yêu cầu phải thực hiện đúng theo nghĩa vụ đó trong các trƣờng hợp:
- Khi bên bán chậm giao hàng: Nếu bên mua yêu cầu bên bán tiếp tục thực hiện
hợp đồng thì bên mua sẽ định ra một thời hạn để bên bán hoàn thành nghĩa vụ. Trƣờng
hợp bên mua không chấp nhận giao hàng chậm hơn thời hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng thì bên mua có thể yêu cầu huỷ hợp đồng và bồi thƣờng thiệt hại.
- Khi bên bán giao hàng thiếu số lƣợng: bên mua có quyền yêu cầu bên bán giao
hàng bổ sung cho đủ số lƣợng.
- Khi bên mua chậm thanh toán: Bên bán vẫn yêu cầu bên mua trả tiền theo hợp
đồng, và có thể yêu cầu phải trả thêm lãi suất cho số tiền chậm thanh toán.
- Khi hàng đƣợc giao không phù hợp hoặc không đúng theo quy định của hợp
đồng: Bên bán phải giao hàng thay thế hoặc sửa chữa khuyết tật nếu có trừ khi việc sửa
chữa là không hợp lý căn cứ vào tình tiết của sự việc (Điêề 46).
- Khi bên mua không nhận hàng theo hợp đồng: Bên bán yêu cầu bên mua phải
nhận hàng. Nếu trong thời hạn do bên bán ấn định mà bên mua vẫn không nhận hàng,
bên bán buộc phải huỷ hợp đồng và đòi bồi thƣờng thiệt hại phát sinh (Điều 62).
4.2. Bồi thường thiệt hại
Các thiệt hại mà bên vi phạm hợp đồng phải bồi thƣờng cho bên bị vi phạm:
- Những tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu;
- Những thu nhập bị bỏ lỡ do hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia;
Về tiền bồi thƣờng thiệt hại xảy ra do vi phạm hợp đồng, Công ƣớc Viên quy
định: “là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu
do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng”. Mức tiền này cũng không đƣợc cao hơn thiệt hại
thực tế và những khoản đáng lẽ thu đƣợc nhƣng bị bỏ lỡ.
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
4.3. Huỷ hợp đồng
Trách nhiệm pháp lý này chỉ áp dụng khi hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi
phạm tạo thành một hành vi nghiêm trọng. Tức là hành vi đó làm cho bên bị thiệt hại,
trong một chừng mực đáng kể bị mất đi cái mà họ chờ đợi trên cơ sở hợp đồng (Điều
25). Có thể liệt kê các trƣờng hợp mà hình thức pháp lý huỷ hợp đồng đƣợc áp dụng:
- Việc không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của hợp đồng tạo thành một vi phạm
chủ yếu đối với hợp đồng nhƣ: Giao hàng không đúng chủng loại đã quy định trong hợp
đồng; Hàng kém phẩm chất, hàng giao thiếu bộ phận nào đó mà việc giao thiếu này dẫn
đến việc không thể khai thác, sử dụng đƣợc hàng đã giao…
- Bên bán không giao hàng trong thời hạn gia hạn thêm của bên mua, hoặc bên
bán tuyên bố không giao hàng trong thời gian gia hạn thêm đó.
- Bên mua không trả tiền, hay không nhận hàng; hoặc tuyên bố không trả tiền,
hay không nhận hàng trong thời gian gia hạn thêm mà bên bán quy định.
III. CÁC ĐIỀU KIỆN GIAO HÀNG INCOTERMS VỚI HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
Điều kiện cơ sở giao hàng quy định những cơ sở có tính nguyên tắc của việc giao
nhận hàng hoá giữa bên bán với bên mua nhƣ: Sự phân chia bên bán với bên mua các
trách nhiệm tiến hành việc giao nhận hàng như các trách nhiệm: Thuê mướn công cụ
vận tải (thuê mướn tàu lưu cước…) bốc hàng, dỡ hàng, mua bảo hiểm, khai hải quan,
nộp thuế xuất khẩu, nộp thuế nhập khẩu v.v…; Sự phân chia giữa bên bán và bên mua
các chi phí về giao hàng như các chi phí chuyên chở hàng, chi phí bốc hàng, chi phí dỡ
hàng, chi phí lưu kho, chi phí mua bảo hiểm… Sự di chuyển từ người bán sang người
mua những rủi ro về tổn thất hàng hoá(10).
