TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
-------***-------
BÁO CÁO
TIÊU CHUẨN HÀNG HÓA VÀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ
PHÙ HỢP TRONG THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG MẠI
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 3
Lớp tín chỉ: TMA410(1-1718).1
Người hướng dẫn: TS. Phạm Thanh Hà
Hà Nội, tháng 11 năm 2017
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
MSV
Họ tên
1411120010
Ngô Phương Anh
1411120030
Bùi Thị Kim Dung
1411120050
Nguyễn Thị Thanh Hoa
1411120090
Dương Thị Hà Mi
Công việc
-
Phần 1.1, 2.2
Thuyết trình
Phần 1.4
Làm slide chương 1
Phần 2.1
Làm slide chương 2
Phần 1.2, 1.3
Thuyết trình
MỤC LỤC
I. Tổng quan về quy chuẩn và đánh giá sự phù hợp...............................................4
1.1 Tổng quan...........................................................................................................4
1.2 Các hệ thống đánh giá tiêu chuẩn quốc tế..........................................................6
1.3 Cơ sở hạ tầng đánh giá chất lượng quốc gia (NQI)...........................................9
1.4 Tác động của tiêu chuẩn sản phẩm...................................................................11
1.4.1 Đối với an toàn, sức khỏe của con người, động thực vật và môi trường
......................................................................................................................................11
1.4.2 Đối với việc nâng cao chất lượng và công nghệ.......................................12
1.4.3 Đối với thương mại...................................................................................12
II. Thực tiễn hoạt động thiết lập tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù
hợp của tiêu chuẩn tại các quốc gia.................................................................................14
2.1 Nguyên tắc và tập quán....................................................................................14
2.1.1 Những nguyên tắc cơ bản..........................................................................14
2.1.2 Tạo thuận lợi cho quá trình đánh giá sự phù hợp.....................................16
2.2 Kinh nghiệm từ thực tiễn..................................................................................19
I. Tổng quan về quy chuẩn và đánh giá sự phù hợp
1.1 Tổng quan
Có hai vấn đề như sau:
- Vấn đề về tiêu chuẩn:
Tiêu chuẩn sản phẩm đưa ra các đặc tính cụ thể của sản phẩm như kích thước,
hình dạng, thiết kế, chức năng, hay cách dán nhãn hoặc đóng gói. Những tiêu chuẩn
được áp dụng bởi các cơ quan chính phủ và mang tính bắt buộc thì thường được gọi là
quy chuẩn kỹ thuật hoặc vệ sinh và kiểm dịch thực vật (SPS), và được quản lý bởi
WTO thông qua Hiệp định TBT và Hiệp định SPS.
Số lượng quy tắc kĩ thuật đã gia tăng với tốc độ rất nhanh chóng và xu hướng gần
đây cho thấy rằng tốc độ đang tăng đáng kể. Số lượng rào cản kĩ thuật được thống kê
vào năm 2008 gấp đôi so với năm 2000.
Cụ thể, đối với các mặt hàng thực phẩm
- Các doanh nghiệp đều công nhận rằng các tiêu chuẩn kĩ thuật và kiểm dịch là
một trong những vấn đề lớn nhất của thuận lợi hóa thương mại. Các nhà xuất khẩu ở
các quốc gia đang phát triển phải đối mặt với những rủi ro bị giữ hàng khi hàng nông
sản của họ cập bến nước nhập khẩu vì lí do không đáp ứng được các tiêu chuẩn về mặt
vệ sinh và nguồn gốc. Vấn đề đặt ra, là đôi khi chính các tiêu chuẩn này bị đánh giá là
rất thiếu hợp lí. Và điều này gây khó khăn rất nhiều cho các doanh nghiệp xuất khẩu tại
các quốc gia đang phát triển.
+ Ví dụ, vào năm 2002, Úc đặt ra quy định rằng thịt gà nhập khẩu từ Thái Lan
phải được hun nóng trong vòng 143 phút tại nhiệt độ 70 độ C để tránh mầm bệnh. Tất
nhiên, quá trình làm nóng thịt gà như vậy làm ảnh hưởng rất xấu đến chất lượng thịt gà,
cũng như thị trường thịt gà nhập khẩu Thái Lan tại nước Úc.
+ Ví dụ thứ hai vào năm 2009 về sản phẩm tôm sú được nhập khẩu từ Thái Lan
vào thị trường Úc. Theo đó Úc yêu cầu tôm sú tới từ Thái Lan phải được kiểm tra các
vấn đề liên quan tới triệu chứng chấm trắng (white spot syndrome) và virus vàng ở đầu
(Yellow Head Virus).
- Vấn đề tiếp theo là vấn đề đánh giá sự phù hợp
Đánh giá sự phù hợp là việc xác định đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực tiêu
chuẩn và đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với đặc
tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý quy định trong tiêu chuẩn tương ứng và quy chuẩn kĩ
thuật tương ứng.
Đánh giá sự phù hợp bao gồm hoạt động thử nghiệm, hiệu chuẩn, giám định,
chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy, công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy,
công nhận năng lực của phòng thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức chứng nhận sự
phù hợp, tổ chức giám định.
Việc đánh giá sự phù hợp được thực hiện theo một trong các phương thức sau
đây:
a) Phương thức 1: Thử nghiệm mẫu điển hình;
b) Phương thức 2: Thử nghiệm mẫu điển hình kết hợp đánh giá quá trình sản
xuất, giám sát thông qua thử nghiệm mẫu lấy trên thị trường;
c) Phương thức 3: Thử nghiệm mẫu điển hình kết hợp đánh giá quá trình sản xuất;
giám sát thông qua thử nghiệm mẫu lấy tại nơi sản xuất kết hợp với đánh giá quá trình
sản xuất;
d) Phương thức 4: Thử nghiệm mẫu điển hình và đánh giá quá trình sản xuất;
giám sát thông qua thử nghiệm mẫu lấy tại nơi sản xuất và trên thị trường kết hợp với
đánh giá quá trình sản xuất;
đ) Phương thức 5: Thử nghiệm mẫu điển hình và đánh giá quá trình sản xuất;
giám sát thông qua thử nghiệm mẫu lấy tại nơi sản xuất hoặc trên thị trường kết hợp
với đánh giá quá trình sản xuất;
e) Phương thức 6: Đánh giá và giám sát hệ thống quản lý;
g) Phương thức 7: Thử nghiệm, đánh giá lô sản phẩm, hàng hóa;
h) Phương thức 8: Thử nghiệm hoặc kiểm định toàn bộ sản phẩm, hàng hóa.
