BÁO CÁO MÔN HỌC TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Cuộc khủng khoảng nợ ở
Argentina
Nhóm 12:
Nguyễn Hải Lâm – 40563154
Vũ Quang Sơn – 40561548
Văn Thị Hạnh Nguyên- 70360226
Diễn biến toàn cảnh cuộc khủng hoảng nợ Argentina
Liên tục trong 10 năm của thập niên 1990, Argentina đã thực hiện các
chương trình tái cấu trúc nền kinh tế rất mạnh mẽ, nổi bật nhất là chương
trình tư hữu hóa hàng loạt xí nghiệp quốc doanh. Cũng giống như các nền
kinh tế đang chuyển đổi hiện nay, việc tư hữu hóa ào ạt, nhất là việc bán
chúng cho các ông chủ nước ngoài, bước đầu đã đem lại một lượng dự trữ
ngoại tệ khá lớn cho quốc gia này.
Nguồn thu từ chương trình tư hữu hóa cùng với việc vay nợ nước ngoài đã
giúp Chính phủ Argentina ổn định giá trị của đồng nội tệ. Tất cả điều này đã
làm nền tảng cho các tăng trưởng ngoạn mục sau đó. Thêm vào đó, những
thành tựu kinh tế và sự ổn định trong giá trị đồng nội tệ đã dẫn tới một hệ
quả đương nhiên, đó là dòng vốn quốc tế chảy ồ ạt vào Argentina.
Những yếu tố đó khiến Argentina được ngợi khen như là một điển hình của
sự thần kỳ mới và là một trong những “học trò xuất sắc” được IMF thừa
nhận trong các tình huống nghiên cứu.
Từ những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải những mất cân đối trong
chi tiêu ngân sách. Do đã tư hữu hóa ào ạt các xí nghiệp quốc doanh trong
thời gian trước đó, chính phủ giờ đây đã không còn nguồn thu nào khác
ngoài thuế để bù đắp thâm hụt, đó là chưa kể vấn đề còn bị trầm trọng thêm
bởi chính phủ liên tục phải trả nợ cho các hóa đơn vay nợ nước ngoài trước
đây.Đối với các nhà tài trợ quốc tế, khi đang còn trong giai đoạn mặn nồng
thì điều gì cũng là tốt đẹp, thậm chí ngợi khen hết lời, nhưng khi những bất
ổn xảy ra thì sự hủy hoại sẽ đến rất nhanh. Bằng chứng là ngay sau khi Quốc
hội Argentina họp khẩn cấp để triển khai cái gọi là “giảm thâm hụt ngân
sách xuống bằng không” (zero deficit plan) vào ngày 11-7-2001, các nhà tài
trợ quốc tế đã phản ánh rất hài hước về kế hoạch này. Moody"s và S&P đã
hạ thấp điểm xếp hạng tín nhiệm quốc gia Argentina ngay sau khi quốc hội
thông qua kế hoạch hoang tưởng này, các chỉ số niềm tin liên tục sút giảm
như một tín hiệu phản ứng trước vụ việc nước đến chân mới nhảy của quốc
hội nước này. Thêm vào đó, IMF lại ngưng không hỗ trợ tín dụng cho
Argentina, khủng hoảng kinh tế toàn diện là điều tất yếu phải xảy đến sau đó
Hệ thống ngân hàng Argentina sụp đổ vào vào tháng 12/2001, nhấn chìm
một trong những trung tâm kinh tế năng động và thành công nhất tại khu vực
Nam Mỹ. Gần như chỉ sau một đêm, đất nước này rơi vào cảnh đói nghèo.
Tình cảnh sau đó hết sức hỗn độn. Chỉ trong vòng 1 tuần, có tới 5 vị tổng
thống lên và xuống chức. Người dân, công nhân, viên chức xuống đường
biểu tình. Chính quyền Argentina cho rằng thủ phạm là các chính sách mà
Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới áp dụng tại đây từ những năm
1990. Kể từ đó đến nay, giới lãnh đạo nước này đi theo một đường lối tài
chính độc lập và đã phục hồi đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn một chặng đường
xa để Argentina đạt được sức mạnh như họ đã từng có.
