LuËn v¨n tèt nghiÖp
Thủ tục và cách thức giải quyết khiếu nại từ phía khách hàng luôn được
doanh nghiệp bảo hiểm và người được bảo hiểm thoả thuận trong hợp đồng.
Ngoài quy định về thời hạn khiếu nại, trong hợp đồng bảo hiểm luôn quy định rõ
cách thức giải quyết khiếu nại là thương lượng giữa các bên trong trường hợp
không thể giải quyết bằng thương lượng được một trong các bên có quyền yêu
cầu đưa tranh chấp ra giải quyết tại toà án theo thủ tục tố tụng dân sự, kinh tế.
Quan hệ giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại trong những trường hợp trên
là bình đẳng. Thực hiện máy móc việc giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành
chính mệnh lệnh trong trường hợp này là không đúng với bản chất khiếu nại.
Việc đưa ra cơ sở pháp lý để giải quyết khiếu nại bảo hiểm là một công
việc không khó. Vấn đề khó là làm sao để người khiếu nại chấp nhận cách giải
quyết đó, không khiếu nại tiếp. Mỗi khiếu nại cần một biện pháp giải quyết
riêng. Tìm ra được biện pháp giải quyết phù hợp là đã đảm bảo được phần thắng
công việc giải quyết khiếu nại.
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
21
LuËn v¨n tèt nghiÖp
4. Một số vấn đề về trục lợi bảo hiểm
4.1 Khái niệm trục lợi bảo hiểm
Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố tình gian dối, lừa đảo có thể có chủ ý
ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh sau khi đã xảy ra rủi ro cho đối
tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ doanh nghiệp bảo hiểm mà
đáng lý ra họ không được hưởng. Đây là một sự gian lận trong bảo hiểm và là
vấn đề nhức nhối đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Trục lợi bảo hiểm diễn ra
ở hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm và bất cứ nước nào đã triển khai BHTM thì ở
nước đó sẽ có trục lợi bảo hiểm, phổ biến đến nỗi hàng năm trên thế giới họ đã
thống kê về tình hình trục lợi cũng như trao đổi thông tin, tổ chức các buổi hội
thảo thường kỳ liên quan đến chống gian lận bảo hiểm.
4.2 Nguyên nhân và hậu quả của trục lợi bảo hiểm
Về nguyên nhân: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trục lợi
bảo hiểm. Tuy nhiên, có thể kể đến một số nguyên như sau:
+ Do những kẽ hở pháp luật và do thực hiện pháp luật không nghiêm,
thiếu sự kiểm tra, kiểm soát và xử lý nên nhiều người nảy sinh hành vi gian lận.
Ví dụ các nghiệp vụ bảo hiểm mà luật kinh doanh bảo hiểm quy định bắt buộc
như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba,
nhưng các chủ xe không tham gia bảo hiểm vì không có sự kiểm tra xử phạt.
+ Thị trường bảo hiểm luôn sôi động, phức tạp, tình hình cạnh tranh
ngày càng khốc liệt nên các doanh nghiệp bảo hiểm luôn phải giữ bí mật thông
tin. Việc trao đổi những thông tin cần thiết về khách hàng giữa các doanh nghiệp
bảo hiểm hầu như không có. Vì vậy, một đối tượng tài sản nào đó có thể tham
gia bảo hiểm ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm. Khi rủi ro tổn thất xảy ra họ đã
được nhận tiền bồi thường ở tất cả các công ty bảo hiểm.
+ Nhận thức của người dân về pháp luật còn nhiều yếu kém, nhất là
những văn bản pháp quy về bảo hiểm. Nhiều người dân nhận thức còn rất mơ hồ
về bảo hiểm và họ cho rằng quỹ bảo hiểm giống như quỹ phúc lợi. Cho nên đã
có rất nhiều trường hợp nói sai sự thật để giúp nạn nhân nhận quyền lợi bảo
hiểm.
+ Không gian địa lý cũng là nơi phát sinh gian lận bảo hiểm. Đối với
những tổn thất xảy ra ở xa, hoang vắng, ít người qua lại (đối với bảo hiểm xe cơ
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
22
LuËn v¨n tèt nghiÖp
giới, tàu thuyền), khó có thể giữ nguyên hiện trường, sự thay đổi tình tiết hiện
trường có lợi cho người tham gia bảo hiểm là rất dễ xảy ra.
+ Do lỗi vô tình hay cố ý của các nhân viên bảo hiểm. Họ có thể vô tình
ghi sai ngày tham gia bảo hiểm trên giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc do thiếu
trách nhiệm đã không đánh giá đúng mức độ trầm trọng của rủi ro cũng có thể
nhân viên bảo hiểm thông đồng với khách hàng để trục lợi bảo hiểm. Họ có thể
đánh giá cao mức độ tổn thất hoặc vạch đường đi nước bước cho khách hàng lợi
dụng các kẽ hở về giấy tờ, về thủ tục giám định, bồi thường để trục lợi.
+ Do sự thông đồng giữa những người tham gia bảo hiểm có hành vi
gian lận với những người có liên quan như y, bác sỹ, những người làm chứng
trong các tai nạn, rủi ro… Ví dụ như mua chuộc bác sỹ để dựng lên bệnh án
hoặc làm giả, kê những đơn thuốc đắt tiền để đòi được số tiền bảo hiểm nhiều
hơn… khá phổ biến trong loại hình bảo hiểm con người
- Hậu quả của trục lợi bảo hiểm: Theo Hiệp hội các hãng bảo hiểm châu
Âu, hàng năm họ bị thiệt hại vì trục lợi bảo hiểm không dưới 10 tỷ USD , chiếm
gần 2,5% số phí bảo hiểm. Chỉ riêng các vụ gian lận về cháy, mất cắp xe hơi,
mất trộm tại nhà, hàng năm các hãng bảo hiểm ở Pháp đã thiệt hại tới gần 10 tỷ
France (theo giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm). Một vài con số như thế
tuy chưa khái quát được hết tác hại nghiêm trọng của trục lợi bảo hiểm đối với
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhưng cũng đủ làm
cho các nhà bảo hiểm phải giật mình vì lượng thất thoát đi là khá lớn. Ở nước ta
hiện nay, chưa có công ty bảo hiểm nào thống kê được chính xác hàng năm
doanh nghiệp mình bị trục lợi mất bao nhiêu .