Quy trình đánh giá sự phù hợp ở rất nhiều nước làm tăng đáng kể thời gian xuất
khẩu hàng hóa. Ví dụ như ở Thái Lan, thời gian để thực hiện các thủ tục đánh giá quy
chuẩn (bao gồm các khâu lấy mẫu, kiểm tra, giám định và các thủ tục khác) mất tới 30
ngày. Các nhà xuất khẩu tại các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, nhận thấy rằng rất khó khăn để có thể đáp ứng được các đánh giá tiêu
chuẩn từ các quốc gia phát triển. Lý do là vì họ thiếu những cơ sở hạ tầng có chất
lượng tại quốc gia của họ, ví dụ như họ thiếu các cơ sở có năng lực trong việc đánh giá
và cấp chứng nhận cho hàng hóa của họ ngay tại quốc gia của họ. Hơn nữa, việc có
được một chứng nhận từ nước ngoài cũng tốn kém chi phí, thời gian và sức lực.
1.2 Các hệ thống đánh giá tiêu chuẩn quốc tế
• ISO
ISO là tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (International Organization for
Standardization). Tổ chức phi chính phủ này được thành lập vào năm 1947, tại Thụy
Sĩ. Việt Nam tham gia tổ chức này vào năm 1977 và là thành viên thứ 77 ISO đưa ra
các tiêu chuẩn chung về quản lý công nghiệp và thương mại trên toàn cầu, giúp nâng
cao hiệu suất và hiệu quả của ngàn. Được xây dựng dựa trên sự đồng thuận trên toàn
thế giới, các tiêu chuẩn ISO giúp phá vỡ những rào cản mậu dịch quốc tế. Hiện tại, ISO
có rất nhiều bộ tiêu chuẩn khác nhau, trong đó 3 bộ tiêu chuẩn phổ biến nhất là:
-
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 (ISO 9000, ISO 9001, ...) là hệ thống tiêu chuẩn quản
-
lý chất lượng sản phẩm.
Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 (ISO 14001, ISO 14004, ...) là hệ thống tiêu chuẩn
-
quản lý môi trường.
Bộ tiêu chuẩn ISO 22000 (ISO 22000, ISO 22002, ISO 22003…) là hệ thống
tiêu chuẩn quản lý an toàn thực phẩm.
• IEC
IEC là Ủy ban Kỹ thuật Điện Quốc tế (International Electrotechnical Commission
- IEC), là một tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ, thành lập từ năm 1906.
IEC là một tổ chức hàng đầu thế giới chuyên xây dựng và ban hành các tiêu
chuẩn quốc tế cho tất cả các công nghệ điện, điện tử và công nghệ liên quan. Những
công nghệ này được gọi chung là “kỹ thuật điện”. IEC cung cấp một nền tảng chung
cho các công ty, ngành công nghiệp và chính phủ gặp gỡ, thảo luận và phát triển các
Tiêu chuẩn Quốc tế họ yêu cầu. IEC cũng quản lý các hệ thống đánh giá sự phù hợp
cho các sản phẩm, hệ thống và dịch vụ điện, điện tử đó là:
-
IECEE: Hệ thống thử nghiệm và chứng nhận sự phù hợp toàn cầu cho các
-
thiết bị và linh kiện kỹ thuật điện.
IECQ: Hệ thống đánh giá chất lượng của các linh kiện điện tử và các vật liệu
-
liên quan.
IECEx: Hệ thống chứng nhận với tiêu chuẩn liên quan đến thiết bị điện dùng
trong môi trường dễ cháy nổ.
Tất cả các Tiêu chuẩn Quốc tế của IEC đều được dựa trên sự thống nhất hoàn
toàn và đại diện cho nhu cầu của các thành viên chủ chốt của mỗi quốc gia tham gia
vào công việc của IEC. Mỗi quốc gia thành viên, dù lớn hay nhỏ, đều nắm một phiếu
bầu và có quyền lên tiếng đóng góp ý kiến về những điểm nên có trong một Tiêu chuẩn
Quốc tế của IEC.
Các ấn phẩm của IEC có thể dùng như nền tảng cơ bản cho tiêu chuẩn hóa quốc
gia và dùng như tài liệu tham khảo khi soạn thảo hồ sơ thầu và hợp đồng quốc tế.
• CODEX
CODEX là Tiêu chuẩn Thực phẩm Quốc tế, do Ủy ban CODEX - CAC (Codex
Alimentarius Commission) ban hành, bao gồm các tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế, các
hướng dẫn về thực phẩm và các tài liệu liên quan như quy phạm thực hành theo
Chương trình Tiêu chuẩn Thực phẩm của FAO/WHO.
Trong hệ thống tiêu chuẩn của CODEX hiện nay gồm có hơn 100 tiêu chuẩn,
hướng dẫn và quy phạm thực hành về an toàn vệ sinh thực phẩm, hơn 200 tiêu chuẩn
về chất lượng thực phẩm, 1.777 điều khoản về phụ gia thực phẩm, 3.086 điều về mức
dư lượng tối đa đối với thuốc bảo vệ thực vật, 481 điều khoản về mức dư lượng tối đa
đối với thuốc thú y trong thực phẩm.