Vào thời gian khủng hoảng của Argentina 2001 dẫn đến hàng loạt sự kiện
hoảng loạn trong đất nước argentina:
Thất nghiệp leo đến mức kỷ lục. Bộ trưởng Tài chính, Bộ trưởng Kinh tế nối
nhau từ chức. Tổng thống ban bố tình trạng khẩn cấp rồi ra đi... Đó là những
diễn biến cuối cùng, chấm dứt thời kỳ hai năm ông de la Rua lãnh đạo
Argentina, hai năm đất nước hỗn loạn và suy thoái.
10/12/1999: Fernando de la Rua nhậm chức tổng thống, hứa hẹn sẽ làm kinh
tế trở lại phồn thịnh sau 10 năm dưới thời Carlos Menem.
16/3/2001: Bộ trưởng Kinh tế Lopez Murphy đưa ra chương trình kinh tế
thắt lưng buộc bụng 4,45 tỷ USD trong 2 năm, giảm mạnh chi phí cho giáo
dục.
19/3/2001: Lopez Murphy từ chức sau khi 9 quan chức chính phủ bỏ chức
vụ để phản đối chính sách của ông.
20/3/2001: Domingo Cavallo, nguyên bộ trưởng kinh tế dưới thời Menem,
được mời vào chính phủ với những quyền lực đặc biệt để tái cơ cấu nền kinh
tế.
3/6/2001: Argentina loan báo đã giải quyết xong 29,5 tỷ USD nợ, hoãn trả
7,8 tỷ lãi tới năm 2002.
3/7/2001: Thị trường cổ phiếu sụt giảm tới mức thấp nhất trong 28 tháng sau
khi có tin đồn ông de la Rua sẽ từ chức.
11 - 26/7/2001: 3 tổ chức đánh giá hấp lực đầu tư quốc tế đưa Argentina
xuống vị trí thấp hơn, khiến uy tín của nước này giảm mạnh.
30/7/2001: Dự thảo kế hoạch thắt lưng buộc bụng của chính phủ được thông
qua, bao gồm những biện pháp đảm bảo cho ngân sách không tiếp tục thâm
hụt, giảm 13% lương cho nhân viên chính phủ và trợ cấp hưu trí.
21/8/2001: Quỹ Tiền tệ Quốc tế đề xuất cấp thêm 8 tỷ USD, bổ sung vào
khoản vay dự phòng 14 tỷ của Argentina.
1/11/2001: Ông Cavallo thông báo các biện pháp kinh tế mới.
30/11/2001: Người Argentina đổ xô tới ngân hàng: 1,3 tỷ USD được rút khỏi
các tài khoản cá nhân.
1/12/2001: Ông Cavallo quyết định hạn chế số tiền mà công chúng được rút
ra, nhằm cứu nguy cho hệ thống ngân hàng.
5/12/2001: IMF thông báo sẽ không giải ngân khoản viện trợ 1,3 tỷ USD
cho Argentina.
6/12/2001: Ông Cavallo chỉ thị chuyển quỹ lương hưu một phần thành trái
phiếu kho bạc và phần kia dùng để hỗ trợ các doanh nghiệp trả nợ.
13/12/2001: Thất nghiệp leo đến mức 18,3%, cao nhất kể từ giữa năm 1998.
14/12/2001: Bộ trưởng Tài chính Daniel Marx từ chức nhưng đồng ý làm cố
vấn trong các cuộc đàm phán tái cơ cấu nợ.
17/12/2001: Chính phủ đưa ra chương trình ngân sách 2002 bao gồm khoản
cắt giảm chi tiêu gần 20%.
18/12/2001: IMF nói Argentina có thể hoãn trả khoản nợ 940 triệu USD
(theo hạn phải hoàn vào 1/2002).
