Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Báo cáo mác...

Tài liệu Báo cáo mác

.DOCX
31
278
77

Mô tả:

Quyền Dân Chủ Của nhân Dân
NỘI DUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 1. Quan niệm về quyền làm chủ của nhân dân Làm chủ là nguyện vọng thiêng liêng, thiết tha nhất và cao đẹp nhất, muôn thửa của con người. Con người sinh ra cần phải có quyền làm chủ. Vậy nhưng nhu cầu tưởng như đương nhiên ấy lại là một câu hỏi lớn và cực kỳ phức tạp, hệ trọng không dễ trả lời. Thời tiền sử, con người sống trong cộng đồng mà ở đó, tập thể hầu như chi phối hoàn toàn, ở đó có sự làm chủ một cách hết sức giản đơn, trình độ làm chủ của con người hết sức thấp kém. Thoát khỏi thời kỳ mông muội, con người tiến xa hơn cùng với việc xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước. Lịch sử loài người đã trải qua nhiều chế độ xã hội có bản chất chung là tư hữu. Trong các xã hội đó, các giai cấp bóc lột thay nhau chia phần và chiếm lĩnh các tư liệu sản xuất và các đối tượng sản xuất chủ yếu. Quyền làm chủ thuộc về họ, còn nhân dân lao động bị tước hết tư liệu sản xuất chính và bị tước hết luôn quyền làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Vì vậy, điều tất yếu đã diễn ra là song song với quá trình đấu tranh chinh phục thiên nhiên để sản xuất, nhân dân lao động luôn vùng dậy chống các giai cấp thống trị để giành quyền làm chủ của mình. Chính cuộc đấu tranh cách mạng ấy của nô lệ chống chủ nô, nông nô chống phong kiến đã thúc đẩy lịch sử tiến lên. Khi chế độ phong kiến sụp đổ thay thế là chế độ tư sản ra đời thì, quyền lực nhà nước nằm trong tay của giai cấp tư sản. Quyền làm chủ của nhân dân lao động chỉ mang tính chất hình thức còn trong thực tế nhân dân không có quyền lực gì trong xã hội ; Nhân dân lao động là người tạo ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, chính họ là người tạo ra giá trị thặng dư cho các ông chủ tư sản, nhưng họ lại bị áp bức bất công nhất, họ bị các ông chủ bóc lột tới tận xương tuỷ. Thực tế vài trăm năm qua đã có rất nhiều cuộc đấu tranh nổ ra đòi hỏi quyền làm chủ cho người lao động trong các nhà nước tư sản. Các Mác và Ph.Ăngghen, những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, đã cống hiến cả đời mình cho việc thực hiện nguyện vọng cao cả nhất là chỉ ra cho nhân dân lao động con đường đấu tranh thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột, giành lại quyền làm chủ và ý chí tự do của họ. Hai ông đã từng phác thảo xã hội tương lai - xã hội cộng sản, là một cộng đồng gồm những cá nhân tự do và tự nguyện liên hợp lại và con người của xã hội đó hành động tự do trên cơ sở nhận thức được cái tất yếu, là con người chủ động, sáng tạo. Tiếp tục tư tưởng đó, Lênin cho rằng, tính chủ động sáng tạo của quần chúng là nhân tố cơ bản của xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống, tính chất máy móc hành chính quan liêu không dung hợp được với tinh thần của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là mục tiêu cơ bản nhất và xuyên suốt của cuộc cách mạng. Người nói: “Suốt bao năm trường, Đảng ta cùng quân và dân ta đã anh dũng hy sinh chiến đấu, đánh đổ thực dân, phong kiến, để giành lại cho nhân dân lao động cái quyền làm chủ nước nhà”. Người luôn nhấn mạnh, chế độ xã hội của chúng ta do nhân dân lao động làm chủ, dân chủ là dân làm chủ và dân là chủ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác- Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn - Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập... trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: “Mọi quyền hạn đều của dân”. Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là “đầy tớ” của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn. Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ. Do vậy, dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy. Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ. Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền làm chủ của nhân dân trước hết là sự thể hiện và hiện thực lí tưởng giải phóng dân tộc giải phóng con người. Người đặc biệt chú trọng tới những công việc thực tế để xây dựng quyền làm chủ của nhân dân tiến bộ nhất, Người nói dân là chủ và dân làm chủ do đó người đã tìm những điêù kiện tốt nhất để con người việt nam làm chủ, phát huy tài năng sáng tạo trong sự nghiệp xây dưng xã hội mới,. Trong tư tưởng của Người về quyền làm chủ của nhân dân tức là coi trọng quyền con người, coi con người là giá trị cao nhất, đó là con người có quyền sống, quyền tự do, những quyền thiêng liêng, không thể xâm phạm. Bản tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định cuộc đấu tranh anh dũng, gan góc của nhân dân việt nam nhằm giành độc lập cho dân tộc cũng là cuộc đấu tranh cơ bản giành quyền cơ bản con người và Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới “Toàn bộ dân tộc việt nam quyết đem tinh thần và