• IAF
IAF là Diễn đàn công nhận quốc tế (International Accreditation Forum - IAF).
IAF quản lý những thỏa thuận về các lĩnh vực gồm các hệ thống quản lý, sản phẩm,
dịch vụ, nhân sự và các chương trình tương tự đánh giá sự phù hợp.
IAF hoạt động với hai mục đích cơ bản. Mục đích thứ nhất là đảm bảo các tổ
chức công nhận thành viên của diễn đàn chỉ công nhận cho các tổ chức đủ năng lực
thực hiện công việc và không nảy sinh xung đột lợi ích. Mục đích thứ hai là thiết lập
những thỏa thuận các bên cùng công nhận, gọi là Thỏa ước Công nhận lẫn nhau
(Multilateral Recognition Arrangements - MLA) giữa các tổ chức công nhận thành
viên, giúp giảm rủi ro cho doanh nghiệp và khách hàng thông qua đảm bảo chứng nhận
công nhận đáng tin cậy ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
MLA góp phần tăng sự tự do mậu dịch quốc tế thông qua việc loại trừ các rào cản
kỹ thuật để giao thương. Diễn đàn IAF hoạt động nhằm tìm ra phương thức hiệu quả
nhất để đạt được một hệ thống duy nhất cho phép các công ty có chứng chỉ đánh giá sự
phù hợp được công nhận ở một nơi nào đó trên thế giới cũng được công nhận ở bất kỳ
nơi nào khác trên thế giới. Mục tiêu của MLA chính là nhằm bao quát tất cả các tổ
chức công nhận tại tất cả các quốc gia trên thế giới, nhờ đó loại bỏ được nhu cầu chứng
nhận sản phẩm hay dịch vụ của các nhà cũng cấp ở mỗi quốc gia mà họ bán hàng hay
cung cấp dịch vụ. Chứng nhận một lần - được chấp nhận ở mọi nơi.
• ILAC
ILAC là Tổ chức công nhận Phòng thí nghiệm Quốc tế (International Laboratory
Accreditation Cooperation - ILAC). ILAC quản lý những thỏa thuận về công nhận
thanh tra và phòng thí nghiệm. Cả hai tổ chức IAF và ILAC hợp tác với nhau cùng nỗ
lực thúc đẩy công nhận và đánh giá sự phù hợp trên toàn thế giới.
• OIML
OIML là Tổ chức Đo lường Hợp pháp Quốc tế, là một tổ chức phi chính phủ, phi
lợi nhuận quốc tế hoạt động trong lĩnh vực đơn vị đo lường. OIML thúc đẩy sự hài hòa
toàn cầu các thủ tục đo lường hợp pháp, là nền tảng và tạo thuận lợi cho thương mại
quốc tế. Từ đó bảo đảm rằng chứng nhận phương tiện đo lường trong các quốc gia là
tương thích lẫn nhau, do đó tạo thuận lợi cho thương mại các thiết bị đo lường và các
sản phẩm dựa trên các thiết bị đo. Các sản phẩm này bao gồm các thiết bị nặng, taxi
mét, tốc độ kế, các thiết bị đo nông sản như đo độ ẩm ngũ cốc, các thiết bị y tế liên
quan như đo khí thải và nồng độ cồn.
OIML làm việc chặt chẽ với các tổ chức quốc tế khác như Văn phòng Cân đo
Quốc tế (BIPM), Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) để đảm bảo khả năng tương thích
giữa công việc của mỗi tổ chức. Các tổ chức không có thẩm quyền pháp lý để áp đặt
giải pháp lên các thành viên của nó, nhưng khuyến nghị của OIML thường được các
quốc gia thành viên sử dụng như là một phần của pháp luật trong nước của chính họ.
• BIPM
BIPM là Văn phòng Cân đo Quốc tế, là một trong ba tổ chức tiêu chuẩn quốc tế
được thiết lập nhằm duy trì Hệ đo lường quốc tế (SI) theo tinh thần Công ước Mét. Hai
tổ chức còn lại cũng có nhiệm vụ duy trì hệ SI là Hội nghị toàn thể về Cân đo (CGPM)
và Ủy ban Quốc tế về Cân đo (CIPM).
Căn cứ theo Công ước Mét, BIPM giúp đảm bảo tính thống nhất trong cân đo
theo SI trên phạm vi toàn cầu. Họ làm được điều này thông qua một chuỗi các ủy ban
tư vấn có thành viên là các phòng thí nghiệm đo lường quốc gia của các quốc gia thành
viên Công ước Mét, kết hợp với phòng thí nghiệm của chính BIPM.
BIPM tiến hành các nghiên cứu liên quan đến đo lường, tham gia và tổ chức các
so sánh mang tính quốc tế đối với các tiêu chuẩn đo lường của các quốc gia, đồng thời
còn thực hiện đo lường cho các nước thành viên.
BIPM có nhiệm vụ quan trọng trong công tác duy trì sự chuẩn xác của đo lường
thời gian trong ngày trên phạm vi thế giới. Họ kết hợp, phân tích và tính bình quân các
chuẩn thời gian nguyên tử chính thức từ các nước thành viên nhằm tạo ra một thời gian
chuẩn đơn nhất mang tính chính thức, được gọi là Giờ phối hợp quốc tế (UTC).