19/12/2001: Argentina ban bố tình trạng khẩn cấp để đối phó với các cuộc
biểu tình phản đối chính sách kinh tế của ông Cavallo. Hạ viện bãi bỏ các
quyền đặc biệt ông Cavallo được hưởng trước đó.
20/12/2001: Tổng thống de la Rua và Bộ trưởng Kinh tế Cavallo từ chức vì
biểu tình đã biến thành bạo loạn khiến ít nhất 20 người thiệt mạng.
Nguyên nhân cuộc khủng hoảng nợ ở Argentina 2001:
Cuộc khủng hoảng nợ của Argentina nói lên những bất ổn trong hệ thống
chính trị (tham nhũng, sự phân chia quyền lực giữa các địa phương trong
việc điều tiết các nguồn thu thuế...). Có thể nói một hệ thống chính trị liên
quan đến một chính phủ tham nhũng và lãng phí, đã làm thị trường mất niềm
tin về khả năng trả nợ của quốc gia đối với những trái phiếu phát hành trước
đây, cuộc khủng hoảng nợ được đúc kết đơn giản như thế.
Cuộc khủng hoảng nợ của Argentina chính là bài học về sự ảo tưởng quá
mức về những thành công trong tăng trưởng mà quên đi những vấn đề nội
bộ. Các vấn đề nội bộ mà từ kinh nghiệm của Argentina, chúng ta cần phải
chú ý giải quyết triệt để, đó là tình trạng tham nhũng, cổ phần hóa ào ạt và
thất thoát, bộ máy hành thu thuế yếu kém, vay nợ nước ngoài thiếu tính toán.
Nhưng vượt lên trên tất cả những điều này, nguyên nhân của mọi nguyên
nhân, chính là việc quốc gia thiếu cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay
nợ nước ngoài, điều mà chúng ta đã thấy ở phần trên về sự phản ứng đầy
khôi hài của các nhà tài trợ và người dân về việc quốc hội nước này vào
cuộc quá chậm trễ để cứu vãn tình hình.
Có 3 nguyên ngân chính:
Hệ thống “Chuẩn tiền tệ” (currency board):
Cơ chế vận hành của “Chuẩn tiền tệ”. Nói một cách ngắn gọn, chế độ tỷ giá
“chuẩn tiền tệ” quy định: cấm không cho phép ngân hàng trung ương phát
hành các khoản nợ - tiền có quyền lực cao (high-power money) - nếu như
không được bảo đảm hỗ trợ 100% bằng lượng dự trữ ngoại tệ tương đương.
Nói cho dễ hiểu, hệ thống này chỉ cho phép ngân hàng trung ương phát hành
thêm một lượng tiền tương ứng với lượng ngoại tệ vừa mới bổ sung. Do đó,
giá trị đồng tiền luôn được bảo đảm và đồng thời cũng giúp kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng hệ thống “chuẩn tiền tệ” (currency
board) khác với hệ thống “tỷ giá cố định” (fixed exchange rate system). Bởi
vì, “tỷ giá cố định” mặc dù cũng duy trì giá trị đồng tiền như “chuẩn tiền tệ”
nhưng lại không có độ tin cậy cao, nói là “tỷ giá cố định” nhưng thật ra đồng
tiền cũng có khả năng bị phá giá. Còn “chuẩn tiền tệ” thì không như vậy, nó
luôn giữ đúng tỷ giá trao đổi đã được ấn định trước đó. Do đó, “chuẩn tiền
tệ” luôn đạt được sự tin tưởng cao từ các nhà đầu tư.
Nhược điểm:
Đầu tiên là việc chính phủ không thể tự chủ trong chính sách tiền tệ. Đơn
giản là vì lãi suất của đồng nội tệ phải đúng bằng lãi suất của đồng ngoại tệ,
nếu không hoạt động arbitrage sẽ xảy ra. Do đó, chính phủ không thể giảm
lãi suất để kích thích đầu tư hoặc tăng lãi suất để kiềm hãm lạm phát.