lực lượng và tính mạng và của cải để giữ những quyền thiêng liêng ấy”. Đồng thời Hồ chí minh cũng khẳng định “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích cho nhân dân”. Người xác định rõ ràng “nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất của dân vì dân là chủ”. Điều đó có nghĩa nhà nước của ta đã trở thành nhà nước của nhân dân, vì thế mọi quyền lực điều của nhân dân thực thi sự ủy quyền của dân, vì thế mọi quyền lực đều là của nhân dân, điều này được thể hiện ngay từ 1925 khi giảng dạy tai lớp huấn luyện ở Quảng Châu ( Trung Quốc) người đã nói “ Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì làm cho đến nơi , nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiêu, chớ để trong tay ít người, thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hưởng hạnh phúc”. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội thông qua các cơ quan nhà nước do dân bầu ra, hoặc trực tiếp tham gia quản lí nhà nước và xã hội, kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ công chức nhà nước, bãi miễn những người không xứng đáng, kể cả những người làm việc trong chính phủ. Người chỉ rõ “ Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do dân làm chủ, nhân dân bầu ra các hội đồng nhân dân, ủy ban khán chiến hành chính địa phương , và quốc hội cùng Chính Phủ Trung ương”. Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thực thi các quyền ây. Song để thực hiện quyền làm chủ về chính trị người đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc tập trng dân chủ, tiểu số phải phục tùng đa số, vì lợi ích chung của tập thể, của cộng đồng , quyền làm chủ của nhân dân phải có lãnh đạo nhằm đảm bảo cho quá trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đi đúng hướng. Người lý giải một cách ngắn ngọn “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo ? vì một người dù khôn tài giỏi đến mấy, dù kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề không thể nhìn thấy và xem xét tất cả các mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm .. .Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ hơn khắp mọi mặt .Ý nghĩa củ a tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt.Tục ngữ có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc” là nghĩa đó. Song thực hiện được điều này mới chỉ thực được một nửa, phải có nửa khác nữa, đó là “cá nhân phụ trách” vì sao phải cá nhân phụ trách, theo Người, kế hoạch được bàn bạc kỹ lưỡng, rõ ràng ròi phải giao cho một người hoặc theo một nhóm người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách, người này ỷ lại người kia,việc sẻ không xong. Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”Thực hiện được điều này sẽ tránh được tình trạng gây lộn xộn trong xã hội, độc đoán chuyên quyền, hoặc vì sợ mất dân chủ mà “theo đuôi” quần chúng, hoặc dân chủ “quá t r ớ n ” . . Người luôn nhắc nhở “Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, nhưng cán bộ, chính quyền” tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng, vì dân chúng không nhất luật như nhau, trong dân chúng có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiên tiếncó lớp lưng chừng, có lớp lạc hậu. Không phải dân chúng nói gì, ta cứ nhắm mắt nghe theo, mà nên chọn lấy ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trở thành vấn đề cốt lõi, bức thiết, theo Hồ Chí Minh điều quan trọng là “làm sao cho nhân dân biết sử dụng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm” tức là thực sự dân chủ. Để trả lời được câu hỏi trên, theo Người trước nhất Nhà nước chuyên chính vô sản đóng vai trò là thiết chế cơ bản, là một chủ thể quan trọng. quyết định đến quyền dân chủ của nhân dân. Trong mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên với nhân dân, Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vai trách nhiệm của người cán bộ trước nhân dân. Trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân cũng vậy, trách nhiệm chủ yếu thuộc về Đảng, chính quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên, Người luôn nhắc nhở cán bộ “chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan chính phủ, từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu cưỡi cổ dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” . Người cho rằng để nhân dân thực sự tham gia công việc quản lý đất nước, hăng hái làm việc thì “trước nhất phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ rằng, việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ , họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Không những thế, bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân,cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng vùng, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi thi hành. Để dân “dám nói,dám làm” vấn đề mấu chốt là cán bộ phải thực sự gương mẫu, có thái đọ cầu thị, biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến phê