Những nội dung trên là cơ sở nảy sinh các thuật ngữ nhất định trong buôn bán
quốc tế nhƣ: Giao tại xƣởng (ex work), giao hàng trên tàu (free on board), tiền hàng +
phí bảo hiểm và cƣớc phí (cost insurance and freight)..v.v.. Nội dung của các điều kiện
giao hàng này khá rộng và mỗi nƣớc, mỗi khu vực có cách giải thích không hoàn toàn
giống nhau. Phòng Thƣơng mại quốc tế (ICC) đã tổng hợp, xuất bản bộ Incoterm
(International Commercial Terms- các điều kiện thƣơng mại quốc tế) nhằm xây dựng
các nguyên tắc giải thích các điều kiện thƣơng mại quốc tế để các bên có thể thoả thuận
áp dụng cho một hợp đồng mua bán. Mỗi điều kiện của Incoterms đƣợc chọn sẽ trở
10
Vũ Hữu Tửu: “Incoterms trong mua bán hàng hoá quốc tế”. Bài viết hỗ trợ kinh doanh. http://laocai.com Ngày
truy cập 6/3/2008.
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
thành một điều khoản của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế chứ không phải là của
hợp đồng chuyên chở hàng hoá.
Về cơ bản, Incoterms trả lời câu hỏi khi nào ngƣòi bán hoàn thành đầy đủ nghĩa
vụ giao hàng của mình. Những hậu quả do việc ngƣời bán không hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng không đƣợc đề cập trong Incoterms. Khi áp dụng Incoterms, các bên đƣợc
khuyến cáo là nên dẫn chiếu đến một phiên bản cụ thể để tránh những hiểu lầm không
cần thiết do có những sự khác biệt tƣơng đối giữa các phiên bản Incoterms đƣợc Phòng
Thƣơng mại quốc tế xuất bản lần đầu 1936, các bản sửa chữa, tái bản 1953, 1967,
1980,1990, và mới nhất là năm 2000. Nội dung cơ bản của các điều kiện giao hàng
đƣợc giải thích trong Incoterm 2000 bao gồm:
1. Nhóm điều kiện E
Nhóm này chỉ có một điều kiện: EXW (Giao hàng tại xƣởng – EX Work).
Theo điều kiện này, ngƣời bán phải: Đặt hàng dƣới quyền định đoạt của ngƣời
mua trong thời hạn và tại địa điểm do hợp đồng quy định. Nếu hợp đồng không quy
định về thời hạn thì thời điểm giao hàng sẽ là thời điểm thông thƣờng cho việc giao
hàng hoá đó. Nếu không có thoả thuận về địa điểm mà lại có nhiều địa điểm có thể giao
hàng thì ngƣời bán có thể chọn điểm giao hàng thuận tiện nhất cho mình. Ngƣời mua
phải nhận hàng tại xƣởng của bên bán, chịu mỏi rủi ro và phí tổn kể từ thời điểm nhận
hàng.
2. Nhóm các điều kiện F
Là nhóm điều kiện mà ngƣời bán phải tổ chức toàn bộ khâu vận tải để đƣa hàng
đến địa điểm quy định giao cho ngƣời vận chuyển, và không phải trả cƣớc chặng vận
chuyển. Ngƣời mua thuê phƣơng tiện vận chuyển và chịu chi phí cho chặng vận tải
chính. Cụ thể có ba điều kiện: Giao cho ngƣời chuyên chở (FCA- Free Carier); Giao
dọc mạn tàu (FAS - Free Alongside Ship); Giao lên tàu (FOB – Free on Board)
3. Nhóm điều kiện C
Là nhóm điều kiện mà ngƣời bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình tại
nơi gửi hàng, có thêm nghĩa vụ tổ chức vận tải hàng hoá và chịu chi phí vận tải cho
chặng vận chuyển quốc tế. Ngƣời bán chỉ chịu rủi ro đến khi họ hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng, tức là thời điểm hàng hoá đƣợc gửi đi. Ngƣời bán cần quan tâm đến ngày
giao hàng cho ngƣời vận chuyển chứ không cần quan tâm thoả thuận ngày hàng đến
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
nƣớc của ngƣời mua. Nhóm điều kiện này có hai nhóm nhỏ theo phƣơng thức vận tải:
vận chuyển bằng đƣờng biển:Tiền hàng và cước phí CFR – Cost and Freight; và Tiền
hàng, phí bảo hiểm và cước phí CIF – Cost, Insurance and Freight; vận chuyển bằng
mọi phƣơng tiện vận tải kể cả đƣờng biển và vận tải đa phƣơng thức: Cước phí trả tới
CPT – Carriage Paid To; và Cước phí và bảo hiểm trả tới CIP – Cost, Insurance Paid
to.