- Có thể kể đến một số hậu quả do trục lợi bảo hiểm gây ra như sau :
+ Đối với doanh nghiệp bảo hiểm hậu quả có thể tính toán được do hành
vi trục lợi bảo hiểm là làm giảm lợi nhuận hiệu quả kinh doanh bị hạn chế.
Thậm chí còn tác động xấu đến uy tín của doanh nghiệp .
+ Đối với khách hàng là những người trung thực sẽ bị thiệt thòi về quyền
lợi bởi vì phí bảo hiểm mà họ phải nộp lại dùng để trả cho những khoản tiền
gian lận không được phát hiện ra. Do vậy doanh nghiệp nào có nhiều vụ gian lận
thì sẽ có phí bảo hiểm cao hơn những doanh nghiệp kiên quyết chống và loại trừ
những kẻ trục lợi bảo hiểm .
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
23
LuËn v¨n tèt nghiÖp
+ Đối với xã hội gian lận bảo hiểm là một nguy cơ về đạo đức, làm tha
hoá, biến chất cán bộ nhà nước, làm cho môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh
và thiếu sự công bằng. Điều đó dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, gây rối
trật tự an ninh xã hội .
4.3. Các biện pháp phòng chống trục lợi bảo hiểm .
Trên thế giới, việc phòng chống trục lợi bảo hiểm được các doanh nghiệp
bảo hiểm hết sức coi trọng. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã thành lập các đội,
các ban phòng chống trục lợi bảo hiểm của riêng mình và ở nhiều nước đã áp
dụng một cách khá hiệu quả các biện pháp sau :
- Không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm. Đối với những
nghiệp vụ bảo hiểm mà pháp luật quy định bắt buộc khách hàng phải tham gia
cần có sự phối hợp với các cơ quan chức năng để kiểm tra theo dõi và đưa ra
những mức tiền phạt thích đáng cao hơn mức phí bảo hiểm mà họ phải nộp .
- Doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức các đầu mối quản lý, theo dõi kiểm
tra chặt chẽ các cán bộ, các đại lý và cộng tác viên bảo hiểm. Một mặt phải
nhắc nhở họ thực hiện đúng chức năng quyền hạn nhiệm vụ. Mặt khác phải đề ra
những cơ chế quản lý phù hợp: phí bảo hiểm thu được trong ngày, cuối ngày
phải nộp; giấy chứng nhận bảo hiểm cấp trong ngày phải thông báo cho doanh
nghiệp bảo hiểm vào cuối ngày; khi khách hàng tham gia bảo hiểm với số tiền
lớn là bao nhiêu thì phải báo cáo về doanh nghiệp bảo hiểm kiểm tra theo dõi …
- Quá trình giám định và bồi thường, chi trả bảo hiểm phải thực hiện
đúng nguyên tắc và trình tự mỗi khâu: nếu thấy nghi ngờ một loại giấy tờ nào
đó hoặc không rõ thời gian, không gian trong các vụ tổn thất cần xác minh lại
ngay. Nếu thấy cần thiết phải báo ngay để doanh nghiệp bảo hiểm tổ chức xác
minh, điều tra cho rõ. Ngoài phương án điều tra độc lập, cần tranh thủ sự giúp
đỡ của các bên có liên quan như: chính quyền địa phương, công an, y bác sỹ và
những người làm chứng...
- Nếu phát hiện có sự gian lận cần phải theo dõi chặt chẽ đối tượng, tổ
chức điều tra xác minh chính xác và nhờ các cơ quan chức năng can thiệp. Kinh
nghiệm của nhiều nước cho thấy cần tập trung điều tra những đối tượng sau:
+ Những người tham gia bảo hiểm với nhiều loại hình khác nhau và ở
nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
24
LuËn v¨n tèt nghiÖp
+ Tai nạn xảy ra gần với ngày kí hợp đồng hoặc tai nạn xảy ra ngay sau
khi khách hàng mua bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn.
+ Số vụ tai nạn tăng cùng một địa điểm.
+ Số vụ tai nạn xảy ra do cùng một nguyên nhân.
+ Giấy yêu cầu bảo hiểm không phải do chính người được bảo hiểm
hoặc người thụ hưởng bảo hiểm đề nghị.
+ Quan tâm giáo dục ý thức, trách nhiệm, tính kỷ luật trong tất cả các
khâu công việc do cán bộ nhân viên kể cả đại lý và công tác viên trong doanh
nghiệp. Bên cạnh đó phải có chính sách đãi ngộ thoả đáng với họ, thưởng phạt
phải hết sức nghiêm túc và có nề nếp.
Tuy vậy, việc theo dõi phòng chống gian lận bảo hiểm không được làm
ảnh hưởng đến các công việc khác trong hoạt động kinh doanh. Nhất là không
được chậm trễ trong quá trình thanh toán bảo hiểm cho khách hàng vì tuyệt đại
đa số khách hàng là những người trung thực.
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
25
LuËn v¨n tèt nghiÖp
PHẦN II:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI CÁC
NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CON NGƯỜI TẠI PJICO
I. Vài nét về công ty PJICO.
1. Lịch sử ra đời và phát triển .
Từ năm 1994 về trước, trên thị trường bảo hiểm nước ta duy nhất chỉ có một
doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo kiểu"một mình một chợ", đó là Tổng
Công Ty (TCT) Bảo Việt thuộc Bộ Tài Chính. Nhưng cùng với sự phát triển của
nền kinh tế xã hội, đến nay trên thị trường đã có gần 20 doanh nghiệp cùng hoạt
động, cạnh tranh và tăng tốc. Công ty bảo hiểm xăng dầu PJICO là một trong
những doanh nghiệp thành đạt đó.