Thứ hai, chuẩn tiền tệ có khuynh hướng khuyến khích các nhà đầu tư trong
nước kinh doanh quốc tế vay nợ bằng ngoại tệ mà không hề có bất cứ biện
pháp phòng ngừa rủi ro nào cả, dẫn đến vay nợ quá mức. Chính vì vậy mà
khi khủng hoảng xảy ra, các nhà đầu tư này sẽ là những người chịu thiệt hại
lớn nhất.
Thứ ba, ngân hàng trung ương không thể thực hiện chức năng là người cho
vai cuối cùng (nguyên nhân là do hệ thống currency board quy định không
cho phép ngân hàng phát hành tiền nếu không có lượng ngoại tệ tương ứng
bổ xung). Do đó, khi khủng hoảng niềm tin xảy ra, ngân hàng trung ương
không thể cung cấp cho các ngân hàng thương mại những khoản vay ngắn
hạn được, làm cho các ngân hàng thương mại này không thể chi trả các
khoản nợ sắp đáo hạn cho khách hàng. Cuối cùng, tất yếu là hệ thống ngân
hàng sẽ sụp đổ.
Thứ tư, do không thể in thêm tiền và dự trữ ngoại tệ ngày càng ít đi nên
ngân sách chính phủ sẽ bị thâm hụt nghiêm trọng. Chính vì vậy, chính phủ
Argentina phải bù đắp thăm hụt ngân sách bằng các khoản vay nợ từ nước
ngoài. Điều này làm cho tình trạng nợ nước ngoài của Argentina ngày càng
gia tăng.
Thứ năm, chính sách “chuẩn tiền tệ” làm cho hàng hoá xuất khẩu ngày càng
mắc lên (do đồng đôla tăng giá) và hàng nhập khẩu ngày càng rẻ đi. Do đó,
hàng trăm doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh nổi với các doanh
nghiệp nước ngoài, buộc phải dẫn đến phá sản.
Thứ sáu, việc đôla hoá nền kinh tế đã tạo ra một hệ thống “tiền tệ kép”
(bimonetary system), cho phép người dân tự do quy đổi từ Peso sang đôla
một cách dễ dàng. Điều này đã làm cho một lượng lớn ngoại tệ “chảy” ra
nước ngoài (nguyên nhân là từ những chuyến du lich, nghỉ mát, mua hàng
hóa nhập khẩu với giá rẻ từ nước ngoài), dẫn đến dự trữ ngoại tệ trong nước
bị giảm sút.
Tuy nhiên nếu ta vội kết luận ngay rằng “chuẩn tiền tệ” là nguyên nhân
chính dẫn đến khủng hoảng ở Argentina là sai lầm. Bởi vì, nếu chính sách
“chuẩn tiền tệ” là đỉnh của kim tự tháp thì kinh tế và chính trị là đáy của cái
tháp đó. Do đó, nếu đáy của cái tháp đó (kinh tế và chính trị) bất ổn thì sẽ
dẫn đến phần đỉnh tháp (chính sách “chuẩn tiền tệ”) không phát huy được
tác dụng. Và quả thật, kinh tế và chính trị của Argentina không hề ổn định.
Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô sai lầm
Sai lầm đầu tiên của chính phủ Argentina là việc tự do hóa hoàn toàn hệ
thống ngân hàng, bao gồm việc tư nhân hóa hoàn toàn gần như tất cả các
ngân hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít tổ chức tài chính trung bình
và lớn cho nước ngoài.
Thứ hai, đó là việc tự do cho luân chuyển tư bản - cả trực tiếp và gián tiếp mà không có bất kỳ hạn chế nào, dẫn đến việc ngoại tệ bị “bay hơi” sau này.
Thứ ba, tư nhân hóa các công ty nhà nước, từ công ty hàng không đến công
ty điện và bưu điện, trong khi Argentina không hề có luật lệ mạnh và đầy đủ,
dẫn đến nguồn thu ngân sách của chính phủ không có gì ngoài thuế, không
thể tự chủ trong thu-chi ngân sách.