bình của nhân dân, chủ động đến với nhân dân, luôn tự phê bình, quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, có tấm lòng công tâm, trong sáng...Theo Người, dân chưa nói hoặc chưa dám nói vì sợ cán bộ “trù” cán bộ “chụp mũ”. Họ không nói ra không phải vì họ không có ý kiến nhưng họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét, có khi lại bị “trù” là khác. Rõ ràng, thái độ cầu thị, tính trách nhiệm, chủ động của chính quyền, của cán bộ là nhân tố quan trọng, là tác động tích cực để xuất hiện thái độ và hành vi của nhân dân. Song Người cảnh báo tác hại của việc dân không dám nói, không dám làm đó là “Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói quen không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”. Quan trọng hơn dân sẽ xa lánh Đảng, với chính quyền và chế độ. Nói tới quyền làm chủ đích thực, Hồ Chí Minh luôn chú ý tới vấn đề quyền hành, lợi ích và nghĩa vụ của dân chúng. Một chế độ muốn vững mạnh, dân chủ đích thực, có hiệu lực phải giải quyết đung đắn hợp lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm. Người viết: nhân dân là người chủ nên bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Quyền hành lực lượng đều ở nơi dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Trong những quyền và nghĩa vụ đó, Hồ Chí Minh gắn liền trọng trách nhà nước phục vụ dân chúng và dân chúng phải có trách nhiệm xây dựng nhà nước của mình. Trong quá trình thực hiện quyền làm chủ, Người luôn nhắc nhở và phòng ngừa khả năng, nguy cơ của những biến dạng, thoái hóa, hư hỏng trong bộ máy quyền lực. Người phê phán gay gắt những vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, làm chủ của dân, những chứng bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí, hống hách, cửa quyền, nhũng nhiễu, xách nhiễu dân chúng. Người chỉ rõ : Muốn chống tham ô, lãng phí, chống quan liêu thì phải dân phải làm chủ. Người nhận thấy nguồn gốc sâu xa của căn bệnh ấy là do chủ nghĩa cá nhân, vụ lợi mà ra. Nó dẫn tới quan liêu, mà quan liêu là xa dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không thương dân. Trong Đảng và trong Nhà nước, mắc vào những chứng bệnh ấy đều nguy hại. Phải làm cho Đảng trong sạch, là một Đảng cách mạng chân chính, chiến đấu hy sinh vì lợi ích của nhân dân chứ không phải vào Đảng để làm quan phát tài. Trong nhiều năm ở cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước, Người đã nêu gương thực hiện quyền làm chủ của dân, luôn luôn chủ động đến với dân, gần dân, lắng nghe ý kiến của dân, từ đó kịp thời sửa chính sách, xem lại chủ trương, tổ chức bộ máy và cán bộ cho phù hợp với tình hình thưch tế của từng địa phương và đất nước. Người cũng tự mình nêu gương sáng về phê bình và tự phê bình, đề cao nguyên tắc, kỷ luật với tinh thần tôn trọng hiến pháp và pháp luật, phát triển tài đức. Người luôn yêu cầu tha thiết mong mỏi dân chúng giúp đỡ chính phủ sữa chữa khuyết điểm, sai lầm, giáo dục cán bộ, giới thiệu hiền tai cho đất nước, vì hiền tai đều ở trong dân, luôn lo nghĩ giúp nước, giúp dân, có đức, có tài vì đại nghĩa đều được trọng dụng và tin cậy, không phân biệt họ ở trong Đảng hay ngoài Đảng. Để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tốt. Người yêu cầu phải nâng cao nhận thức, ý thức của dân, làm cho dân có hiểu biết về quyền làm chủ của mình để từng bước sử dụng quyền làm chủ của mình mà xây dựng cuộc sống cho mình và góp sức xây dựng chế độ do mình làm chủ. Có như vậy mới trở thành động lực của tiến bộ, của phát triển. 2. Quan điểm của Mác-Lênin về quyền làm chủ của nhân dân. CN Mác - Lenin chỉ rõ quyền làm chủ của nhân dân là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn XH, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân Lenin còn nhấn mạnh rằng: Quyền làm chủ của nhân dân trong chế độ XHCN là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Do vậy, quyền làm chủ của nhân dân trong chế độ XHCN vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế là quan hệ sản xuất XHCN đảm bảo, dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, đáp ứng phát triển ngày càng cao của lực lương sản xuất trên cơ sở khoa học, công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. Quyền làm chủ của nhân dân trong XHCN kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa, tư tưởng của nhân loại. Do đó, đời sống tư tưởng văn hóa của nền dân chủ XHCN rất phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố hàng đầu, thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng CNXH. Bởi nó phát huy cao độ tính tự giác và sức sáng tạo to lớn của con người trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 3. Quan niệm của Đảng về quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở Chủ nghĩa Mác-Lenin và truyền thống phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam, Đảng ta đã sớm xác định phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Những yếu tố về phát huy quyền làm chủ của nhân dân đã hình thành trong lịch sử dưng nước và giữ nước của nhân dân ta từ hàng nghìn năm trước, đã được đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Khi đất nước còn sống trong cảnh nô lệ, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề thấu hiếu khát vọng độc lập tự do và quyền được làm chủ đất nước, Đảng ta với mấy nghìn đảng viên đã lãnh đạo nhân dân đứng lên giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám. Khi cuộc cách mạng thành công. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thông qua tổng tuyển cử trực tiếpmà lập nên Nhà nước, có Nhà nước mới, nhân dân ta vừa thực hiện quyền làm chủ đất nước thông qua cơ quan dân cử vừa làm chủ trực tiếp trên địa bàn mình cư trú. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến thành công thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến vào thời kỳ quá độ lên chủ nhĩa xã hội. Ngay từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng năm 1976 đã tuyên bố trong đường lối chung một nhiệm vụ có tính cương lĩnh là “xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, sao cho nhân dân xúng đáng là người chủ trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hôi”. Tron những năm đổi mới , thực hiện Nghị quyết của Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII và nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khóa VI quyền làm chủ của nhân dân lại được Đảng ta phát huy thêm một bước, thẻ hiện rõ trong nhiều chính sách đổi mới về kinh tế, chính trịxã hội, đã giải phóng tiềm năng to lớn về vật chất và trí tuệ của nhân dân, nhờ đó mà sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đạt được những thành tựu to lớn. Đại hội đại biểu lần thứ VI năm 1986 đã triển khai mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân từ các lĩnh vực tư tưởng, chính trị, đặc biệt là kinh tế, trao cho nhân dân quyền chủ động sản xuất kinh doanh, chủ động cải thiện đời sống của mình, đây là một mốc son chói lọi thể hiện quyền làm chủ của nhân dân được đảng ta triển khai một cách mạnh mẽ, những thành tựu của công cuộc đổi mới đã góp phần thay đổi đời sống kinh tế, trên cơ sở đó nhân dân nhận thức sâu sắc hơn về các vấn đề làm chủ trong lĩnh vực chính trị. Bước sang thiên niên kỷ mới,với yêu cầu của Đảng và của nhân dân là phát huy sức mạnh dân tộc, tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX trong báo cáo chính trị về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân khẳng định, “Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ vừa thực hiện thông qua đại diện là các cơ quan Nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đảng và Nhà nước xây dựng hòa chỉnh các quy chế để Măt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tếxã hội, thực hiện dân biết, dân bàn,dân làm, dân ểm tra, qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố nhất trí về chính tri và tinh thần trong chế độ ta”. Đảng ta đã khẳng địn rõ ràng rằng quyền làm chủ của nhân dân thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ khác quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao dân trí. Các hình thức thể hiện quyền làm chủ của nhân dân Dân chủ XHCN là hình thức tiến bộ nhất trong lịch sử, trong đó dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là hai hình thức thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ trực tiếp. Là hình thức tham gia của mọi công dân một cách bình đẳng và trực tiếp vào những công việc chung và quyết định theo biểu quyết đa số. Cũng có thể hiểu, dân chủ trực tiếp là sự thể hiện một cách trực tiếp ý chí của chủ thể quyền lực về những vấn đề quan trọng nhất Việc thực hiện dân chủ trực tiếp phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Với hình thức này, người dân thực hiện quyền lực của mình mà không cần thông qua trung gian hay đại diện. Có 3 cách cơ bản thể hiện quyền làm chủ trực tiếp của người dân: Bầu cử: lá phiếu của cử tri quyết định trực tiếp người trúng cử Trưng cầu dân ý: để quyết định một vấn đề, nhà nước mang ra hỏi ý kiến của người dân và ý kiến của nhân dân có ý nghĩa quyết định về vấn đề đó. Bãi nhiệm đại biểu: cử tri đi bầu đại biểu và có quyền bãi nhiệm đại biểu khi người đó không còn xứng đáng với niềm tin của mọi người. Ngoài ra còn có hình thức “Diễn đàn nhân dân” và “Đối thoại với quan chức Nhà nước” cũng là cách thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của người dân. Như vậy, dân chủ trực tiếp là bản chất của xã hội công dân và của bộ máy nhà nước quản lý xã hội công dân. Do đó vấn đề không chỉ là nhận thức mà quan trọng hơn nữa là dân chủ trực tiếp phải được thiết chế hóa thành các bộ luật, điều luật, cơ chế hoạt động, hình thức biểu đạt và các tổ chức phụ trợ nhằm bảo đảm an toàn cho bộ máy dân chủ vận hành tối ưu và các cá nhân sống trong hệ thống dân sự đó phát huy quyền sáng tạo công dân của mình. Có như vậy