Hai năm sau khi chính phủ ban hành Nghị định số 100/NĐ-CP ngày
18/12/1993 thì PJICO ra đời, với các thành viên sáng lập có tiềm lực kinh tế
mạnh như các TCT: thép, xăng dầu, đường sắt, ngân hàng ngoại thương Việt
Nam, công ty tái bảo hiểm quốc gia, công ty vật tư và thiết bị toàn bộ, điện tử
Hà Nội, công ty TNHH thiết bị an toàn. Công ty có tổng vốn đầu tư là 55 tỷ
đồng, tiền ký quỹ là 2 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư được chia thành 27.500 cổ
phần, mệnh giá cổ phiếu là 2.000.000 đ Việt Nam, cụ thể là:
BẢNG 3: Danh sách các cổ đông chính của PJICO và tỷ lệ vốn góp (năm 1995)
Cổ đông
Tỷ lệ
Vốn góp
Cổ phiếu
(%)
(tr.đ)
(tờ)
1. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam
51
28.050
4.025
2. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
10
5.500
2.750
3. Tổng công ty thép Việt Nam
6
3.300
1.650
4. Công ty tái bảo hiểm quốc gia
8
4.400
2.200
5. Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ
3
1.650
825
0,5
275
138
2
1.100
550
19,5
10.725
5.362
6. Công ty TNHH thiết bị an toàn
7. Công ty điện tử Hà Nội
8. Cá nhân khác
( Nguồn: công ty PJICO)
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
26
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Với giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số
06-TC/GCN ngày 17/5/1995 của Bộ tài chính, giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh số 060256 ngày 15/6/1995 của Sở kế hoạch Hà Nội, PJICO có thời hạn
họat động là 25 năm. Hết thời hạn, nếu muốn tiếp tục hoạt động, PJICO phải xin
gia hạn. Nhiệm vụ chủ yếu của PJICO trong thời gian đầu là thực hiện bảo hiểm
cho các công ty thành viên.
PJICO là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo
hiểm phi nhân thọ. Khi ra đời, trong những ngày đầu hoạt động, PJICO đã trải
qua rất nhiều khó khăn khi cơ chế luật pháp chưa hoàn thiện, khách hàng chủ
yếu ở dạng tiềm năng, đội ngũ cán bộ nhân viên còn ít ỏi, kinh nghiệm chưa có
nhiều, thêm vào đó là nguồn vốn hoạt động chỉ có hơn 30 tỷ đồng, song dưới sự
lãnh đạo đúng đắn kịp thời của hội đồng quản trị, sự ủng hộ của các cổ đông
sáng lập và hơn hết là sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, nhân viên PJICO
đã nhanh chóng tiếp cận thị trường triển khai hơn 50 loại hình dịch vụ bảo hiểm,
tập trung vào các lĩnh vực "nóng" như giao thông vận tải, xăng dầu, xây dựng và
lắp đặt công trình, xuất nhập khẩu hàng hóa, vận chuyển. Từ các nghiệp vụ bảo
hiểm xe cơ giới, bảo hiểm rủi ro kinh doanh, hỏa hoạn, lắp đặt, xây dựng công
trình, đến bảo hiểm cho người lao động…PJICO luôn thực hiện nghiêm túc, lấy
chất lượng và chữ tín làm đầu để thu hút, phát triển khách hàng. Trên thương
trường cạnh tranh, PJICO luôn chủ động đến với khách hàng bằng những việc
làm thiết thực, hỗ trợ khách hàng sớm vượt qua hoạn nạn, khó khăn. Mọi doanh
nghiệp và người dân đều thấu hiểu mua bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu, có lợi
trước hết cho chính mình, bởi việc mua đó chính là sự phân tán rủi ro, nâng cao
độ an toàn trong sản xuất và kinh doanh.
Nhờ vậy, chỉ trên dưới 10 điểm kinh doanh đặt ở các thành phố lớn của
những năm đầu thành lập đến đầu năm 2004 này- nghĩa là sau gần 9 năm hoạt
động, PJICO đã có gần 40 chi nhánh trong đó năm 2003 tăng tốc phát triển mới
12 chi nhánh. Từ cực Bắc- Cao Bằng, Lạng Sơn đến tận Kiên Giang đất mũi Cà
Mau của đất nước. Có thể nói ở đâu cũng có "bàn tay" nhân nghĩa của PJICO.
Từ chỗ khách hàng của công ty chỉ là cổ đông đến nay công ty đã có hàng nghìn
khách hàng thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, các thành phần kinh tế. Cơ
cấu khách hàng tiếp tục phát triển theo hướng bền vững. Tất cả các lĩnh vực bảo
hiểm chủ đạo như xây dựng, lắp đặt, hàng hóa, tàu biển, xe cơ giới, con người
đều tăng đáng kể lượng khách hàng mới ngoài các khách hàng truyền thống.
Ngoài các khách hàng tại các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, thành phố Hồ
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
27
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Chí Minh, thị trường khai thác tại các địa phương khác của PJICO đã được mở
rộng. Công ty đã và đang thiết lập được quan hệ hợp tác tốt với nhiều khách
hàng lớn, tiềm năng trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế (giao
thông, điện lực, xi măng, sắt thép, hóa chất, khoáng sản, hàng hóa, đóng tàu, xây
dựng, công nghiệp, khách sạn, XNK, xăng dầu, ngân hàng…). Tỷ trọng doanh
thu ngoài cổ đông lên đến 90%. Giờ đây PJICO đã thực sự trở thành một công ty
bảo hiểm quốc gia đa ngành.
Từ khi thành lập đến nay, trải qua gần 9 năm hoạt động và phát triển, PJICO
đã chia theo vốn góp các cổ đông và các khoản thuế phải nộp ngân sách nhà
nước. Tổng doanh thu phí sau gần 9 năm kinh doanh đạt khoảng 300 tỷ với tỷ lệ
tăng trưởng phí trung bình đạt 39%/năm.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy.
PJICO là một doanh nghiệp bảo hiểm, có tổ chức, có tư cách pháp nhân hoạt
động trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành viên, giữa các bộ phận doanh
nghiệp nhằm cùng thực hiện một mục đích chung dưới sự lãnh đạo và quản lý
thống nhất của ban lãnh đạo.
Cơ cấu tổ chức là hình thức tồn tại của tổ chức biểu thị sự sắp xếp các bộ
phận được chuyên môn hóa với trách nhiệm và quyền hạn nhất định, có mối liên
hệ mật thiết với nhau... nhằm thực hiện chức năng quản lý.
Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp đó, cũng có nghĩa là việc hình thành cơ cấu tổ chức phải đảm
bảo tính hiệu quả và linh hoạt, không cứng nhắc, có thể thay đổi thích hợp với
các điều kiện ảnh hưởng do môi trường hoạt động của doanh nghiệp luôn luôn
thay đổi.
Tổ chức một doanh nghiệp với mô hình hợp lý là nội dung của thực hiện
chiến lược kinh doanh, nhưng mặt khác bộ máy tổ chức là công cụ rất quan
trọng để thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, tổ
chức của một doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra.
Một mô hình tổ chức của doanh nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu cơ
bản trên và PJICO không phải là ngoại lệ. PJICO có trụ sở chính đặt tại số 22
Láng Hạ- Đống Đa, Hà Nội, hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Đây chính là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, điều hành
các hoạt động đối nội, đối ngoại của PJICO.
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
28
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Dưới trụ sở chính là hệ thống các phòng ban. Văn phòng chi nhánh có trách
nhiệm thực hiện các hoạt động kinh doanh theo phân cấp của quản lý doanh
nghiệp. PJICO có cơ cấu tổ chức tuân thủ chặt chẽ theo trật tự cơ cấu của một
công ty cổ phần, điều đó được thể hiện qua mô hình sau đây:
Đại hội cổ đông
Hội đồng quản trị
Tổng giám đốc
Phó TGĐ
Phó TGĐ
P. Tổng hợp
P. Tổ chức
VPBH phía
băc +miền trung
P.BH phi hàng
hải
P.Đầu tư tín
dụng
P.BH tài sản
P.Bồi thường
P.Kế toán
P.BH hàng hải
Ban thanh tra
pháp chế
P. Tái bảo hiểm
VPBH chi
nhánh miền
nam
Tổng đại lý, đại lý, cộng tác viên
bảo hiểm
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
29
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Hình 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy PJICO
Với mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy như trên, PJICO tỏ ra hết sức năng động,
linh hoạt trước những thay đổi của môi trường kinh doanh, nắm bắt và phục vụ
kịp thời, chu đáo các nhu cầu của khách hàng. Đây chính là một trong những
nhân tố chủ yếu đưa PJICO đến với thành công như hiện nay.
II. Kết quả hoạt động kinh doanh
1. Thuận lợi và khó khăn
1.1 Thuận lợi
PJICO được sự hỗ trợ lớn của các cổ đông thành viên trong những ngày đầu
mới thành lập. Đây là một trong những thuận lợi lớn của PJICO, giúp công ty có
thể đứng vững trên thị trường khi kinh doanh trong ngành bảo hiểm còn nhiều
mới mẻ.
Là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động kinh doanh ngay sau nghị định 100CP của chính phủ, tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng PJICO đã nhanh chóng
chiếm được một thị phần nhất định, tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định và
vững chắc sau này.
PJICO là một trong những công ty bảo hiểm có chất lượng dịch vụ tốt trên
thị trường, được khách hàng tín nhiệm. Để có chất lượng dịch vụ tốt, thuận tiện
ngoài sự năng động, làm việc hết mình của đội ngũ cán bộ nhân viên thì công ty
còn có đội ngũ lãnh đạo tốt, có nhận thức đúng đắn trong việc thực hiện các cam
kết với khách hàng. Ở PJICO, lãnh đạo công ty thường xuyên kiểm soát chất
lượng dịch vụ, đồng thời yêu cầu các bộ phận giải quyết bồi thường phải có cam
kết hỗ trợ nhau. Bộ phận bán hàng, bộ phận marketing thường xuyên cập nhật
những thay đổi của các đối thủ cạnh tranh và tập hợp các ý kiến khách hàng để
xem xét điều chỉnh, đảm bảo chất lượng dịch vụ luôn dẫn đầu. Nhờ đó, hệ thống
chất lượng và dịch vụ bán hàng và hệ thống marketing thường xuyên cập nhật
những thay đổi của các đối thủ cạnh tranh và phản ánh những ý kiến khách hàng
để điều chỉnh, đảm bảo chất lượng dịch vụ luôn dẫn đầu.
Ngoài ra công ty còn có mối quan hệ tốt đối với các công ty bảo hiểm, tái
bảo hiểm lớn trên thế giới. Điều này tạo điều kiện cho PJICO có thể nhận bảo
hiểm cho các hợp đồng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm lớn do đã có sự hậu thuẫn
của các công ty tái bảo hiểm trên.
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
30
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Sự hiểu biết của người dân về bảo hiểm cũng đã được cải thiện nhờ đó PJICO dễ
dàng khai thác để bán các sản phẩm bảo hiểm hơn.
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
31
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.2 Khó khăn
Theo đánh giá của thế giới, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, đang phát
triển, thu nhập bình quân đầu người đã tăng khá cao so với những năm trước
song trình độ dân trí chưa cao. Người dân vẫn còn rất dè dặt khi tham gia bảo
hiểm, bởi vì đối với họ việc tham gia bảo hiểm một cách tự nguyện không phải
là nhu cầu cấp thiết so với các nhu cầu khác của đời sống. Đối với các doanh
nghiệp cũng thế, họ phải tự quản lý đồng vốn, tự trang trải khi gặp khó khăn nên
mặc dù có ý thức muốn đảm bảo đời sống cho nhân viên, muốn nhân viên làm
việc với chế độ đãi ngộ tốt nhất để bảo vệ an toàn cho hoạt động kinh doanh của
mình nhưng do thực tế hiệu quả đạt được, họ rất ít khi tham gia bảo hiểm con
người cho các thành viên.Vì lẽ đó mà số lượng công ty ký hợp đồng bảo hiểm
con người tại PJICO chỉ dừng lại con số khiêm tốn nếu đem ra so sánh với tổng
số công ty đang tạo ra hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động trên thị
trường. Một số công ty tham gia bảo hiểm con người thì lại là những vị khách
hàng khó tính, luôn đòi hỏi các dịch vụ bảo hiểm có uy tín, nhanh nhậy, linh
động và khi có rủi ro xảy ra với người được bảo hiểm thì phải nhanh chóng được
tiến hành để không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là điều dễ
hiểu trong khi thị trường luôn sôi động với sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các
công ty bảo hiểm .