Thứ tư, loại bỏ gần như hàng rào thuế quan và cắt giảm thuế từ trung bình
45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000.
Thứ năm, vì mục đích tranh cử mà tổng thống Carlos Menem sẵn sàng bỏ
qua các nguyên tắc thị trường, lắp đầy sự thâm hụt trong ngân sách chính
phủ bằng các khoảng vay nợ từ nước ngoài trong suốt thời kỳ cầm quyền.
Măc dù chính sách này làm cuộc sống người dân được tăng lên rõ rệt nhưng
Argentina lại trở thành con nợ khổng lồ: 132 tỷ USD. Nó đã góp phần đưa
Argentina đi vào khủng hoảng.
Chính trị bất ổn:
Đây là nhân tố chính đưa Argentina lún sâu vào khủng khoảng. Ta phải nói
đến tổng thống De la Rúa. Trước khi trở thành tổng thống, De la Rúa từng
giữ chức thị trưởng, ông đã đẩy lùi nạn tham nhũng, làm cho ngân sách
thành phố từ thâm hụt trờ nên dư dã. Khi vận động tranh cử, ông đã từng
hứa rằng sẽ “lấy tiền từ túi của những kẻ tham nhũng để phân phát cho nhân
dân”. Tuy nhiên, chính nhờ thành tích đó, sau khi trở thành tổng thống, ông
đã gặp phải nhiều sự chống đối ngầm từ phía các đồng minh, điển hình là
chủ tịch Thượng viện Carlos Alvarez và chủ tịch phong trào Frepaso, người
đồng minh quan trọng nhất đột ngột từ chức vì bất đồng, để lại De la Rúa
một mình lèo lái con thuyền Argentina đầy sóng gió. Chính vì điều này, ông
đã đưa ra một quyết định cực kỳ sai lầm: đề cử cựu bộ trưởng kinh tế
Domigo Cavallo đầy tai tiếng và bê bối trở lại chính trường để giúp ông xử
lý khủng hoảng. Tuy nhiên, việc mời Cavallo chẳng giúp ích được gì cho
ông. Cuối cùng thì De la Rúa cũng phải từ chức. Theo sau ông là Ramón
Peurta và Adolfo Rodríguez, cả 2 chỉ giữ chức tổng thống chưa tới 1 tuần.
Chỉ tới khi Eduardo Dulhalde lên làm tổng thống thì kinh tế Argentina mới
có dấu hiệu khởi sắc.
Các giải pháp cho Argentina:
Trong thời kì nắm quyền của De la Rúa, ông đã đưa ra các giải pháp là vay
nợ từ IMF 6,78 tỷ USD để ngăn chặn khủng hoảng kinh tế, đóng băng các
tài khoản tiến gửi ngân hàng trong 12 tháng (chỉ cho phép mỗi cá nhân rút
tối đa 1000USD/tháng) và kiểm soát việc đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, những
chính sách này đều không dẫn đến kết quả gì cả ngoài việc làm cho bạo
động tăng thêm.
Khi Rodríguez Saá lên nắm quyền, ông cũng đề nghị một giải pháp khác: đó
là kế hoạch phát hành “đồng tiền thứ ba” (được gọi là đồng Argentino), cho
đồng tiền thứ ba này cùng lưu hành chung với đồng Peso và đôla. Đồng thời,
đồng tiền thứ ba này được quy định là chỉ được lưu hành như tiền mặt
(không được đổi thành thẻ tín dụng hay ngân phiếu). Với chính sách này,
Rodríguez Saá hi vọng rằng đồng tiền thứ ba (đồng Argentino) sẽ giúp chính
phủ thu hồi lượng Peso đang dư thừa ngoài thị trường. Ngoài ra, do đồng
tiền thứ ba này không phụ thuộc vào chính sách “chuẩn tiền tệ” nên nó cho
phép thực hiện những chính sách tài chính linh hoạt hơn nhằm để khắc phục
tình trạng khủng hoảng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cuối cùng thì chính sách này
không thể thành hiện thực, do Rodríquez Saá không nhận được sự ủng hộ từ
quốc hội.