thực hiện dân chủ ở cơ sở mới phát huy có hiệu quả và thực chất. Dân chủ gián tiếp. Là hình thức nhân dân thể hiện quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý nhà nước và xã hội thông qua hoạt động của những người đại diện, cơ quan đại diện của mình ở các cấp chính quyền, ở MTTQ và các đoàn thể nhân dân. Tại các kỳ họp Quốc hội, HĐND các cấp. Các đại biểu phát biểu, chất vấn... đó là việc đại biểu thay mặt nhân dân nói lên tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Người dân không tự thực hiện quyền lực mà thông qua vai trò của một đại diện hay trung gian. Hiện nay ở Việt Nam, người dân thực hiện quyền dân chủ gián tiếp thông qua Quốc hội và HĐND các cấp. Đây là những cơ quan do dân bầu, mang quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân. Nhân dân có thể thông qua các cơ quan nhà nước khác, thông qua MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên. Ở Việt Nam, việc nhân dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp mới là bước đầu tiên để nhân dân thực hiện chế độ dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp). Các cơ quan đại diện và đại biểu nhân dân thực hiện quyền lực chính trị do nhân dân giao phó thông qua việc thực hiện đúng các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Với dân chủ gián tiếp, ý nghĩa thật sự của nền dân chủ (nhân dân quyết định công việc Nhà nước) phụ thuộc hoàn toàn vào mối quan hệ thực tế giữa người đại diện - chính quyền - người dân, và chỉ đạt tới lý tưởng một khi mối quan hệ đó mang bản chất dân chủ trực tiếp - đích phấn đấu của mọi nhà nước dân chủ trên thế giới ngày nay. 4. Vai trò của tổ chức Đảng trong thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với vai trò là giai cấp tiên phong trực tiếp lãnh đạo Nhà nước và xã hội, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra các quan điểm, chủ trương đường lối chỉ đạo một cách thống nhất các hoạt động cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với Nhà nước, các tổ chức xã hội, Thông qua các Chỉ thị, các tổ chức xã hội cụ thể hóa bằng cách ban hành ra các văn bản để thực hiện đưa đường lối, quan điểm chỉ đạo đến với nhân dân. Bên cạnh đó, Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, Cán bộ, đảng viên hơn ai hết phải là người nhận thức sâu sắc về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, về các quyền và nghĩa vụ của mình. Với trách nhiệm là hạt nhân chính trị thì Đảng bộ, phải lãnh đạo các Đảng ủy, , các tổ chức Chính quyền, Đoàn thể đưa ra quy chế phát huy quyền làm chủ của nhân dân vào cuộc sống, đồng thời tập trung chỉ đạo thể chế hóa quy chế quyền làm chủ của nhân dân vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội để trên cơ sở đó hiện thực hóa quy chế. Thực tiễn cho thấy ở nơi nào tổ chức đảng quán triệt đầy đủ, sâu sắc, xác định đúng vai trò lãnh đạo toàn diện, chỉ đạo trực tiếp và thực hiện nghiêm túc quyền làm chủ của nhân dân thì ở đó việc triển khai thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thực sự là một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, thu được những kết quả thiết thực, được cán bộ, đảng viên và nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, làm theo. ở nơi nào chưa làm tốt vai trò lãnh đạo trực tiếp thì ở đó kết qủa chất lượng thấp, gây hoang mang và mất niềm tin. Đặc biệt ở những cơ sở yếu kém, tình hình phức tạp, cán bộ có vấn đề thì ở đó kết quả thực hiện quyền làm chủ của nhân dân không có hiệu qủa. Qua thực tiễn cho thấy, tổ chức Đảng là hạt nhân cơ bản lãnh đạo và triển khai thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chính vì vậy, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân có đạt chất lượng, hiệu qủa cao hay không thì việc lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Có thể nói rằng qua việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đã thể hiện được vai trò của tổ chức Đảng bộc lộ được bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong và vai trò lãnh đạo xã hội, xứng đáng với lòng tin của nhân dân. 5. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là một quá trình có tính chất lịch sử. Tất cả các nước công nghiệp phát triển đều trải qua quá trình công nghiệp hoá ở cácthời điểm khác nhau, với những quy mô tốc độ khác nhau trong những điều kiện lịch sử kinh tế xh khác nhau. Với hầu hết các nước phát triển hiện nay công nghiệp hoá là một trong những chính sách chủ yếu và là một thách thức lớn.Tuy nhiên, chính sách công nghiệp hoá trong giai đoạn hiên nay có nhiều khác biệt lớn so với các nước công nghiệp hoá giai đoạn trước đây . Chính điều này đã làm cho chính sách ở các nước, ở các thời kỳ thêm đa dạng.Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, hội nghị lần thứ VII ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghiệp hoá hiện đại hoá và đây cũng chính là quan niệm được sử dụng một cách phổ biến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo tư tưởng này, công nghiệp hoá hiện đại hoá là qúa trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. 