Trong quá trình phát triển đi lên như vậy, không phải PJICO luôn thuận
buồm xuôi gió. Trong mỗi một cơ cấu, một tổ chức luôn tồn tại những vấn đề
bất cập, những khó khăn nhất định, PJICO không nằm ngoài quy luật đó. Không
có gì là bất biến, chính sự thay đổi nhanh đến chóng mặt của thi trường, của nhu
cầu người mua bảo hiểm đòi hỏi quy trình kinh doanh của công ty phải biến đổi
cho phù hợp với thực tế. Ta có thể kể đến một số khó khăn mà công ty dang gặp
phải là:
Thứ nhất: Khó khăn về thị trường
Sau khi ban hành nghị định 100 CP ngày 18/02/1993, tiếp đó là nghị định
74CP ngày 14/06/1997, cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế, kể cả doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam,
các công ty lâm vào tình trạng cạnh tranh gay gắt, lôi kéo khách hàng của nhau.
Việc mở rộng hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài trên thị trường
như Allianz-AGF, Sam sung-Vina, Incombank-Asia...càng làm tăng tính cạnh
tranh, dẫn đến phí bảo hiểm bị giảm xuống đáng kể. Sự cạnh tranh không lành
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
32
LuËn v¨n tèt nghiÖp
mạnh thậm chí còn khiến một số công ty bảo hiểm hạ phí xuống dưới mức cho
phép, gây nguy hiểm không chỉ bản thân công ty đó mà còn cả rủi ro cho khách
hàng tham gia do khả năng đảm bảo bảo hiểm thấp. Việc ban hành luật kinh
doanh bảo hiểm, những văn bản hướng dẫn thực thi bảo hiểm của nhà nước
chứng tỏ rằng Việt Nam đánh giá cao tiềm năng của lĩnh vực bảo hiểm và coi
bảo hiểm thực sự là một công cụ quan trọng để phát triển có định hướng nền
kinh tế-xã hội. Với tiềm năng của một thị trường với gần 80 triệu dân còn rất
lớn, với sự góp mặt của nhiều công ty bảo hiểm nữa, không chỉ riêng PJICO mà
các doanh nghiệp bảo hiểm khác sẽ luôn phải đối đầu với sự cạnh tranh nhằm
phân chia thị trường bảo hiểm trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm chưa hoàn thiện, chưa
có cơ chế quản lý tài chính phù hợp vừa nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, tương
thích với các hoạt động bảo hiểm phát triển vừa đảm bảo sự giám sát chặt chẽ,
chống mọi sự lợi dụng, trục lợi của các bên liên quan trong hoạt động này.
Hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng chưa
được chú trọng phát triển. Với hơn 50 nghiệp vụ, sản phẩm bảo hiểm do PJICO
cung cấp có thể gọi là đa dạng, phong phú. Đây đều là các nghiệp vụ mà hầu hết
các công ty bảo hiểm phi nhân thọ đều tích cực triển khai. Tuy nhiên, để tạo
tiếng tăm trên thị trường, PJICO không chỉ phải tạo chất lượng phục vụ tốt, chu
đáo mà còn cần phải đầu tư nghiên cứu sản phẩm mới, mặc dù công việc này rất
phức tạp, đòi hỏi chuyên môn cao nhưng đây sẽ là một trong các yếu tố làm
PJICO khác biệt với các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Khó khăn này một phần
vì PJICO thiếu những chuyên viên định phí bảo hiểm có trình độ cao, một phần
vì chưa được quan tâm đầu tư xác đáng.
Thứ hai: Khó khăn về trình độ quản lý và chuyên môn của cán bộ nhân viên
Là một công ty cổ phần mới được thành lập, PJICO được sự hỗ trợ lớn của
các cổ đông thành viên nhưng công ty cũng gặp không ít khó khăn trong việc tổ
chức quản lý bộ máy. Khi mới được thành lập, ban quản trị của công ty đều là
cán bộ chủ chốt trong các công ty góp vốn, sự am hiểu tinh tường về bảo hiểm
vì thế bị hạn chế. Cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của PJICO, các
kiến thức về chuyên ngành bảo hiểm càng được trau dồi và đạt được những kết
quả khá tốt. Nhưng bảo hiểm là ngành kinh doanh dịch vụ tài chính, để thu được
thành công như mong đợi thì việc quản lý, tổ chức công ty không phải là công
việc dễ dàng.
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
33
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn của cán bộ nhân viên trong công ty cũng
là một vấn đề nổi cộm. Phần lớn họ đã được đào tạo qua về bảo hiểm, có tuổi trẻ
và sự năng động, thích ứng nhanh được với thị trường. Một điều dễ nhận thấy là
không phải ai cũng xuất sắc trong công việc. Tình trạng cán bộ bảo hiểm bị hạn
chế bởi kỹ năng bán hàng, khả năng giao tiếp về ngoại ngữ, trình độ sử dụng vi
tính, bề dày kinh nghiệm còn khá phổ biến và đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu
quả kinh doanh của toàn công ty .
Thứ ba : Khó khăn về tài chính
Để kinh doanh được trong nghành bảo hiểm cần một lượng vốn rất lớn do
đặc điểm của sản phẩm là phải trích lập quỹ dự phòng bồi thường.Với tiềm lực
về tài chính hùng hậu, công ty bảo hiểm sẽ dễ dàng nhận bảo hiểm cho các công
trình hay tài sản có giá trị lớn. Nếu không may rủi ro xảy ra, công ty vẫn có thể
chi trả cho khách hàng đầy đủ như cam kết. Khi thành lập, PJICO có tổng số vốn
điều lệ là 55 tỷ đồng, số vốn này cho phép công ty có thể nhận bảo hiểm cho
những tài sản, công trình có giá trị nhỏ và trung bình. Với những hợp đồng có số
tiền bảo hiểm quá lớn, công ty lại phải phụ thuộc vào khả năng nhận tái bảo
hiểm của các công ty khác, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài như
ERC, Hanover, Munich Re…Thực tế là đã có khá nhiều hợp đồng được PJICO
ký kết khi có sự hậu thuẫn của các công ty trên.