4. Nhóm đìều kiện D
Là nhóm điều kiện “nơi đến”. Tức là ngƣời bán sẽ hoàn thành nghĩa vụ giao hàng
của mình tại địa điểm đích đƣợc quy định trong hợp đồng. Nhóm D bao gồm 5 điều
kiện: Giao tại biên giới (DAF – Delivered At Frontier); Giao tại tàu (DES – Delivered
Ex Ship); Giao tại cầu cảng (DEQ – Delivered Ex Quay); Giao tại đích chưa nộp thuế
(DDU – Delivered Duty Unpaid); Giao tại dích dã nộp thuế (DDP – Delivered Duty
Paid)
IV. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Thời kỳ trƣớc năm 1997
Trong thời kỳ bao cấp với đặc thù là nền kinh tế tế kế hoặch hoá, nguyên tắc
“Nhà nƣớc độc quyền về ngoại thƣơng (hay thƣơng mại quốc tế)” là cơ sở pháp lý chủ
yếu của hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam. Nguyên tắc này đƣợc ghi nhận trong Hiến
Pháp năm 1946, năm 1959, và năm 1980 tại Điều 21 “Nhà nƣớc độc quyền về quản lý
hoạt động ngoại thƣơng và các quan hệ kinh tế quốc tế khác”.
Nguyên tắc Nhà nƣớc độc quyền về ngoại thƣơng thể hiện: Mọi hoạt động ngoại
thƣơng đƣợc tập trung trong tay Nhà nƣớc, chỉ có những tổ chức đƣợc Nhà nƣớc cho
phép mới đƣợc tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu; Nhà nƣớc quyết định và thực
hiện mọi đƣờng lối ngoại thƣơng thông qua bộ máy thống nhất trong cả nƣớc; Mọi hoạt
động ngoại thƣơng đƣợc tiến hành trên cơ sở kế hoạch chung về trao đổi hàng hoá với
nƣớc ngoài, đƣợc Nhà nƣớc hoạch định, kiểm soát và quản lý thống nhất từ trung ƣơng
đến địa phƣơng; Nội dung của nguyên tắc “Nhà nƣớc độc quyền ngoại thƣơng” đã chi
phối mọi hoạt động xuất nhập khẩu, là cơ sở, nền tảng pháp lý cho toàn bộ công tác xây
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
dựng pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu và tạo thành nét đặc trƣng của hoạt
động ngoại thƣơng trong thời kỳ này(11).
Thời kỳ trƣớc năm 1980, xuất phát từ nguyên tắc trên, mọi hoạt động xuất nhập
khẩu đƣợc Nhà nƣớc giao cho Bộ Ngoại thƣơng độc quyền thực hiện. Bộ lập những tổ
chức gọi là Tổng công ty xuất nhập khẩu đƣợc quyền trực tiếp trao đổi, mua bán hàng
hoá với nƣớc ngoài. Hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ này gần nhƣ bó hẹp trong
quan hệ với các nƣớc xã hội chủ nghĩa. Mọi vấn đề pháp sinh thƣờng đƣợc giải quyết
dựa vào các quy phạm pháp luật thống nhất quy định trong các hiệp định thƣơng mại và
đặc biệt và trong điều kiện chung giao hàng tay đôi giữa Việt Nam với từng nhà nƣớc
xã hội chủ nghĩa, sau này có thêm điều kiện chung giao hàng SEV – các nƣớc thuộc hội
đồng tƣơng trợ kinh tế. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu chƣa
hình thành.
Các bản điều kiện chung giao hàng là công cụ quan trọng trong việc điều tiết
xuất nhập khẩu Việt Nam với các nƣớc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là điều tiết những vấn
đề liên quan đến thủ tục giao kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu, hợp đồng nhập khẩu;
trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng; cơ quan xét xử tranh chấp; hay vấn đề áp
dụng luật…. Các tổ chức ngoại thƣơng của các nƣớc xã hội chủ nghĩa trong đó có các
Tổng công ty xuất nhập khẩu trên cơ sở các điều kiện chung giao hàng đã tiết kiệm
đƣợc thời gian đàm phán, loại bỏ những điểm bất đồng do có sự quy định khác nhau
trong hệ thống luật của mỗi quốc gia(12).