1.3 Cơ sở hạ tầng đánh giá chất lượng quốc gia (NQI)
Cơ sở hạ tầng đánh giá chất lượng (NQI) có thể hiểu là toàn bộ một khuôn khổ
thế chế được đưa ra để xây dựng, áp dụng và thực thi các tiêu chuẩn (bao gồm các hoạt
động giám định, thử nghiệm, cấp giấy chứng nhận và thủ tục công nhận), nhằm bảo
đảm tính phù hợp của hàng hóa, quy trình sản xuất hay dịch vụ; hạn chế các rào cản
thương mại và tạo điều kiện hợp tác về kỹ thuật. Để tạo nên một cơ sở hạ tầng như vậy,
thì các tổ chức trong đó phải cung ứng được những “đầu ra” dưới đây:
• Standardization
Là các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, biện pháp kiểm dịch (SPS), các văn bản
chính thức có chứa các yêu cầu mà một sản phẩm, quy trình, hoặc dịch vụ phải tuân
thủ. Các tiêu chuẩn chuẩn thường được nghiên cứu và công bố dưới sự bảo trợ của cơ
quan tiêu chuẩn quốc gia và phải phù hợp với những tiêu chuẩn, biện pháp của tổ chức
thế giới khác như: WTO, IEC hoặc ISO, …
• Metrology
Là các biện pháp khoa học, công nghệ. Metrology nhằm đảm bảo nhằm đảm bảo
sự chính xác của các biện pháp đo lường khi chúng có ảnh hưởng đến sự minh bạch
trong các giao dịch kinh tế, cũng như sự phù hợp của các công cụ đo lường được sử
dụng cho nganh công nghiệp, sản xuất hoặc giám định.
Metrology có thể được chia nhỏ như sau:
• Đo lường khoa học: là sự phát triển và tổ chức ở mức cao nhất của tiêu chuẩn đo
lường.
• Đo lường pháp luật: là sự đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của các phép đo khi
chúng có ảnh hưởng đến tính minh bạch của thương mại, thực thi pháp luật, sức khoẻ
và an toàn.
• Đo lường công nghiệp: là sự vận hành thỏa đáng của các dụng cụ đo được sử
dụng trong công nghiệp, sản xuất và thử nghiệm.
• Testing
Là việc xác định đặc tính của sản phẩm so với yêu cầu mà tiêu chuẩn đặt ra.
Trước đây, các phòng thí nghiệm của chính phủ là đơn vị chịu trách nhiệm chính tiến
hành các thí nghiệm. Tuy nhiên, hiện nay, khu vực tư nhân cũng đã tham gia tiến hành
việc kiểm nghiệm này.
• Certification
Là sự chứng minh, chứng nhận một cách chính thức rằng một sản phẩm, dịch vụ
của một tổ chức hoặc cá nhân đã đáp ứng được các yêu cầu tiêu chuẩn. Điều này đã trở
thành một hoạt động thương mại thường xuyên và thiết yếu, được cung cấp bởi cả tổ
chức cộng đồng và tư nhân.
• Accreditation
Là thủ tục mà theo đó một cơ quan thẩm quyền (cơ quan công nhận) chính thức
thừa nhận rằng một tổ chức có đầy đủ khả năng để cung ứng một dịch vụ nhất định (ví
dụ như thí nghiệm, kiểm tra, hoặc chứng nhận). Cơ quan công nhận đánh giá nhân sự
và hệ thống quản lý hỗ trợ của các đối tượng và có thể yêu cầu thí nghiệm hoặc các bài
kiểm tra thực tế khi có liên quan.
Hầu hết các nước đều có một cơ quan công nhận quốc gia duy nhất chịu trách
nhiệm về tất cả các lĩnh vực công nhận để hưởng lợi từ tính kinh tế theo quy mô, cũng
như thống nhất với các thỏa thuận quốc tế. Khi một quốc gia không có cơ quan công
nhận, các tổ chức muốn được chứng nhận có thể tìm kiếm sự công nhận từ các cơ quan
công nhận quốc tế.
1.4 Tác động của tiêu chuẩn sản phẩm
Khi được sử dụng hiệu quả, các tiêu chuẩn đóng một vai trò quan trọng trong
thương mại toàn cầu, góp phần nâng cao và tiếp thu công nghệ, bảo vệ người tiêu dùng
và môi trường. Dưới đây trình bày rõ hơn về tác động của các tiêu chuẩn đối với các
lĩnh vực vừa kể trên.
1.4.1 Đối với an toàn, sức khỏe của con người, động thực vật và môi trường
Bảo vệ an toàn và sức khoẻ con người và môi trường là một mục đích quan trọng
của các tiêu chuẩn sản phẩm. Ngoài ra chúng còn để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của
động thực vật; môi trường, người tiêu dùng khỏi các hành vi lừa đảo, chẳng hạn như
ghi nhãn sai lệch. Các quy chuẩn kỹ thuật này cũng được ban hành ở một số quốc gia
để đảm bảo chất lượng (ví dụ tiêu chuẩn về kích cỡ của một số loại trái cây và rau quả)
hay để thúc đẩy thương mại và hài hòa hóa kỹ thuật (ví dụ, tiêu chuẩn về thiết bị viễn
thông để đảm bảo tính tương thích).
Các tiêu chuẩn chất lượng và tiêu chuẩn an toàn tối thiểu cho phép người tiêu
dùng đánh giá chất lượng hoặc sự an toàn của sản phẩm trước khi mua và từ đó, các
nhà quản lý sẽ loại bỏ các sản phẩm không an toàn khỏi thị trường. Không tuân thủ các
tiêu chuẩn tham chiếu chất lượng quốc tế tối thiểu có thể sẽ để lại những hậu quả đáng
kể. Những ví dụ nổi trội có thể kể ra liên quan tới các vấn đề an toàn do nhập khẩu đồ
chơi, thức ăn thú cưng và dược phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc.
1.4.2 Đối với việc nâng cao chất lượng và công nghệ
Một NQI hiệu quả sẽ đem lại cho các doanh nghiệp cơ hội nâng cao chất lượng
sản phẩm của mình cũng như góp phần thay đổi công nghệ bằng cách tiếp cận với các
công nghệ được mã hoá khi các tiêu chuẩn giữa các đối tác thương mại được chia sẻ.
Các tiêu chuẩn đã chứng minh hiệu quả trong việc thúc đẩy việc áp dụng các đặc tính
của quy trình và sản phẩm mong muốn (độ tin cậy, độ bền, v.v ...) và cung cấp các lộ
trình để nâng cao chất lượng.