Trên đây đề cập đến một số khó khăn của toàn công ty. Khó khăn thì nhiều
nhưng những gì mà PJICO đạt được trong những năm vừa qua đang là lời giải
cho bài toán đó.
2. Kết quả hoạt động kinh doanh
Bước vào hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm từ năm 1995
nhưng đến nay PJICO đã có tới 36 chi nhánh và gần 1000 văn phòng, đại diện,
tổng đại lý, đại lý trải khắp cả nước. Với phương châm luôn có mặt tận hiện
trường để giúp đỡ, chia sẻ rủi ro với khách hàng bằng hệ thống dịch vụ nhanh
nhất và tốt nhất, trong suốt khoảng thời gian gần 9 năm hoạt động, tốc độ tăng
trưởng doanh thu bình quân của PJICO là 39%/ năm.
Theo ông Trần Nghĩa Vinh- tổng giám đốc PJICO cho biết để có được hệ
thống dịch vụ có chất lượng như hôm nay, công ty đã phải đầu tư mạnh vào 3
yếu tố: con người, quy trình phục vụ, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật mà trước
hết là hệ thống công nghệ thông tin kinh doanh dịch vụ tài chính và bảo hiểm
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
34
LuËn v¨n tèt nghiÖp
phải có công nghệ thông tin hiện đại. Chỉ trong vòng chưa đầy một năm kể từ
giữa năm 2002 từ một đơn vị lạc hậu về công nghệ thông tin nay PJICO đã thực
sự trở thành một công ty có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. Hệ thống này
không chỉ là việc đầu tư vào cơ sở vật chất cho mạng thông tin mà còn là việc
đào tạo và tổ chức ứng dụng cho hơn 500 con người để sử dụng một cách thành
thạo, thường xuyên. Đồng thời qua hệ thống này, toàn bộ quy trình quản lý đã
được tái cấu trúc hợp lý để việc trao đổi thông tin thực sự hiệu quả, đáp ứng tốt
nhất nhu cầu điều hành chung.
Xét về tổng doanh thu: qua gần 9 năm hoạt động mức doanh thu của PJICO
không ngừng tăng lên, do nhiều nguồn khác nhau đó là:
- Doanh thu từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc.
- Doanh thu từ hoạt động nhận và nhượng tái bảo hiểm.
- Doanh thu từ họat động đầu tư tài chính.
- Doanh thu từ hoạt động khác (Thu hoa hồng nhượng tái, thu phí nhận tái).
Để thấy rõ hết kết quả kinh doanh của PJICO, ta có thể nhìn vào bảng sau.
BẢNG 4: Doanh thu của PJICO (1999-2003)
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng doanh thu
114,7
133
166,9
215,3
409
DT phí BH gốc
92,4
110
137,6
177,8
337,9
DT từ đầu tư
8,15
7,15
8,56
9,69
18,4
14,15
15,85
20,74
27,81
52,70
DT hoạt động khác
(Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh)
Hình 2: Đồ thị doanh thu của PJICO giai đoạn 1999 - 2003
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
35
LuËn v¨n tèt nghiÖp
N¨m
450
400
350
300
250
200
150
100
50
0
Tû ®ång
Tæng doanh thu
DT phÝ BH gèc
DT tõ ®Çu t
DT ho¹t déng kh¸c
1999
2000
2001
2002
2003
Nhận xét:
Về tổng doanh thu:
Một điều rõ ràng là tổng doanh thu PJICO có sự tăng trưởng ổn định và
tăng đều qua các năm với tốc độ khá cao. Năm 2002 là năm mà nền kinh tế thế
giới có nhiều biến động lớn đặc biệt là sau vụ khủng bố 11/9 tại Mỹ và đã nhiều
ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều ngành kinh tế nước ta trong đó có ngành bảo
hiểm.Nhưng PJICO đạt tổng doanh thu kinh doanh trên 200 tỷ đồng, tăng trưởng
27.1% so với năm 2001, nộp ngân sách gần 16 tỷ đồng, chia lãi cổ tức 1.25%/
tháng, khả năng tài chính tiếp tục được củng cố vững chắc với tổng vốn kinh
doanh đạt gần 200 tỷ đồng.
Thế nhưng, nếu năm 2002 là năm PJICO đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất
trong giai đoạn 1998-2002 thì đến năm 2003 là một năm có tốc độ tăng trưởng
cao nhất kể từ khi thành lập đến nay, đạt được những thành công đáng ghi nhận
và mang tính đột phá. Tốc độ tăng trưởng doanh thu cao gần 90%, gấp 3.3 lần
mức tăng chung của thị trường trong đó văn phòng công ty tăng trưởng tới 2.14
lần, các chi nhánh trên toàn quốc đều tăng trưởng khá từ 30%-60%. Năng lực tài
chính được nâng cao nhờ việc trích lập các quỹ dự phòng và bổ sung vốn cổ
đông tăng hơn 150%, tổng vốn và tài sản tăng gần 2 lần so với năm 2002 và đến
nay công ty có số vốn tích lũy tăng 10 lần so với vốn ban đầu. Nghiệp vụ bảo
hiểm đa dạng, phong phú. Uy tín và thương hiệu PJICO ngày càng được nhân
rộng, vững chắc.
Về doanh thu phí bảo hiểm gốc:
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
36
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Đây là nguồn thu chủ yếu trong tổng doanh thu của công ty. Năm 2001
doanh thu phí bảo hiểm gốc chiếm tỷ trọng 82,44%, sang năm 2003 chiếm là
82,62%. Tốc độ tăng trưởng của doanh thu phí bảo hiểm gốc cũng tăng đều qua
các năm: năm 2001 có tốc độ tăng so với năm 2000 là 22,6%, năm 2003 tốc độ
này là 47,3%. Đạt được điều này là do công ty có sản phẩm bảo hiểm thì đa
dạng, phong phú, chất lượng phục vụ tốt và chu đáo nên đã khai thác được nhiều
khách hàng.