2. Thời kỳ từ năm 1997 đến năm 2005
Nếu nhƣ trong thời kỳ bao cấp với cơ chế “Nhà nƣớc độc quyền về ngoại
thƣơng” làm cho nền kinh tế đối ngoại chậm phát triển, thậm chí suy giảm trong một
thời gian dài thì khi chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng với cơ chế “Nhà nƣớc thống
nhất quản lý và mở rộng kinh tế đối ngoại…” (Điều 24- Hiến pháp 1992) đã thúc đẩy
hoạt động ngoại thƣơng phát triển mạnh mẽ sôi động hơn.
Để phù hợp vơi quá trình chuyển đổi nền kinh tế thị trƣờng với những đặc điểm
cơ bản của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, Việt Nam đã luật hoá các
11
Trần Văn Nam, Trần Thị Hoà Bình (đồng chủ biên): “Giáo trình luật thƣơng mại quốc tế”. Đại học Kinh tế
Quốc dân. NXB: Lao động xã hội 2005. Trang: 28-30.
12
Trần Văn Nam, Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thƣơng mại quốc tế”. Đại học Kinh tế
Quốc dân. 2005. Trang 30.
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
hoạt động thƣơng mại. Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 ngày 19/5/1997 đã thông qua
Luật Thƣơng mại 1997 (Sau đây gọi là Luật Thƣơng mại 1997), bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 01/01/1998. Luật Thƣơng mại 1997 ra đời đã thể chế hoá các đƣờng lối, chính
sách của Đảng, cơ chế quản lý thƣơng mại của Nhà nƣớc, trong đó có chính sách về
kinh tế đối ngoại. Riêng về hợp đồng mua bán hàng hoá với thƣơng nhân nƣớc ngoài,
Luật dành mục 2 Chƣơng II gồm 37 điều, Điều 82 cũng xác định hợp đồng mua bán
hàng hoá với thƣơng nhân nƣớc ngoài phải tuân theo các quy định về mua bán hàng hoá
của Luật. Các hành vi mua bán hàng hoá có nhân tố nƣớc ngoài cũng chịu sự điều chỉnh
của các quy định về mua bán hàng hoá nói chung, đƣợc quy định trong Luật.
Các vấn đề về điệu kiện hiệu lực của hợp đồng và giao kết hợp đồng, Luật
Thƣơng mại 1997 có quy định trong mục riêng dành cho hợp đồng ký kết với thƣơng
nhân nƣớc ngoài. Những nội dung chủ yếu của hợp đồng ngoại này sẽ theo quy định
trong Điều 50, tuân theo quy định của hợp đồng nói chung. Các vấn đề về trách nhiệm
pháp lý do vi phạm hợp đồng cũng tuân theo quy định đối với hợp đồng chung. Song,
lƣu ý là bên có quyền lợi bị vi phạm đƣợc lựa chọn một trong hai chế tài là phạt vi phạm
hoặc bồi thƣờng thiệt hại (khác với Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 28/9/1989 áp
dụng đồng thời hai hình thức trách nhiệm pháp lý đối với một hành vi vi phạm)
Cũng trong thời gian này, pháp luật Việt Nam đã có những sửa đổi khá cơ bản về
quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của thƣơng nhân (đến nay vẫn có hiệu lực) góp phần
thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển nhƣ: theo quy định tại Nghị
định số 33/CP ngày 19/4/1994, những doanh nghiệp chƣa có Giấy phép kinh doanh xuất
nhập khẩu không phải là chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thƣơng. Mọi hợp đồng
mua bán ngoại thƣơng do các doanh nghiệp này ký đều không có hiệu lực vì chủ thể ký
kết phía Việt Nam không hợp pháp. Và thực tế ở Việt Nam trong một thời gian đã tồn
tại những doanh nghiệp đƣợc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp
không đƣợc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu. Nghị định 57/1998/NĐ-CP có hiệu lực
pháp lý từ ngày 1/9/1998 đã tạo bƣớc đột phá trong quy định về quyền kinh doanh xuất
nhập khẩu đối với thƣơng nhân. Theo đó, thƣơng nhân là doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, thành lập theo quy định của pháp luật, đƣợc phép xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã
đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh, thành
phố, không phải xin Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ thƣơng mại. Và kể từ
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
ngày Nghị định 57 có hiệu lực pháp lý, các Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ
thƣơng mại đã cấp hết hiệu lực thi hành. Nhƣ vậy, theo Nghị định 57, quyền kinh doanh
xuất nhập khẩu đối với thƣơng nhân đã đƣợc mở rộng cho tất cả các doanh các doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Cục
Hải quan tỉnh, thành phố là đƣợc kinh doanh xuất nhập khẩu, không còn phải xin phép
Bộ thƣơng mại. Và cũng không còn sự phân biệt giữa doanh nghiệp đƣợc quyền và
doanh nghiệp không đƣợc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu nữa. Nghị định
44/2001/NĐ-CP đã tiếp tục mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho doanh nghiệp khi
quy định thƣơng nhân có thể xuất khẩu tất cả các loại hàng hoá không phụ thuộc vào
ngành nghề đƣợc ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ những hàng hoá
thuộc danh mục cấm xuất khẩu. Tuy nhiên, quyền kinh doanh nhập khẩu của doanh
nghiệp vẫn còn bị hạn chế. Cụ thể, thƣơng nhân chỉ đƣợc nhập khẩu những hàng hoá
theo ngành nghề, ngành hàng ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh…
3. Thời kỳ từ năm 2005 đến nay
Hoạt động thƣơng mại nói chung và hoạt động thƣơng mại quốc tế nói riêng
không ngừng phát triển cùng với xu hƣớng khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế. Về
hoạt động thƣơng mại quốc tế, trong 10 năm trở lại đây, hoạt động này ngày càng mở
rộng thêm nhiều lĩnh vực nhƣ sở hữu trí tuệ, đầu tƣ, dịch vụ… Ngày càng nhiều các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đƣợc hình thành, mặt hàng kinh doanh ngày
càng đa dạng…
Luật thƣơng mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005 thay thế cho Luật Thƣơng
mại 1997 đã góp phần tích cực trong khung pháp lý điều chỉnh hợp đồng thƣơng mại
quốc tế. Luật Thƣơng mại 2005 không tách rời hẳn một mục cho hoạt động mua bán
hàng hoá quốc tế nhƣ Luật Thƣơng mại 1997, mà quy định cùng với hoạt động thƣơng
mại trong nƣớc thành “các quy định chung đối với hoạt động mua bán hàng hoá”. Hợp
đồng thƣơng mại quốc tế cũng đƣợc đề cập trong Bộ Luật Dân sự 2005 phần quan hệ
dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Theo quy định của Luật Thƣơng mại 2005, hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế không chỉ dừng lại ở trƣờng hợp các bên giao kết hợp đồng có
quốc tịch khác nhau mà còn bao gồm những trƣờng hợp khác nhƣ một bên có trụ sở
kinh doanh ở nƣớc ngoài, hay mua bán hàng hoá ở khu chế xuất…
Cùng với Luật Thƣơng mại 2005, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày
23/01/2006 quy định chi tiết thi hành Luật Thƣơng mại về hoạt động mua bán hàng hoá
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nƣớc
ngoài đã góp phần củng cố khung pháp lý quy định cho hoạt động thƣơng mại quốc tế
nói chung và hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng.
Từ sau khi có Luật Thƣơng mại 2005, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của
doanh nghiệp cũng đƣợc mở rộng hơn nữa bởi sự ra đời của Nghị định 12/2006/NĐ-CP.
Nghị định 12/2006/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/5/2006 và thay thế cho Nghị định
57/1998/NĐ-CP và Nghị định 44/2001/NĐ-CP. Theo Nghị định 12, thƣơng nhân đƣợc
xuất khẩu nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh trừ
hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh
mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu.