Chỉ đến khi Eduardo Duhalde lên nắm quyền thì tình hình mới có sự thay
đổi. Ông thực hiện ngay một loạt biện pháp: phá giá đồng Peso 30% để đạt
tỷ lệ 1,4 Peso đổi 1 đôla (chính sách này có tác dụng kích thích xuất khẩu
nhưng lại làm cho lạm phát tăng lên, nguyên nhân chính là do người tiêu
dùng Argentina thích dùng hàng ngoại); buộc các nhà đầu tư trong nước,
ngân hàng và các quỹ lương hưu phải chấp nhận đổi công trái mà họ đang
giữ sang một dạng “nợ có bảo đảm sẽ trả” với lãi suất thấp hơn lãi suất họ
nhận từ công trái; ban hành chính sách chuyển đổi nợ trên 100000 đôla
thành đồng Peso, kiểm soát các dòng chảy của vốn, áp dụng chính sách thuế
mới lên dầu thô nhằm bồi thường cho các chủ nợ bị thiệt hại bởi việc chuyển
nợ sang đồng Peso, cân bằng thu chi ngân sách và tái đàm phán nợ công,
tăng cường khả năng thanh toán bằng tiền mặt đầy đủ để tạo cho người dân
có niềm tin vào hệ thống ngân hàng.
Đồng thời, chính phủ Argentina cũng tiến hành một loạt cải cách linh hoạt,
phù hợp theo hướng tăng cường vai trò quản lý của nhà nước. Cùng với đó
là thực hiện các chính sách xã hội tiến bộ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế
và không ngừng cải thiện đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động. Tăng
cường đối ngoại, tham gia các nước thuộc khối Thị trường chung Nam Mỹ
(MERCOSUR) và các nước do các đảng cánh tả lãnh đạo.
Chính vì những cải cách linh hoạt đó mà nền kinh tế Argentina đã bắt đầu có
dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng trở lại.
Sự phục hồi của Argentina:
Đến năm 2003, những chính sách của tổng thống Eduardo Duhalde đã bắt
đầu phát huy tác dụng, nền kinh tế Argentina bắt đầu quay trở lại đà tăng
trưởng. Ngày 25/05/2003, Néstor Kirchner lên thay Eduardo Duhalde, trở
thành tổng thống đời thứ 54 của Argentina. Ông tiếp tục thực hiện những
đường lối cải cách của Eduardo Duhalde, tiêu biểu là việc ông để cho
Roberto Lavagna tiếp tục giữ chức Bộ trưởng tài chính.
Hình ảnh nền kinh tế Argentina lúc này hoàn toàn khác so với những năm
1990. Họ không còn dựa vào hàng hóa nhập khẩu, không còn dựa vào các
khoản nợ hay các khoản đầu tư nước ngoài để có được ngoại tệ nữa; thay
vào đó, Argentina lúc này có một nền xuất khẩu cực kỳ phát triển (do sự phá
giá của đồng Peso) và đến lượt nó, xuất khẩu cũng làm tăng dự trữ ngoại tệ
cho đất nước. Nhờ vậy, chính phủ Argentina đã có khả năng trả được các
khoản nợ nước ngoài.
Tốc độ phát triển GDP của Argentina thời kỳ này đạt mức kỷ lục, luôn trên
8%/năm (8.8% năm 2003, 9% năm 2004, 9.2% năm 2005, 8.5% năm 2006,
8.7% năm 2007). Tuy nhiên, đi cùng với đó là tỷ lệ lạm phát cũng tăng cao
(12.5% vào năm 2005, 10% năm 2006, 15% năm 2007), nguyên nhân là do
chính phủ phải tung đồng Peso ra để mua vào một lượng lớn ngoại tệ đang
có trên thị trường nhằm ổn định mức giá 1 Đôla đổi xấp xỉ 3 Peso.