Về hoạt động đầu tư:
Chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng doanh thu phí bảo hiểm: năm 2001
chiếm tỷ trọng 5,13%, năm 2003 chiếm 4,5%. Tuy vậy, nguồn thu từ hoạt động
này không nhỏ, năm 2003 thu được khoảng 18,4 tỷ đồng từ việc đầu tư nguồn
vốn nhàn rỗi. Doanh thu từ hoạt động đầu tư của công ty tăng trưởng khá đồng
đều, góp phần làm tăng nguồn vốn kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và
giảm phí bảo hiểm.
Về các hoạt động khác:
Doanh thu từ các hoạt động khác càng tăng theo các năm và chiếm tỷ trọng
khá lớn. Năm 2003 đạt 52,7 tỷ, chiếm 12,9% trong cơ cấu tổng doanh thu chứng
tỏ hoạt động trong các lĩnh vực này ngày càng có hiệu quả.
Do hoạt động kinh doanh bảo hiểm có đặc điểm là chu trình kinh doanh
đảo ngược nên các công ty bảo hiểm thường có khoản quỹ bảo hiểm (được xem
như là khoản nợ chưa đến hạn phải trả cho khách hàng) rất lớn. Mặc dù môi
trường đầu tư ở Việt Nam còn hạn hẹp, rủi ro cao nhưng PJICO vẫn luôn chú
trọng và sử dụng tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư sao cho vừa có hiệu
quả vừa an toàn vào các hạng mục đầu tư được luật pháp cho phép.
Như vậy, với kết quả họat động kinh doanh đem lại, hàng năm PJICO đã
chi trả lãi cổ tức cho các cổ đông là 14.4%/năm cao gấp 1.5-2 lần lãi suất tiền
gửi ngân hàng. Cho đến nay mỗi cổ đông đã thu hồi được trên 64% số vốn góp
ban đầu không kể phần tích lũy giữ lại trích cho các quỹ dự phòng và quỹ dự trữ
của công ty. Ngoài ra, PJICO cũng luôn thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước,
đúng hạn và đầy đủ trung bình khoảng 13 tỷ/ năm.
Hoạt động đối ngoại và tái bảo hiểm cũng góp phần tích cực vào việc nâng
cao chất lượng dịch vụ của PJICO trong những năm qua. Sự năng động, linh
hoạt, sáng tạo của tái bảo hiểm là hậu phương vững chắc cho hoạt động kinh
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
37
LuËn v¨n tèt nghiÖp
doanh bảo hiểm gốc và để mang lại lợi ích thiết thực cho khách hàng. Thông qua
hoạt động tái bảo hiểm, các tập đoàn bảo hiểm lớn trên thế giới đã công nhận
PJICO là công ty bảo hiểm có năng lực chuyên môn cao và đang có những thành
công lớn trong những năm gần đây. Nhờ đó các tập đoàn tái bảo hiểm hàng đầu
thế giới như: Munich Re, Swiss Re, Hannover Re, ERC …đã quyết định đầu tư
thêm 40% năng lực nhận tái bảo hiểm cho PJICO, giúp PJICO có điều kiện phục
vụ khách hàng tốt hơn. Toàn bộ tài sản của khách hàng từ tàu biển, hàng hóa,
các công trình xây dựng, tài sản của các chủ đầu tư khi tham gia tại PJICO đã
được các tập đoàn tái bảo hiểm lớn trên thế giới đảm bảo về tài chính. Năm
2003, nhiều khách hàng từ lĩnh vực liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước
ngoài đã đến với PJICO và mua bảo hiểm tại công ty như Harbin Power (dự án
nhiệt điện Cao Ngạn trị giá 85,5 triệu USD), VIMAS (khách sạn 5 sao Sheraton
trị giá 60 triệu USD), Hà Nội Lake View, Castrol Việt Nam, Sun Red River
Tower, Hanoi Melia…
Sự thành công của PJICO là do nhiều yếu tố mang lại. Nhưng quan trọng
nhất việc giải quyết cho khách hàng một cách nhanh chóng hoặc thỏa đáng.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, công ty luôn coi đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng
đầu trong hoạt động kinh doanh của mình, coi đây không chỉ thuần túy là vấn
đề đền bù tài chính mà còn là sự quan tâm, chia sẻ tình cảnh khó khăn mỗi khi
khách hàng không may gặp rủi ro. Hàng năm, PJICO đã giải quyết bồi thường
hàng nghìn vụ tổn thất với giá trị hàng trăm tỷ đồng, giúp khách hàng nhanh
chóng ổn định đời sống và sản xuất. Những năm gần đây, nhiều vụ tổn thất như:
cháy kho xăng dầu K131(21 tỷ); cháy xí nghiệp may xuất khẩu Bình Thạnh (5.4
tỷ); vụ đắm 11 nghìn tấn phân urê của Vêgecam Hải Phòng (1.4 triệu USD); các
tổn thất lớn do hậu quả của cơn bão số 5 tại đồng bằng Sông Cửu Long năm
1997 và trận lụt thế kỷ ở miền Trung cuối năm 1999… Đã được PJICO giải
quyết kịp thời và thỏa đáng.
Trong năm 2002, công ty đã giải quyết nhanh chóng, chính xác hợp lý hàng
chục nghìn vụ bồi thường cho khách hàng với tổng số tiền bồi thường hơn 77 tỷ
đồng (chiếm 44% tổng phí thu) qua đó góp phần ổn định kinh doanh và khả
năng tài chính cho các đối tượng khách hàng khi có tổn thất thuộc trách nhiệm
bảo hiểm xảy ra.
Đến năm 2003 có nhiều vụ tổn thất lớn cũng đã được PJICO bồi thường
như bồi thường vụ đắm tầu Geomoskoy tại Đài Loan với số tiền 5 tỷ, phối hợp
với chủ tầu và bỏ ra chi phí gần 5 tỷ đồng để tiến hành cứu hộ tàu Cửu Long 01
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
38
LuËn v¨n tèt nghiÖp
mắc cạn tại Đà Nẵng chỉ trong gang tấc mà nếu xảy ra thiệt hại sẽ lên tới hàng
chục triệu USD và gây ô nhiễm nghiêm trọng khu vực biển Đà Nẵng, vụ đâm va
tầu Petrolimex 01 với số tiền bồi thường 300 nghìn USD, bồi thường hàng chục
tỷ đồng cho hàng trăm vụ tổn thất trên tuyến đường Hồ Chí Minh cũng như giải
quyết bồi thường hàng vạn lượt xe cơ giới một cách nhanh chóng và thỏa đáng.