Ví dụ, tiêu chuẩn ISO 9001 của Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế cung cấp cho các tổ
chức một mô hình để theo dõi thiết kế, thực hiện và đánh giá các hệ thống quản lý chất
lượng.
Bởi thông tin thể hiện trong các tiêu chuẩn không độc quyền, nó tạo ra một tập
hợp các thông tin kỹ thuật có thể được chuyển giao giữa các công ty và các quốc gia,
do các doanh nhân, nhà khoa học và kỹ sư tự do tiếp cận và sử dụng để tạo ra các ý
tưởng và công nghệ mới.
Nếu thiếu đi các động lực và sự phối hợp kịp thời có thể dẫn đến việc thiếu đầu tư
vào việc xây dựng các tiêu chuẩn. Doanh nghiệp có thể sử dụng các tiêu chuẩn tương
thích đó để xác định thông số kỹ thuật của sản phẩm đối với đầu vào và đầu ra cụ thể
trong chuỗi giá trị toàn cầu như một công cụ chiến lược, chứ không áp dụng các tiêu
chuẩn như vậy để mở rộng quyền lực thị trường.
1.4.3 Đối với thương mại
Nhiều tiêu chuẩn đem lại lợi ích cho thương mại, được nhắc đến ngay sau lợi ích
cải thiện sức khoẻ, an toàn hoặc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, rào cản phi thuế quan
đối với thương mại dưới hình thức các yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật, cùng với biện
pháp SPS cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nhà kinh tế.
Các nhà sản xuất gia tăng chất lượng không chỉ giúp cải thiện sản phẩm và dịch
vụ, đáp ứng tốt các nhu cầu của người tiêu dùng mà còn gia tăng cơ hội mở rộng doanh
nghiệp sang thị trường xuất khẩu mới.
Ngày nay, khi càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào thương mại
quốc tế trong một loạt các lĩnh vực khác nhau, từ đó đòi hỏi các nhà cung cấp phải tuân
thủ các tiêu chuẩn được xác định bởi những người mua thống lĩnh trong chuỗi giá trị
toàn cầu. Số lượng các tiêu chuẩn này gia tăng không chỉ ảnh hưởng tới các doanh
nghiệp mà còn được chia sẻ trên toàn thế giới bao gồm các chuỗi cung ứng, các quốc
gia và các thành phần kinh tế. Các nhà sản xuất vì thế đòi hỏi cần phải có sự phối hợp
và giấy chứng nhận xuất hiện để đáp ứng các yêu cầu chất lượng. Theo đó, rất cần một
hệ thống toàn diện giữa các bên liên quan để tạo thuận lợi cho việc thiết lập, phổ biến
và chứng nhận các tiêu chuẩn.
Mặt khác, nếu các tiêu chuẩn không hợp lý, khó tìm hay khó xác định được chính
xác có thể gây cản trở thương mại. Việc sử dụng các tiêu chuẩn quốc gia cụ thể làm
cho lợi thế kinh tế toàn cầu theo quy mô trở nên khó khăn. Một số lượng lớn các tiêu
chuẩn sẽ gây thêm nhiều chi phí lên các doanh nghiệp. Theo Ngân hàng thế giới 2007
(WB2007), trong số các doanh nghiệp được khảo sát tại khu vực Mỹ La tinh, tại mỗi 1
thị trường xuất khẩu khác nhau, các doanh nghiệp đó lại phải tuân thủ các chi phí bổ
sung cho các tiêu chuẩn kỹ thuật, khiến chi phí của doanh nghiệp tăng thêm tới 10%.
WTO xác định bốn nguồn chi phí mà các nhà xuất khẩu phải chịu, là tác động từ
các tiêu chuẩn sản phẩm quốc gia khác nhau.
Thứ nhất, doanh nghiệp đó sẽ bị mất lợi thế kinh tế theo quy mô nếu như doanh
nghiệp đó phải điều chỉnh quy trình sản xuất để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật đa dạng
trong từng thị trường.
Thứ hai, việc tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật nói chung cần được tiến hành và
xác nhận thông qua các thủ tục đánh giá quy chuẩn (bao gồm các khâu lấy mẫu, kiểm
nghiệm, giám địnhvà nhiều thủ tục khác) mà những chi phí đánh giá sự phù hợp
thường này lại do nhà xuất khẩu gánh chịu.
Thứ ba, sự tồn tại của các tiêu chuẩn kỹ thuật gây ra các chi phí thông tin, bao
gồm chi phí liên quan đến đánh giá tác động kỹ thuật của các quy chuẩn quốc tế trong
quá trình sản xuất, dịch và phổ biến thông tin sản phẩm, và đào tạo chuyên gia.
Thứ tư, các nhà xuất khẩu có thể phải đối mặt với những chi phí không mong đợi
khác khi gặp phải các quy chuẩn mới, bởi họ thường có ít thông tin hơn, do đó ít thời
gian để điều chỉnh so với các công ty ở nước nhập khẩu.
Vì thế, việc Chính phủ tạo thuận lợi hóa thương mại bằng cách hài hòa các tiêu
chuẩn quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, chính phủ
cũng cần tạo điều kiện thuận lợi để phổ biến các tiêu chuẩn quốc tế và các tiêu chuẩn
của đối tác thương mại chủ chốt với các nền công nghiệp dẫn đầu.