Trong những năm này, tỷ lệ thất nghiệp cũng đã giảm xuống mức thấp nhất,
dưới 8.5% vào năm 2006. Mặc dù vậy, khoảng cách giàu nghèo của
Argentina ngày một tăng cao (10% số người giàu nhất có tổng mức thu nhập
cao gấp 31 lần so với tổng mức thu nhập của 10% số người nghèo nhất), tuy
nhiên nhìn chung thì nó vẫn còn thấp hơn so với các nước Châu Phi, Châu Á
và Châu Mỹ Latinh khác.
Bài học từ cuộc khủng hoảng Argentina:
Từ những gì đã phân tích, ta học được bài học lớn nhất từ khủng hoảng
Argentina: đó là phải ổn định chính trị và kinh tế, chỉ khi 2 thứ đó ổn định
thì những chính sách kinh tế mới phát huy tác dụng của nó. Tất nhiên, để
cho cả kinh tế và chính trị đều ổn định thì ta phải: giảm tình trạng tham
nhũng, lãng phí, giảm tình trạng thất thoát của công, cải thiện bộ máy thu
thuế, cải thiện việc quản lý và giám sát vốn (nhất là từ các nguồn vay tín
dụng nước ngoài), cần tăng cường vai trò của ngân hàng trung ương, không
nên tư nhân hóa các cơ sở, xi nghiệp công ồ ạt. Cuối cùng, cũng cần phải
chú ý nhiều hơn đến chính sách tỷ giá ngoại tệ.
Liên hệ trực tiếp tới Việt Nam:
Ta thấy chính phủ Việt Nam cũng tiến hành tư hữu hóa một số xí nghiệp,
nhà máy quốc doanh hoặc chuyển chúng thành công ty cổ phần. Tuy nhiên,
khác với Argentina, chúng ta không tiến hành ào ạt mà làm từ từ, do đó
không có gì đáng để nói. Việc này không đáng lo.
Tiếp theo, chúng ta hãy phân tích về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của chính
phủ Việt Nam. Phải nói rằng đây là một điểm yếu của chính phủ Việt Nam.
Số liệu cho thấy ICOR của Việt Nam là 4,4 (nghĩa là cần 4,4 đơn vị vốn đầu
tư mới tạo ra 1 đơn vị tăng trưởng), trong khi các nước trong khu vực là dưới
3. Điều này cho thấy Việt Nam hiện nay rất lãng phí trong việc sử dụng vốn
đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân của việc này có thể là do khâu quản lý còn
thiếu hiệu quả hoặc có thể do tình trạng bòn rút của công, tham nhũng trong
nội bộ cơ quan chính phủ, v.v…
Ngoài ra, Việt Nam hiện nay cũng đang vay một lượng nợ ngoại tệ lớn mà
không đề phòng rủi ro tài chính. Mặc dù đúng là tỷ lệ nợ của Việt Nam đang
ở mức an toàn - khoảng 35% - nhưng đó là chưa tính đến lãi suất thực phải
trả. Nếu tính đến lãi suất thực này thì con số 35% đó không còn đúng nữa.
Vì lúc này tỷ lệ nợ trên GDP của Việt Nam có thể sẽ trên 40%. Theo WB,
ngưỡng an toàn của các nước đang phát triển là tỷ lệ nợ trên GDP phải dưới
40%. Nếu vậy thì Việt Nam đã vượt trên ngưỡng nợ an toàn, hay nói đúng
hơn là đang phải đối mặt với nguy cơ rủi ro tài chính khá cao. Do đó, ngay
từ bay giờ, chúng ta cần phải thực hiện những chính sách tài chính thích hợp
để phòng ngừa ngay lập tức hoặc ít nhất là có thể giảm thiểu các rủi ro này.
- Xem thêm -