Các khách hàng khi tham gia bảo hiểm tại PJICO hầu hết đều cảm thấy hài lòng
về chất lượng phục vụ của công ty.
Cùng với sự tăng trưởng không ngừng thì thị phần của PJICO cũng có sự
phát triển khá vững chắc. Trong khi năm 2003 thị phần của các đối thủ cạnh
tranh trực tiếp trên thị trường giảm so với năm 2002 thì thị phần của PJICO lại
tăng tới 2,55%, đây là một kết quả đáng trân trọng. Sự lựa chọn, chuyển dịch,
tăng giảm của khách hàng là thước đo, là sự đánh giá chính xác nhất đối với
doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường. Thước đo kinh doanh thành đạt
của PJICO không phải là tìm mọi cách để móc túi, điều tiết thu nhập của khách
hàng mà là bằng mọi biện pháp tiếp cận tuyên truyền, hướng dẫn để khách hàng
giảm bớt hoặc loại trừ rủi ro, tự nguyện đến với công ty, bảo đảm cả hai cùng có
lợi. Thành quả đạt được trong thời gian qua của PJICO là kết quả tinh thần làm
chủ phát huy hết nội lực của hơn 500 cán bộ, công nhân viên trong công ty,
trước hết phải kể đến Hội đồng quản trị và Ban giám đốc điều hành năng động
dám nghĩ, dám làm theo quy luật kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập.
Về mặt xã hội, sự ra đời của PJICO đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng
trăm lao động trên địa bàn Hà Nội và tại các địa phương mà công ty đặt chi
nhánh, văn phòng. Đời sống của cán bộ nhân viên luôn được ban lãnh đạo quan
tâm và ngày càng được cải thiện. Về mặt trình độ, PJICO có đội ngũ nhân viên
trẻ có chuyên môn. Ngoài ra, công ty cũng thực hiện chính sách đưa cán bộ đi
đào tạo nghiệp vụ, chuyên môn ở nước ngoài và ở các công ty bảo hiểm lớn
trong nước. Đến nay, hầu hết các cán bộ nhân viên đều qua phổ cập cơ bản về
các nghiệp vụ bảo hiểm. Điều này rất quan trọng vì nó là tiền đề cho việc thúc
đẩy các hoạt động kinh doanh bảo hiểm một cách có hiệu quả hơn, đem lại
nguồn doanh thu cao hơn cho PJICO. Qua tìm hiểu được biết các nhân viên rất
tin tưởng và yên tâm làm việc để đóng góp cho công ty. Năm 2003, thu nhập của
người lao động gấp hơn 1,5 lần so với năm ngoái. Sức lao động của cán bộ nhân
viên ở công ty không thua kém bất kì một công ty nào nhưng bù lại thành quả
của họ cũng rất được trân trọng, thu nhập của họ thuộc hàng cao nhất trong
ngành bảo hiểm việt Nam.
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
39
LuËn v¨n tèt nghiÖp
3. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của BHCN PNT
3.1 Vai trò của BHCN PNT
Ngay từ khi thành lập vào ngày 18/12/1995, loại hình bảo hiểm con người
đã được PJICO đưa vào kinh doanh và coi đó là một trong những mũi nhọn phát
triển. Mặc dù đây là các nghiệp vụ bảo hiểm không sinh lời nhằm phục vụ cho
cộng đồng dân sinh: bảo hiểm con người, học sinh, giáo viên… song rất được
ban lãnh đạo công ty đầu tư, chú trọng phát triển.
Một trong các khảo sát về nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong vòng 6
tháng đầu năm của 3 năm trở lại đây cho thấy lượng phí cao nhất thuộc về
nghiệp vụ bảo hiểm ô tô và xe máy, kế đến đó là nghiệp vụ bảo hiểm con người
và đứng thứ 3 là nghiệp vụ bảo hiểm cháy. Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực
bảo hiểm con người có thể biểu hiện ở hình thức giảm mạnh phí bảo hiểm. Theo
quy định của bộ tài chính, so với biểu phí mà các công ty được phê chuẩn được
phép kinh doanh, khi xét thấy cần thiết, hàng năm công ty có thể điều chỉnh mức
phí và mức trách nhiệm cho phù hợp với tình hình biến động giá cả thị trường
(tăng, giảm khoảng 25%). Vận dụng linh hoạt quyết định đó của bộ tài chính,
PJICO cũng có những kế hoạch phù hợp. Chẳng hạn như để tham gia vào thị
trường bảo hiểm học sinh- vốn là mảnh đất độc quyền của Bảo Việt từ hơn chục
năm nay- PJICO đã đến từng trường từ mầm non, mẫu giáo, tiểu học, cho đến
trung học để đưa các bản chào phí bảo hiểm với giá ưu đãi hơn hẳn Bảo Việt.
Kết quả là một phần thị trường bảo hiểm học sinh đã thuộc về PJICO. Với
nguyên tắc bồi thường nhân đạo và thiện chí, PJICO đã tiến hành bồi thường
cho các em nhanh chóng, đầy đủ và linh hoạt. Đồng nghĩa với việc đó là uy tín
của PJICO cũng được khẳng định chắc chắn trên thị trường.
Năm 2003, doanh thu từ các nghiệp vụ bảo hiểm con người đạt trên 33 tỷ,
chiếm 9,933% trong cơ cấu doanh thu,ss tăng trưởng 26,2% so với năm trước.
Đây là một con số không nhỏ, góp phần lớn vào tốc độ tăng trưởng chung của
công ty.
Với tỷ trọng như thế cùng với mục đích phục vụ cộng đồng dân sinh,
mang tính chất nhân văn nhân đạo, bảo hiểm con ngừơi là một trong những
nghiệp vụ bảo hiểm chính mà PJICO đang triển khai. Với số lượng khách hàng
tham gia đông đảo, việc triển khai phát triển lĩnh vực này là một trong những
cách giúp PJICO quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp mình một cách hiệu
quả nhất. Ở một số vùng nông thôn đã quá quen với Bảo Việt trong bảo hiểm
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B
40
- Xem thêm -