II. Thực tiễn hoạt động thiết lập tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù
hợp của tiêu chuẩn tại các quốc gia
2.1 Nguyên tắc và tập quán
2.1.1 Những nguyên tắc cơ bản
Ở hầu hết các nước, số lượng các qui chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn bắt buộc áp
dụng ngày càng tăng lên. Xu hướng này cho thấy phản ứng của các chính phủ trước đòi
hỏi ngày một tăng của công chúng về mức độ đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và an toàn
của hàng nhập khẩu. Những đòi hỏi tương tự thường gây sức ép đối với các cơ quan có
chức năng khi xây dựng và áp dụng những qui định chặt chẽ hơn. Chính vì vậy, đối với
cùng một sản phẩm nhưng mỗi quốc gia có thể lại có các tiêu chuẩn và các qui định
riêng, khác biệt và điều này dẫn đễn các rào cản kỹ thuật trong lưu thông hàng hoá và
thương mại. Một khi các đối tác thương mại không dựa vào các tiêu chuẩn hài hoà,
tương đương thì họ sẽ phải theo đuổi và trả giá cho việc đáp ứng những yêu cầu kỹ
thuật riêng biệt của các quốc gia và khu vực. Do đó, để hạn chế tối thiểu các rào cản
thương mại không cần thiết có thể bị gây ra bởi các tiêu chuẩn này, khi chuẩn bị dự
thảo hay áp dụng các quy định về kĩ thuật hay biện pháp SPS thì những nguyên tắc sau
đây cần được tôn trọng và tuân thủ trong phạm vi rộng nhất có thể:
(1)
Không phân biệt đối xử
Các quy định kỹ thuật nên chấp nhận các sản phẩm được nhập khẩu từ bất kỳ
quốc gia nào, theo một cách không được kém thuận lợi hơn so với các sản phẩm tương
tự từ chính quốc gia mình, hay các quốc gia khác. Điều này phù hợp với nguyên tắc
không phân biệt đối xử được quy định tại Điều 1 GATT (Tối huệ quốc) và Điều 2 (Đối
xử quốc gia). Mặc dù vậy, khi xét đến các quy tắc trong SPS, ta có thể thấy sự linh hoạt
trong đó đã đi chệch khỏi nguyên tắc tối huệ quốc, khi mà mục đích của chúng là ngăn
chặn sự xâm nhập của thực vật, loài gây hại, hay bệnh dịch, do mức độ phổ biến của
những mầm mống có hại trên lại khác nhau ở mỗi quốc gia.
(2)
Tránh những trở ngại không cần thiết cho thương mại
Các quy định về kỹ thuật chỉ nên được tạo ra nhằm đáp ứng những mục đích
chính đáng (như là nhằm đảm bảo an ninh quốc gia; bảo vệ con người, động thực vật;
hay bảo vệ môi trường). Các tiêu chuẩn này nên được dựa trên các rủi ro nếu hàng hóa
không phù hợp. Mặc dù Hiệp định SPS không cấm các nước tự mình đưa ra các tiêu
chuẩn quốc gia nghiêm ngặt hơn so với tiêu chuẩn quốc tế, nhưng nếu làm vậy thì các
thành viên WTO phải đưa ra được lý do chính đáng. Hơn thế, trong một nỗ lực hạn chế
trở ngại không cần thiết, các quy định cần cụ thể hóa các yêu cầu về sản phẩm, hơn là
chỉ đưa ra mẫu thiết kế sản phẩm hoặc đơn giản là mô tả các yêu cầu.
(3)
Hài hòa hóa
Bản chất của hài hòa hóa tiêu chuẩn là làm cho các tiêu chuẩn của các nước về
cùng một đối tượng xích lại gần nhau vàng tốt (cả về thủ tục, quy trình xây dựng lẫn
nội dung, hình thức thể hiện và trình bày) nhằm xóa bỏ nhưng sự khác biệt gây ra các
rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với giao lưu khoa học – công nghệ và thương mại
quốc tế. Như đã được đề cập ở các phần trên, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia của mỗi
nước thường bao gồm những tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu
chuẩn khu vực và các tiêu chuẩn quốc gia do nước đó tự xây dựng. Như vậy, các tiêu
chuẩn quốc tế có thể được áp dụng một cách trực tiếp hoặc qua một quá trình điều
chỉnh sao cho “hài hóa” với điều kiện quốc gia. Đây là một cách để giảm chi phí cho
các doanh nghiệp sản xuất.
(4)
Minh bạch
Tính minh bạch này cần được thể hiện qua:
(i)
Cho phép một khoảng thời gian là ít nhất 60 ngày để các bên liên quan có
ý kiến nhận xét về bản tiêu chuẩn dự thảo
(ii)
Cung cấp bản sao dự thảo một cách kịp thời cho các bên liên quan kể cả
trong và ngoài nước, và chi phí các bên là như nhau, không kể đến chi phí vận chuyển
(iii)
Kết hợp các ý kiến nhận được trong bản tiêu chuẩn cuối cùng và giải
thích tại sao tiêu chuẩn đó lại được áp dụng chứ không phải một tiêu chuẩn quốc tế
chung.
(iv)
Ngay khi một tiêu chuẩn được đưa vào áp dụng thì phải kịp thời công bố
(v)
Thông báo cho các đối tác thương mại (thông qua WTO) và cho phép
một khoảng thời gian để các bên liên quan quen với tiêu chuẩn mới, trước khi nó đi vào
thi hành.
Bên cạnh đó, các quốc gia cũng cần thiết lập các cổng thông tin để trả lời các câu
hỏi liên quan đến quy định và thông báo cho các nước khác những quy định mới.
(5) Công nhận tương đương và công nhận lẫn nhau
Các quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật ở nước ngoài cần được công nhận là có giá
trị tương đương miễn là chúng đáp ứng được các mục tiêu của tiêu chuẩn quốc gia. Bất
cứ khi nào có thể, các quốc gia nên tiến hành việc công nhận quy chuẩn và tiêu chuẩn
lẫn nhau.
2.1.2 Tạo thuận lợi cho quá trình đánh giá sự phù hợp
Đối với đánh giá chứng nhận hợp chuẩn, việc lựa chọn phương thức đánh giá nào
là do tổ chức chứng nhận quyết định nhưng phải thích hợp với đối tượng chứng nhận
để đảm bảo độ tin cậy của kết quả đánh giá.
Căn cứ kết quả đánh giá sự phù hợp, tổ chức chứng nhận sẽ cấp giấy chứng nhận
hợp chuẩn cho đối tượng đã được đánh giá và quyền sử dụng dấu hiệu phù hợp trên sản
phẩm, hàng hóa, bao gói của sản phẩm, hàng hóa, trong tài liệu về sản phẩm, hàng hóa
đã được chứng nhận hợp chuẩn,
Để hạn chế những tác động tiêu cực mà quy trình này có thể gây ra cho thương
mại, đặc biệt là thương mại quốc tế, quy trình đánh giá sự phù hợp cần được tiến hành
theo các nguyên tắc cơ bản sau:
(1)
Hạn chế lượng thông tin cần cho việc đánh giá sự phù hợp và xác định
chi phí tới mức tối thiểu
Những thông tin được cung cấp cần được bảo mật triệt để, nhằm bảo vệ lợi ích
thương mại hợp pháp của người nộp đơn, bất kể đó là sản phẩm nội địa hay có nguồn
gốc nước ngoài. Lệ phí cho quy trình đánh giá sự phù hợp của sản phẩm, cần đảm bảo
được tính không phân biệt đối xử và nhất quán với việc ngăn chặn các rào cản không
cần thiết đối với thương mại. Quy trình xem xét các khiếu nại liên quan tới hoạt động
đánh giá sự phù hợp cũng nên được cân nhắc, nhất là cần phải có hành động khắc phục
khi khiếu nại đó được chứng minh là hợp lý.
(2)
Hoàn thành quy trình đánh giá sự phù hợp nhanh nhất có thể
Khoảng thời gian tiêu chuẩn cho mỗi quy trình đánh giá sự phù hợp nên được
công khai minh bạch. Bên cạnh đó, khi nhận đơn yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền nên
nhanh chóng kiểm tra các văn bản, chứng từ được cung cấp và thông báo cho bên nộp
đơn một cách chính xác và đầy đủ. Bên có thẩm quyền nên gửi kết quả đánh giá sớm
nhất có thể để tạo điều kiện cho các biện pháp khắc phục được tiến hành nếu cần thiết.
Không những vậy, các cơ quan được khuyến khích là nên hướng đến một hệ thống
đánh giá sáng tạo và linh hoạt để giảm thời gian “chờ đợi” của hàng hóa, mà vẫn đáp
ứng được yêu cầu bắt buộc từ quy trình đánh giá sự phù hợp. Ví dụ như vào năm 2001,
trong trường hợp xi măng Indonesia xuất khẩu sang Philippines, nếu kết quả giám định
mà người xuất khẩu cung cấp, được tiến hành bởi một phòng thí nghiệm được công
nhận bởi Tổ chức công nhận phòng thí nghiệm Châu Á Thái Bình Dương, đồng thời
kết quả đó được công nhận bởi Cục đo lường chất lượng Philippines, thì lô hàng xi
măng đó có thể được bán tại thị trường Philippines trong khi hàng mẫu vẫn đang trải
qua bài kiểm tra bắt buộc kéo dài 28 ngày tại phòng thí nghiệm ở Phiippines.
(3)
Đơn phương chấp nhận kết quả quy trình đánh giá sự phù hợp của các
quốc gia khác bất cứ khi nào có thể.
Điều này sẽ góp phần giảm bớt các rào cản thương mại không cần thiết là hệ quả
của việc thử nghiệm và chứng nhận trùng lặp. Bên cạnh đó, cũng mở rộng thị trường
trong nước, thúc đẩy cạnh tranh công bằng, và kết quả là người tiêu dùng có nhiều lựa
chọn hơn. Sự công nhận như vậy cũng bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng bằng cách
đảm bảo rằng các sản phẩm nhập khẩu không tốn thêm chi phí cho việc đánh giá lại.
Tuy nhiên, muốn vậy thì các quy trình đánh giá giữa các quốc gia cần có sự tương
đương nhất định.
(4)
Cho phép các cơ quan đánh giá sự phù hợp đặt tại nước ngoài được
tham gia vào quy trình này
Ngoài ra, các nước phát triển cần đặc biệt chú trọng đến các biện pháp sau đây để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu:
(1)
Tuân theo những hướng dẫn và khuyến nghị về đánh giá sự phù hợp,
được công bố bởi các cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc tế.
Việc sử dụng các quy trình chung, như các hướng dẫn, khuyến nghĩ hay tiêu
chuẩn quốc tế từ các cơ quan kiểm nghiệm, giám định và cấp giấy chứng nhận quốc tế
có thể góp phần đạt được sự minh bạch trong quy trình đánh giá sự phù hợp. Các quốc
gia đang phát triển cũng được khuyến khích tham gia vào công tác chuẩn bị dự trù cho
các hướng dẫn khuyến nghị sẽ được điều chỉnh bởi các cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc tế.
Lý do là vì các quy trình được chấp nhận bởi các quốc gia nhập khẩu có thể ảnh hưởng
lớn đến khả năng cạnh tranh của các nhà xuất khẩu trong thị trường này.
(2)
Tích cực đàm phán các Thỏa thuận công nhận lẫn nhau (Mutual
Regconition Agreement – MRA)
Các thỏa thuận công nhận giữa các chính phủ, về các quy trình đánh giá sự phù
hợp, sẽ là tiền đề để loại bỏ việc kiểm định hay cấp giấy chứng nhận trùng lặp. Ở khu
vực châu Á – Thái Bình Dương, Thỏa thuận công nhận lẫn nhau của Tổ chức công
nhận phòng thí nghiệp châu Á Thái Bình Dương (APLAC) đến nay bao gồm 27 cơ
quan công nhận ở 15 quốc gia trong khu vực. MRA này cho phép các báo cáo kiểm tra,
giám định và giấy chứng nhận từ quốc gia xuất khẩu cũng sẽ được chấp nhận ở nước
nhập khẩu. Từ đó giảm chi phí, và thời gian cho việc tái kiểm tra, tái giám định hay tái
chứng nhận. Không thể phủ nhận công tác công nhận lẫn nhau đang ngày càng được
nhìn nhận như một bằng chứng của việc hoàn thiện quy trình đánh giá sự phù hợp, tuy
nhiên các cơ quan công nhận không thể bắt buộc chính quyền trong nước phải chấp
nhận một giấy chứng nhận đã được cấp bởi một phòng thí nghiệm nước ngoài hay một
cơ quan giám định có tên trong MRA. Rõ ràng quyết định có chấp nhận hay không
hoàn toàn thuộc quyền hành của chính phủ đó.
(3)
Phát triển một hệ thống công nhận quốc gia, được chấp thuận trên phạm
vi quốc tế
Như đã được đề cập ở trên, cơ quan công nhận quốc gia là một phần quan trọng
trong cơ sở hạ tầng chất lượng quốc gia, vì nó có trách nhiệm xác nhận khả năng của
các cơ quan đánh giá sự phù hợp như các phòng thí nghiệm, địa chỉ cung cấp giấy
chứng nhận hay kết quả kiểm nghiệm cho các nhà xuất khẩu. Trong khi hệ thống công
nhận quốc gia đóng vai trò rất lớn trong việc làm tăng khả năng cung ứng cũng như
chất lượng của các dịch vụ đánh giá, thì lý tưởng hơn là hệ thống này cũng được các
quốc gia khác công nhận.
2.2 Kinh nghiệm từ thực tiễn
Kinh nghiệm của vùng châu Á Thái Bình Dương trong việc thực hiện tiêu chuẩn
hóa và đánh giá tiêu chuẩn
Các nước ASEAN đã đạt được sự đồng thuận rất triển vọng liên quan tới quy
trình đánh giá quy chuẩn. Cụ thể, vào năm 1998 các quốc gia ASEAN đã kí một khung
thỏa thuận của MRAs (thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau). Ba mặt hàng trong MRAs lần
lượt là các thiết bị điện tử điện lạnh, điện tử viễn thông và hóa mĩ phẩm được kí kết
một vài năm sau đó. Trong đó, các quốc gia thành viên được yêu cầu phải chấp nhận
các báo cáo kiểm tra (test report) hoặc các chứng chỉ đã được phát hành bởi các phòng
thí nghiệm trước đó. Điều này giúp giảm chi phí kiểm tra cũng như làm giảm gánh
nặng lên hệ thống kiểm tra và chứng chỉ trong tất cả các quốc gia ASEAN.
Hơn thế nữa, thỏa thuận chấp nhận lẫn nhau MRA giữa ASEAN cho mặt hàng
điện tử điện lạnh cũng cho phép và công nhận hiệu lực đối với các báo cáo kiểm tra và
chứng chỉ được phát hành bên ngoài các quốc gia ASEAN, với điều kiện các kiểm tra
đó phải được thực hiện bởi một bên thứ ba đã được hội đồng đánh giá tiêu chuẩn
ASEAN (CABs) thừa nhận và quy định. Vì vậy, một khi hoàn thành được điều kiện
nêu trên, thì hàng hóa nhập khẩu sẽ không còn phải chịu bất kì một quy trình đánh giá
tiêu chuẩn nào nữa khi thông quan vào nước nhập khẩu.
Hệ thống cung cấp chứng chỉ điện tử cho sản phẩm nông nghiệp ở New Zealand
Chứng chỉ điện tử hay còn gọi là E-cert, một ứng dụng website được sử dụng tại
cơ quan quản lý an toàn thực phẩm New Zealand, cung cấp các cam kết từ chính phủ
tới chính phủ rằng tất cả các sản phẩm động vật xuất khẩu từ New Zealand phải tuân
thủ với các quy tắc của nước nhập khẩu. Có ba hệ thống E-cert:
- E-cert cho các sản phẩm động vật được sử dụng cho các sản phẩm xuất khẩu,
bao gồm các sản phẩm bơ sữa (ví dụ: thịt, hải sản, gia súc, trứng, đồ ăn cho thú cưng,
sản phẩm từ ong, da động vật, len.
- E-cert cho các sản phẩm bơ sữa xuất khẩu
- E-cert về kiểm dịch thực vật cho hàng xuất khẩu. Hệ thống E-cert này được sở
hữu và vận hành bởi cục an toàn sinh học bộ nông nghiệp và lâm nghiệp của New
Zealand.
Mục đích cơ bản của E-cert là để theo dõi hiện trạng của thị trường và tình trạng
của hàng hóa kể từ khi sản xuất tới khi xuất khẩu, để tiếp nhận và in chứng chỉ xuất
khẩu. Nội dung của những chứng chỉ xuất khẩu này được hỗ trợ bởi hệ thống thông tin
kiểm soát sự tuân thủ của hàng hóa đối với các yêu cầu nhập khẩu. Một chứng nhận
xuất khẩu sẽ được coi là available tại các đường biên giới nước nhập khẩu (có thể tồn
tại dưới hai hình thức điện tử và văn bản). Ví dụ, E-cert cho các sản phẩm từ động vật
được hỗ trợ bởi một hệ thống các chứng từ điện tử, chính hệ thống này kiểm soát sự di
chuyển của hàng hóa trong NewZealand. Tất cả những chứng từ này được gọi là các
chứng từ hợp lệ. Có tất cả ba nhóm người dùng liên quan đến E-cert:
- Nhóm người dùng trong nền công nghiệp New Zealand (bao gồm có người gửi
hàng và người nhận hàng)
- Nhóm người trung gian (giám định viên và cơ quan kiểm tra)
- Cơ quan kiểm tra tại biên giới các nước nhập khẩu
- Xem thêm -