6. Mục tiêu, nội dung, phương thức và điều kiện thực hiện quyền làm chủ nhân dân trong công nghiệp hóa hiện đại hóa. Mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa là xây dựng cơ sở vật chất kỹ - thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.Để từng bước thực hiện thành công mục tiêu lâu dài trên, mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX và lần thứ X là: "sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển... Đẩy mạnhcông nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo ướng hiện đại vào năm 2020". Để thực hiện được những mục tiêu trên, phải phát huy cả nội lực và ngoại lực, cả yếu tố vật chất và tinh thần. Đặc biệt là phát huy nguồn lực con người Một trong những yếu tố nhằm phát huy cao độ của nguồn nhân lực, là phát huy tính chủ động, sáng tạo. Muốn vậy, phải xoá bỏ chế độ quan liêu, cửa quyền..., thực hiện quyền làm chủ của nhân dân rộng rãi. Việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân phải được tiến hành dưới nhiều hình thức, nhiều cấp độ khác nhau, có ý nghĩa quan trọng, vừa cấp bách, vừa cơ bản và lâu dài. Nó không chỉ thực hiện quyền làm chủ một cách nói chung, trực tiếp và rộng rãi, mà nó còn phát huy nguồn nhân lực một cách mạnh mẽ, đặc biệt là từ nhân dân. Phát huy quyền làm chủ là phát huy tinh thần sáng tạo của quần chúng nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân dân nhằm phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết, ngăn chặn tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng; góp phần vào sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minhh” theo định hướng XHCN. Việc ban hành, xây dựng và thực hiện quyền làm chủ tạo điều kiện để cho nhân dân mở mang tri thức trên nhiều lĩnh vực. Khắc phục được tình trạng dân “mù luật”, “mù thông tin”, không nắm được quyền và nghĩa vụ của các cá nhân - đây chính là một trong những nguyên nhân của tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu dân,... đồng thời nó cũng khắc phục tình trạng yếu kém trong chính bản thân của mỗi người; sự hiểu biết của mỗi người sẽ tạo điều kiện cho nhân dân chủ động, sáng tạo, tự giác, và với ý nghĩa dân là chủ sẽ đi vào cuộc sống của người dân, trở nên hoàn thiện và thực tế. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân cũng quy định những việc nhân dân bàn, đóng góp ý kiến ở các cấp, trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Việc dân bàn, dân tham gia ý kiến trước khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định có một vai trò rất quan trọng trong việc giúp các cấp cơ quan nhà nước ra quyết định một cách đúng đắn, hợp lòng dân hơn - đó cũng là một trong những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng quan liêu, bỏ qua ý kiến đóng góp, xây dựng của dân; khắc phục được tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân đang còn nặng nề, khá phổ biến hiện nay. Quy định về những việc nhân dân giám sát, kiểm tra các hoạt động của chính quyền, tổ chức của Đảng, MTTQ và các đoàn thể có một ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với sự phát triển. 7. Tổ chức Đảng với thực hiện quyền làm chủ của nhân dân Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân ta đã đạt những thành tựu lớn quyền làm chủ của nhân dân được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các mối quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Nhìn chung đời sống của nhân dân đã được nâng lên. Quyền làm chủ về chính trị có bước tiến quan trọng trong việc xây dựng hiến pháp và các bộ luật, ở việc bầu cử dân chủ các cơ quan dân cử, ở chất lượng các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, hoạt động điều hành của Chính phủ, hoạt động của Viện kiểm sát và Tòa án các cấp, cũng như tại các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án luật..., trên tinh thần dân chủ cùng thảo luận và biểu quyết công khai thật sự trên mọi diễn đàn và hoạt động của các cơ quan Quốc hội và Chính phủ. Đồng thời, hệ thống hành chính nhà nước các cấp đang được đổi mới từng bước cả trong thể chế, chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức..., chuyển dần sang phương thức quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, phân biệt chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước với quyền tự do kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Quốc hội đã có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, các buổi họp đã được truyền hình trực tiếp, các cuộc tranh luận chất vấn giữa đại biểu Quốc hội và các thành viên Chính phủ đã được công khai, hình thành cơ chế giải quyết kiến nghị của dân thông qua việc tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử tri. Lòng tin và sự tín nhiệm của dân đối với Quốc hội được nâng lên. Trong việc bầu các