Pháp luật Việt Nam cũng đã có sửa đổi khá cơ bản về yêu cầu đối với nội dung
của hợp đồng theo hƣớng phù hợp hơn với pháp luật quốc tế. Cụ thể:
- Theo quy định của Luật thƣơng mại năm 1997 đã hết hiệu lực thi hành kể từ
ngày 1/1/2006, hợp đồng mua bán hàng hoá phải có các nội dung chủ yếu là: tên hàng;
số lƣợng; quy cách, chất lƣợng; giá cả; phƣơng thức thanh toán; địa điểm và thời hạn
giao nhận hàng. Việc quy định hợp đồng phải có 6 nội dung không thể thiếu nhƣ trên
mâu thuẫn với nguyên lý cơ bản của pháp luật thƣơng mại, theo đó quy định các chủ thể
tham gia kinh doanh đƣợc tự do thoả thuận mọi giao dịch của mình. Mâu thuẫn rõ ràng
là giữa việc các chủ thể cùng lúc phải tuân thủ quy định bắt buộc gồm sáu nội dung của
hợp đồng với việc pháp luật đã trao cho các chủ thể quyền tự do thoả thuận hợp đồng.
Hơn nữa, Công ƣớc của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (gọi tắt
là Công ƣớc Viên 1980) hiện có hơn 60 nƣớc phê chuẩn quy định tối thiểu về các nội
dung bắt buộc này, chỉ xoay quanh ba điều khoản: tên hàng; số lƣợng và giá cả (Điều 14
Công ƣớc Viên 1980).
- Vì những lý do trên, để phù hợp hơn với pháp luật quốc tế cũng nhƣ tôn trọng
nguyên tắc tự do thoả thuận hợp đồng của các chủ thể, Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy
định khi ký kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau: Đối tƣợng
của hợp đồng; số lƣợng, chất lƣợng; giá cả, phƣơng thức thanh toán; thời hạn, địa điểm,
phƣơng thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng; phạt vi phạm hợp đồng; các nội dung khác (Điều 402). Rõ ràng, quy định
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
mới về nội dung của hợp đồng là nhằm giúp các bên xác định đƣợc thoả thuận cụ thể
giữa họ chứ không phải để ràng buộc hay hạn chế quyền tự do hợp đồng của họ.
4. Giao kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT theo quy định của Luật Thƣơng
mại 2005
4.1. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Làm thế nào để hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (MBHHQT) có hiệu lực
pháp lý là vấn đề đƣợc các bên giao kết hợp đồng đặc biệt quan tâm. Vì chỉ khi hợp
đồng giao kết giữa các bên có hiệu lực pháp lý thì quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên
mới đƣợc bảo đảm và thực hiện theo hợp đồng đã thoả thuận, và nếu có tranh chấp xảy
ra thì mới đảm bảo việc khiếu nại hay tố tụng đƣợc giải quyết trƣớc Toà án hay Trọng
tài. Các vấn đề cần quan tâm để hợp đồng MBHHQT có hiệu lực:
4.1.1. Giao kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện thoả thuận ý chí giữa các bên
Cơ sở tự nguyện thoả thuận ý chí giữa các bên ở đây chính là sự thuận mua vừa
bán. Ngƣời bán nhất chí giao hàng mà ngƣời mua muốn mua; ngƣời mua nhận hàng và
trả tiền theo cam kết. Hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp lý nếu việc giao kết không vi phạm
các trƣờng hợp ngăn cấm nhƣ: có sự cƣỡng bức, đe doạ; có sự lừa dối; có sự nhầm lẫn.
4.1.2. Điều kiện về chủ thể
Chủ thể của hợp đồng là các thƣơng nhân có trụ sở kinh doanh đặt tại các quốc
gia khác nhau và có đủ tƣ cách pháp lý. Trong đó, tƣ cách pháp lý của các thƣơng nhân
đƣợc xác định căn cứ theo pháp luật của nƣớc mà thƣơng nhân đó có trụ sở. Theo quy
định của Luật thƣơng mại 2005, thƣơng nhân bao gồm tổ chức kinh tế đƣợc thành lập
hợp pháp, các nhân hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên và có đăng
ký kinh doanh (Điều 6 Khoản 1). Thƣơng nhân nƣớc ngoài là thƣơng nhân đƣợc thành
lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nƣớc ngoài hoặc đƣợc pháp luật
nƣớc ngoài công nhận (Điều 16 Khoản 1)
Các doanh nghiệp chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Cục
Hải quan tỉnh, thành phố là đƣợc kinh doanh xuất nhập khẩu không còn phải xin phép
Bộ Thƣơng mại (nay là Bộ Công thƣơng). Không có sự phân biệt giữa doanh nghiệp
đƣợc quyền hay doanh nghiệp không đƣợc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu nhƣ trƣớc
đây nữa.
20
- Xem thêm -