cơ quan dân cử đã thực hiện tốt hơn quyền đề cử, ứng cử, lựa chọn các đại biểu có chất lượng cao hơn vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Quốc hội khoá XI đã được cơ cấu 25% đại biểu chuyên trách sẽ tạo cơ sở, nền tảng cho mọi hoạt động của Quốc hội có chất lượng và hiệu quả hơn. Về hoạt động lập pháp, Quốc hội đã ban hành nhiều Bộ luật, luật, pháp lệnh, thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về các dự án luật quan trọng ngày càng được đề cao, đã trở thành các cuộc sinh hoạt chính trị sôi nổi, rộng khắp trong cả nước. Về hoạt động giám sát, Quốc hội đã quan tâm giám sát việc thực hiện các giải pháp chống tham nhũng, buôn lậu, chống các tệ nạn xã hội, lập lại trật tự kỷ cương trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đất đai, xuất nhập khẩu và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. hoạt động giám sát của Quốc hội đã góp phần bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động đúng chức năng; bảo đảm hiến pháp, pháp luật và chính sách của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh. Bộ máy hành chính nhà nước các cấp đã giảm dần việc thực hiện trực tiếp quản lý sản xuất, kinh doanh, hướng mạnh vào chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và các bộ máy Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp đã có những đổi mới về tổ chức và phương thức điều hành, quản lý đất nước bằng pháp luật, tập trung chủ yếu vào đổi mới và sử dụng có hiệu quả các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương; quyết định đúng và kịp thời một số chính sách tình thế đẩy lùi lạm phát, khắc phục suy thoái, vượt qua khủng hoảng kinh tế đồng thời chăm lo đến những vấn đề hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển, hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, mở rộng hoạt động văn hoá - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện các chính sách xã hội. Chính phủ đã triển khai Luật khiếu nại, tố cáo và ban hành nghị định về Quy chế dân chủ, công khai ở các loại cơ sở, tạo thêm cơ sở pháp lý cho việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân, góp phần làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu đúng hơn về yêu cầu chung của dân chủ, nhờ đó mà việc thực thi dân chủ trong những năm gần đây được tốt hơn. Trong lĩnh vực kinh tế, những năm qua Nhà nước cũng đã ban hành hệ thống các Bộ luật, các văn bản luật đã tạo ra cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi và khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi người và mọi thành phần kinh tế; đồng thời, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội. Nhờ vậy khơi dậy và phát huy được tính năng động xã hội và dân chủ trong kinh tế những năm qua. Các cơ quan tư pháp đã được kiện toàn, đổi mới một bước về tổ chức và hoạt động, về phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giải quyết các tranh chấp dân sự, góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Hệ thống Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án đã được điều chỉnh, bổ sung về nhiệm vụ, quyền hạn, về tổ chức cán bộ, về cơ sở vật chất và kỹ thuật. Việc tiêu chuẩn hoá các chức danh Kiểm sát viên, Thẩm phán, Điều tra viên, Chấp hành viên đã bước đầu được thực hiện. Mạng lưới các cơ quan hỗ trợ Tư pháp như Luật sư, Công chứng, Giám định và tổ chức Tư vấn pháp lý cho người nghèo đã được hình thành và phát triển. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra nhiều chuyển biến trong lề lối làm việc của chính quyền cơ sở và cán bộ, công chức nhà nước từ quan liêu mệnh lệnh sang dân chủ hoá, công khai hoá, sát dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của dân. Có nhiều vấn đề liên quan thiết thực đến đời sống của dân như chuyển đổi hợp tác xã, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, phát triển ngành nghề, quy hoạch sử dụng đất và dãn dân, kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng ở các khu dân cư xã, phường, thị trấn được đưa ra thảo luận dân chủ, rộng rãi trong nhân dân để tìm phương án thực hiện tốt nhất. Nhiều nơi đã công khai với dân về thu - chi ngân sách, sử dụng các khoản đóng góp của dân, công khai mức thuế của các hộ sản xuất, kinh doanh; công khai quy hoạch xây dựng, phương án đền bù, di dân giải phóng mặt bằng..., dân thấy quyền làm chủ của mình được tôn trọng nên gắn bó tin tưởng ở chính quyền hơn, tự giác và có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước. Ngày nay, nhân dân đã cùng bàn bạc, quyết định những công việc hàng ngày của cộng đồng, xây dựng Hương ước, Quy ước hoà giải mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giúp nhau xoá đói giảm nghèo, giữ gìn trật tự an ninh, phát huy thuần phong mỹ tục, tăng cường tình làng, nghĩa xóm. Dân bầu trực tiếp trưởng thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố thay cho chỉ định của Uỷ ban nhân dân là một hình thức dân chủ trực tiếp được nhân dân rất đồng tình phấn khởi. Tiểu kết Chương 1 Qua các vấn đề trình bày trên đây, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về quyền làm chủ của nhân dân và đặc biệt là dân chủ XHCN ở Việt Nam. Tác giả cũng đã nêu và làm rõ vị trí và tầm quan trọng của tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là điều kiện để xây dưng chế độ dân chủ XHCN vừa phát huy được nguồn lực con người trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Ở nước ta, khi bước vào quá trình đẩy mạnh công nghiêp hóa hiện đai hóa đất nươc bên cạnh các nguồn lực về tài nguyên để đẩy mạnh công nghiệp hóa thì nguồn lực về con ngườ đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ giư ổn định cho sự phát triển mà nó còn đóng vai trò quyết định đến việc phát triển nhanh hay chậm của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, để phát huy tối đa nguồn tai nguyên này thì đòi hỏi đảng ta phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khi nhân dân nhận thấy được vai trò vị trí quyền làm chủ của mình thì nhân dân sẽ phát huy hết khả năng của mình và sẽ phát huy tối đa nguồn tài nguyên này, nhận thức được điều này Đảng ta đã tích cực phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Quyền làm chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các mối quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Nhìn chung đời sống của nhân dân đã được nâng lên. Quyền làm chủ của nhân dân về chính trị có bước tiến quan trọng. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN Một số phương hướng Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Những quan điềm của Hồ Chí Minh về phát huy quyền làm chủ của nhân dân cần được vân dụng đối với Đảng bộ Hà Tĩnh. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập... trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn.Vì vậy theo tư tưởng của người đê phát huy được quyền làm chủ của nhân dân cần Thứ Nhất. Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Làm thế nào để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình? Đây là vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác - Lênin, chưa có cuộc cách mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ. Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một Nhà nước mới ở Việt Nam là một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về phát .huy quyền làm chủ của nhân dân đó là Nhà nước của dân Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập mọi quyền lực trong tay Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong các hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo : Hiến pháp năm 1946 và hiến pháp 1959. Hiến pháp 1946 nêu rõ :Mọi công việc quốc gia do dân phán quyết : Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhân dân có quyền làm chủ về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao của nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát nhà nước, Phải bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu được bầu ra... Tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Như vậy, bộ máy nhà nước phải do dân cử ra, tổ chức nên; hoạt động của Nhà nước phải lấy mục tiêu là phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. “Nhà nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, ngày càng tiến bộ về vật chấtvà tinh thần, làm cho trong xã hội không có người bóc lột người”. Nhà nước được tổ chức trên cơ sở pháp luật; pháp luật cũng là nền tảng chủ yếu của mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, bảo vệ sự an toàn về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm cho con người. Những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật và trên cơ sở tôn trọng uy quyền của pháp luật; là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân, do nhân dân lập nên và được kiểm tra, giám sát bởi nhân dân. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân quyền làm chủ của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không tín nhiệm với sự tín nhiệm của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, muôn đảm bảo được tính chất nhân dân của Nhà nước, phải xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra. Cử tri và đại biểu cử tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do bản chất của cơ chế này quy định. Và, khi không hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn tư cách đại biểu. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Và cao hơn nữa là “nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Những tư tưởng đó của Hồ Chí Minh thật trong sáng, rõ ràng, thể hiện sâu sắc quyền làm chủ của nhân dân của bộ máy nhà nước mà Người nỗ lực xây dựng. Nhà nước phải có trách nhiệm tạo cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để nhân dân cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong hàng nghìn năm của dân
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng