§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
cân đối quỹ, giảm thiểu tình trạng bội chi, không hề gây gánh nặng cho
NSNN,... .
Cộng hoà Liên bang Đức không có các tổ chức BHXH thực hiện cùng
một lúc nhiều chế độ, mà thông thường mỗi tổ chức chỉ chịu trách nhiệm
thu, chi cho một loại chế độ nhất định. Điểm đáng lưu ý ở nước này là những
công chức Nhà nước ( những người được đề cử vào bộ máy quản lí Nhà
nước) không phải đóng BHXH, nhưng họ được nhận lương hưu khi hết tuổi
lao động. Khoản chi này được lấy từ nguồn thu thuế để trả. Có nhiều tổ chức
cùng tham gia thực hiện các chế độ BHXH, đặc biệt là sự có mặt của các tổ
chức BHXH tư nhân, có thể mang lại sự cạnh tranh giúp cho hoạt động
ngày càng hiệu quả.
2. Quản lí tài chính BHXH của Trung Quốc.
Ngay sau khi thành lập nước, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành
xây dựng một hệ thống an toàn xã hội, chủ yếu bao gồm BHXH, cứu trợ xã
hội, phúc lợi xã hội, trợ giúp xã hội. Trong các chế độ đó BHXH giữ vai trò
quan trọng nhất. Đến năm 1994, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua
Luật Lao động, trong đó chương IX có những quy định cải cách hệ thống
BHXH. Các chế độ BHXH chỉ được áp dụng ở các khu vực thành thị và
trong các doanh nghiệp. Tại các địa phương ở Trung Quốc đã cụ thể hoá các
chế độ, trong đó hai chế độ là hưu trí và thất nghiệp đã được xây dựng thành
Điều lệ, các chế độ khác về cơ bản còn là quy định tạm thời song có hiệu lực
khá cao.
Về nguyên tắc mỗi chế độ có một quỹ riêng. Nguồn quỹ gồm hai
khoản: Một khoản do chủ sử dụng lao động nộp và một khoản do người lao
động đóng. Riêng quỹ bảo hiểm tai nạn lao động thì chỉ do chủ sử dụng lao
động đóng. NSNN sẽ hỗ trợ khi mất cân đối thu chi do các nguyên nhân bất
khả kháng, còn các trường hợp khác tự người lao động và người sử dụng lao
động bảo đảm. Các quỹ nhìn chung được chia làm hai phần: Phần thứ nhất
được đưa vào tài khoản cá nhân gồm toàn bộ số tiền do người lao động đóng
và một phần do chủ sử dụng lao động đóng; Phần thứ hai được đưa vào quỹ
chi chung trong trường hợp cần thiết là phần đóng góp còn lại của chủ sử
dụng lao động. Qua đây chúng ta nhận thấy hiện nay có khá nhiều nước
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
quản lí quỹ theo từng chế độ, đây là phương pháp quản lí mang tính mở dễ
thích nghi với nhiều điều kiện của từng khu vực, từng tầng lớp lao động. Đặc
biệt việc hình thành tài khoản cá nhân, bản thân người lao động có thể nắm
bắt được số dư cũng như họ được hưởng hoàn toàn nên có những sự điều
chỉnh tránh tình trạng mất công bằng. Cách quản lí quỹ như vậy đã phân
định được rõ trách nhiệm của mỗi bên do vậy tránh tình trạng lẫn lộn giữa
các quỹ, sử dụng sai mục đích hay thất thoát.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ
TÀI CHÍNH BHXH TẠI VIỆT NAM
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
I. Giới thiệu chung về BHXH Việt Nam.
1. Khái quát về sự hình thành và quá trình phát triển của
BHXH Việt Nam
1.1. BHXH Việt Nam giai đoạn trước 1995.
Ngay từ đầu của cuộc kháng chiến, mặc dù còn rất nhiều khó khăn và
phải giải quyết nhiều công việc hệ trọng của đất nước nhưng Nhà nước ta
vẫn luôn dành sự quan tâm tới việc tổ chức thực hiện BHXH. Trước tiên
Chính phủ cách mạng đã áp dụng chế độ hưu trí cũ của Pháp để giải quyết
quyền lợi cho một số công chức đã làm việc dưới thời Pháp, sau đó đi theo
kháng chiến nay đã già yếu. Sau cách mạng tháng Tám thành công do còn
khó khăn về nhiều mặt nên chế độ chỉ được thực hiện đến năm 1949.
Năm 1950, Hồ Chủ Tịch kí Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban
hành quy chế công chức và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy
chế công nhân. Theo các Sắc lệnh trên, công chức và công nhân đã có những
quyền lợi về chế độ hưu trí. Nhìn lai chính sách BHXH giai đoạn này chúng
ta có thể nhận thấy các chính sách được xây dựng và thực hiện ngay sau khi
dành được độc lập tuy hoàn cảnh đất nước còn rất nhiều khó khăn. Mặt
khác các chính sách triển khai thực hiện không đầy đủ, chỉ mới thực hiện
được một số chế độ cơ bản với mức trợ cấp thấp nhằm đảm bảo cuộc sống
tối thiểu cho bộ phận công nhân, viên chức Nhà nước. Nguồc chi 100% lấy
từ NSNN, chưa hề có sự đóng góp của các bên.
Đến ngày 27/12/1961, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH tạm thời về
các chế độ BHXH cho cán bộ, công nhân viên kèm theo Nghị định 218/ CP.
Tiếp theo đó là Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 ban hành Điêu lệ BHXH
tạm thời đối với quân nhân. Như vậy đối tượng được tham gia BHXH đã mở
rộng, và áp dụng cho 6 loại chế độ gồm: hưu trí, mất sức lao động, tử tuất,
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Như vậy là các chế
độ của BHXH Việt Nam được triển khai khá đầy đủ từ rất sớm. Hơn nữa tài
chính thời kì này bắt đầu quy định có sự đóng góp một phần của các xí
nghiệp, phần còn lai vẫn do NSNN cấp. Đến năm 1985 cùng với cải cách
tiền lương, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 236/HĐBT có những
sửa đổi bổ xung quan trọng như tăng tỉ lệ đóng góp của các đơn vị sản suất
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
kinh doanh. Tuy vậy, thời kì này do nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu
là sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ cộng với cơ chế quản lí bao cấp
không hiệu quả nên BHXH hầu như không có thu và NSNN vẫn phải bù cấp
là chính. Đây cũng là giai đoạn tổ chức quản lí BHXH không ổn định, ro
nhiều Bộ ngành khác nhau đảm nhiệm ( Bộ nội vụ, Bộ Lao động Thương
binh và Xã hôi, Bộ tài chính, Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam). Song chịu trách nhiệm quản lí chính là Bộ Lao động Thương binh và
Xã hôi và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI ( tháng 12/1986) đề ra đường lối
đổi mới toàn diện, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ
chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh
tế. Cùng với sự đổi mới chung của đất nước, chính sách BHXH cũng có
những chuyển biến. Nội dung cải cách lần này tập trung vào cải cách cơ chế
bao cấp trong quản lí, mở ra loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
Đến ngày 22/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP về những quy
định tạm thời chế độ BHXH. Trong đó có quy định tăng mức đóng BHXH
và đặc biệt người lao động phải đóng BHXH. Cơ chế hoạt động của BHXH
được quy định trong chương XII của Bộ Luật lao động do Quốc hội khoá IX
thông qua ngày 23/6/1994, sau đó được cụ thể hoá trong Điều lệ BHXH và
hai Nghị định 12/CP và 45/CP ban hành năm 1995. Từ đây ngành BHXH
Việt Nam chuyển sang trang mới trong lịch sử phát triển của mình.
1.2. BHXH Việt Nam giai đoạn sau 1995.
Đây là giai đoạn chính sách và quản lí hoạt động BHXH có những đổi
mới thực sự từ cơ chế tập chung, bao cấp không đóng BHXH vẫn được
hưởng BHXH sang hoạt động theo nguyên tắc có đóng có hưởng, có chia sẻ
rủi ro. Về quản lí hoạt động BHXH từ chỗ phân tán do nhiều cơ quan khác
nhau đảm nhận, nay tập chung thống nhất về một đầu mối là BHXH Việt
Nam. Trên cơ sở quy định đóng BHXH, chính sách thời kì này xác lập rõ cơ
chế hình thành và sử dụng quỹ BHXH. Theo đó quỹ BHXH Việt Nam do
BHXH Việt Nam quản lí chỉ chịu trách nhiệm đối với người lao động từ
năm 1995 trở đi, còn NSNN đảm bảo chi trả cho những đối tượng nghỉ làm
việc trước năm 1995.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
BHXH Việt Nam mở rộng đối tượng tham gia, bao gồm thêm các
doanh nghiệp kinh tế có sử dụng 10 lao động trở lên ( hiện nay là bắt buộc
đối với mọi doanh nghiệp có sử dụng lao động); cán bộ xã phường, thị trấn;
các lao động làm việc trong các cơ sở Y tế, Giáo dục, Văn hoá và Thể thao
ngoài công lập. BHXH cũng quy định lại hiện nay chỉ còn 5 chế độ trợ cấp :
ốm đau; tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; thai sản; hưu trí và tử tuất
(bỏ chế độ nghỉ mất sức lao động). Điều lệ BHXH và hai Nghị định 12/CP
và 45/CP là những quy định pháp lí được thực hiện đến nay và chỉ có những
sửa đổi nhỏ.
Với mục đích:
+Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ trong tình hình
mới trong chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn
2001- 2010.
+Phục vụ và đáp ứng yêu cầu tốt hơn cho người tham gia BHXH,
BHYT và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức sủ dụng
người lao động đóng bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
+Phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực của cả hệ thống
BHXH và BHYT.
Ngày 24/1/2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
20/2002/ QĐ- TTg về việc chuyển BHYT sang BHXH Việt Nam.
Ngày 16/12/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP quy định
chức năng, nhiệm cụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam.
Trong đó khẳng định BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính
phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT (gọi chung là
BHXH) và quản lí Quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. Đến tháng
1/2003 Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra Quyết định số 02/2003/QĐ- TTg
ban hành về quy chế quản lí tài chính đối với BHXH Việt Nam. Kèm theo
đó là Quy chế quản lí tài chính đối với BHXH Việt Nam bao gồm những
quy định chung áp dụng trong quản lí tài chính.
2. Chính sách BHXH Việt Nam từ năm 1995 đến nay.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Nghị định số 12/CP ban hành ngày 26/1/1995 của chính phủ ban hành
Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước và
mọi người lao động theo loại hình BHXH bắt buộc để thực hiện thống nhất
trong cả nước. Các chế độ BHXH trong Điều lệ này gồm có: chế độ trợ cấp
ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề
nghiệp, chế độ trợ cấp hưu trí, chế độ trợ cấp tử tuất. Những người làm việc
ở những đơn vị, tổ chức sau đây là những đối tượng phải tham gia BHXH
bắt buộc: các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, người Việt Nam
làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các tổ chức kinh doanh dịch vụ, doanh
nghiệp thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, đảng đoàn thể, lực lượng vũ
trang, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị,
chính trị- xã hội.
Ngày 15/7/1995 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 45/CP về
Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ
quân đội nhân dân, công an nhân dân. Các chế độ BHXH này gồm có: chế
độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao độngbệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất.
Nghị định số 09/ 1998/NĐ- CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ sửa
đổi, bổ xung một số điều củ Nghị định 50/CP ngày 26/7/2995 của Chính phủ
về chế độ sinh hoạt phí đối cới cán bộ xã, phường, thị trấn. Cán bộ cấp xã
tham gia đóng BHXH và hưởng chế độ hưu trí và mai táng là những cán bộ
làm công tác Đảng, chính quyền và trưởng các đoàn thể: Chủ tịch Mặt trận,
Hội trưởng hội phụ nữ, Hội trưởng hội nông dân, Hội trưởng Hội Cựu chiến
binh, Bí thư đoàn THCS Hồ Chí Minh và các cán bộ chưc danh chuyên môn
là Văn phòng Uỷ ban nhân dân xã, địa chính, tư pháp, tài chính- kế toán.
Chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao được quy định trong Nghị định số 73/
1999/ NĐ- CP ngày 19/8/1999. Nghị định này cho phép thành lập các cơ sở
ngoài công lập dưới các hình thức như bán công, dân lập, tư nhân hoạt động
trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao nhưng phải phù hợp với
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
quy hoạch của Nhà nước, không theo mục đích thương mại và đúng theo
quy định của của pháp luật. Người lao động làm việc trong các cơ sở ngoài
công lập được tham gia và hưởng mọi quyền lợi về BHXH như người lao
động trong các đơi vị công lập.
Đối với người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài phải tham gia BHXH bắt buộc và được hưởng các chế độ
BHXH hưu trí và tử tuất. Điều này được quy định trong Nghị định số
52/1999/ NĐ- CP ban hành ngày 20/9/1999.
Ngày 15/12/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2000/NĐ- CP
về việc điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mức trợ cấp, và sinh hoạt phí
đối với các các đối tượng hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí.
Trong đó có quy định tăng mức tiền lương tối thiểu từ 180 000 đồng lên 210
000 đồng/ tháng. Cùng năm đó Chính phủ cũng ban hành Nghị định số
71/2000/ NĐ-CP quy định việc kéo dài thời gian công tác của cán bộ công
chức đến độ tuổi nghỉ hưu. Tức là cán bộ công chức đến tuổi nghỉ hưu được
xem xét kéo dài thêm thời gian công tác đối với các đối tượng làm công tác
nghiên cứu, những người có học vị tiến sĩ, chức danh Giáo sư, Phó giáo sư,
những người có tài năng. Thời gian kéo dài có thể từ 1 đến 5 năm với điều
kiện cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng có nhu cầu và cán bộ, công chức đó tự
nguyện và có đủ sức khoẻ để làm việc.
Năm 2001 Chính phủ tiếp tục ra hai Nghị định 04/2001/NĐ-CP và
61/2001/NĐ-CP. Nghị định 04 quy định chi tiết về một số điều của Luật Sĩ
quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 về chế độ chính sách đối với sĩ
quan thôi phục vụ tại ngũ, sĩ quan chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp
hoặc công chức quốc phòng. Nghị định 61 quy định về tuổi nghỉ hưu của
người lao động khai thác hầm lò. Tuổi nghỉ hưu là 50, đủ 20 năm đóng
BHXH và có ít nhất 15 năm làm công việc nêu trên. Tuổi nghỉ hưu có thể
tăng lên nhưng không quá 55 khi người lao động không đủ số năm đóng
BHXH.
Nghị định 100/ 2002/ NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Nam. Trong đó nêu rõ các vị trí, chức năng, có 19 điểm quy định quyền hạn
và nhiệm vụ của BHXH Việt Nam.
Ngày 9/9/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ- CP đã
sửa đổi, bổ xung một số điều của Điều lệ BHXH Việt Nam.
3. Cơ cấu tổ chức, quản lí của BHXH Việt Nam.
Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ thực
hiện việc quản lí Nhà nước về BHXH: xây dựng và trình ban hành pháp luật
về BHXH; ban hành các văn bản pháp quy về BHXH thuộc thẩm quyền;
hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện BHXH. Chính phủ thành lập
hệ thống tổ chức BHXH thống nhất để quản lí quỹ và thực hiện các chế độ,
chính sách về BHXH theo quy định của pháp luật.
Theo điều 3, Nghị định số 100/2002/ NĐ- CP có quy định: BHXH
Việt Nam được tổ chức, quản lí theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ
Trung ương tới địa phương, gồm có ba cấp:
1. Cấp Trung ương là BHXH Việt Nam.
2. Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là BHXH tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương ( gọi chung là BHXH tỉnh) trực thuộc
BHXH Việt Nam.
3. Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là BHXH
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh ( gọi chung là
BHXH huyện) trực thuộc BHXH tỉnh.
BHXH Việt Nam được tổ chức thành hệ thống ngành dọc từ Trung
ương xuống địa phương. Cơ quan quản lí là Hội đồng quản lí BHXH Việt
Nam, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Thủ tướng Chính phủ về các hoạt
động chỉ đạo, điều hành và quản lí của mình. Tổng giám đốc là đại diện
pháp nhân của BHXH Việt Nam, do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề
nghị của Hội đồng quản lí. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước Thủ tướng
Chính phủ và Hội đồng quản lí về thực hiện chính sách, chế độ BHXH và
quản lí quỹ BHXH theo quy định của pháp luật.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Giúp việc cho tổng giám đốc là các Phó tổng giám đốc và các phòng
ban nghiệp vụ chuyên môn. Bộ máy quản lí giúp việc cho Tổng giám đốc tại
BHXH Việt Nam hiện nay gồm có:
1. Ban Chế độ chính sách BHXH.
2. Ban Kế hoạch- Tài chính.
3. Ban thu BHXH.
4. Ban chi BHXH.
5. Ban BHXH tự nguyện.
6. Ban giám định Y tế.
7. Ban tuyên truyền BHXH.
8. Ban Hợp tác quốc tế.
9. Ban Tổ chức cán bộ.
10. Ban kiểm tra.
11. Văn phòng.
12. Trung tâm Nghiên cứu khoa học BHXH.
13. Trung tâm Công nghệ thông tin.
14. Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH.
15. Trung tâm lưu trữ.
16. Báo BHXH.
17. Tạp chí BHXH.
Theo điều 9 Nghị định 100/2002/NĐ- CP, tổ chức BHXH tỉnh và
BHXH huyện được tổ chức và hoạt động theo quy định của Tổng giám đốc.
BHXH tỉnh, BHXH huyện cũng có tư cách pháp nhân, có dấu, có tài khoản
và trụ sở riêng.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÍ BHXH VIỆT NAM
(Theo Nghị định số 100/2002/CP- NĐ ngày 6/12/2002 của Chính Phủ)
CHÍNH PHỦ
HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ
Tổng giám
đ c
Các Phó
tổng giám
- Ban chế độ, chính sách BHXH
- Ban Kế hoạch - Tài chính
- Ban Thu BHXH
- Ban Chi BHXH
- Ban BHXH tự nguyện
- Ban Giám định y tế
- Ban Tuyên truyền BHXH
- Ban Hợp tác quốc tế
- Ban Tổ chức - Cán bộ
- Ban Kiểm tra
- Văn phòng
- Trung tâm Nghiên cứu khoa học BHXH
- Trung tâm CNTT
- Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng NVBHXH
- Trung tâm lưu trữ
- Báo BHXH
- Tạp chí BHXH
- Đại diện BHXHVN tại TP. HCM
Bảo hiểm xã
hội Việt
Nam
Giám đốc
Các Phó
giám đốc
Bảo hiểm xã
hội cấp tỉnh
- Phòng Chế độ, chính sách
- Phòng Kế hoạch - Tài chính
- Phòng Thu
- Phòng Giám định chi
- Phòng Bảo hiểm tự nguyện
- Phòng CNTT
- Phòng Kiểm tra
- Phòng Tổ chức - Hành chính
Giám đốc
Các Phó
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
II. Thực trạng của công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam.
1. Công tác quản lí thu.
Quản lí thu BHXH Việt Nam bao gồm: quản lí đối tượng tham gia,
quản lí quỹ lương của các đơn vị, quản lí tiền thu BHXH.
1.1.Quản lí đối tượng tham gia.
Đối tượng tham gia là những cá nhân, tổ chức có trách nhiệm đóng
góp để tạo lập quỹ BHXH. Hiện nay BHXH hiện chia các đối tượng này
thành hai loại là: đối tượng tham gia BHXH tự nguyện và đối tượng tham
gia BHXH bắt buộc.
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: là những người lao động và
người sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia đóng góp BHXH theo pháp
luật BHXH. Hiện nay đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc gồm:
- Người lao động làm việc theo hợp động lao động có thời hạn đủ ba tháng
trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức sau:
+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà
nước.
+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động thẹo Luật Doanh nghiệp.
+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam.
+ Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội.
+ Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
+ Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị- xã hội, tổ chức chính trị- xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp,
tổ chức xã hội khác, lực lượng vũ trang.
+ Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo
dục, đào tạo, khoa học, thể dục, thể thao và các ngành sự nghiệp khác.
+ Trạm y tế xã, phường, thị trấn.
+Cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ
trường hợp Điều ước quốc tế mà nước ta kí kết hoặc tham gia có quy định
khác.
+ Các tổ chức khác có sử dụng lao động.
- Cán bộ, công chưc, viên chức theo Pháp lệnh Cán bộ, công chức.
- Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao
động từ đủ ba tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo
Luật Hợp tác xã.
- Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức theo các
hợp đồng có thời hạn dưới ba tháng khi hết hợp đồng lao động mà người
lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng mới đối với doanh
nghiệp, tổ chức, cơ quan đó thì phải tham gia BHXH bắt buộc.
- Người lao động ở trên đi thực tâp, học, công tác, điều dưỡng trong và
ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối
tượng thực hiện BHXH bắt buộc.
- Các đối tượng lao động tại các doanh nghiệp nông nghiệp, ngư nghiệp,
lâm nghiệp, diêm nghiệp được hưởng tiền công, tiền lương theo hợp đồng
lao động từ đủ ba tháng trở lên.( Đối với các lao động làm việc tại các
doanh nghiệp nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp đã thực
hiện giao khoán đất có quy định riêng).
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện: là người lao động và người sử
dụng lao động không thuộc đối tượng quy định bắt buộc nhưng tự nguyện
tham gia BHXH cho chính họ và người lao động của họ. Họ có những đặc
điểm sau:
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
+ Những người này thường thuộc khu vực lao động phi chính thức.
+ Công việc của họ phần lớn là thất thường và rất lưu động. Thu nhập
nhìn chung là thấp và không ổn định.
+ Vì không có người sử dụng lao động nên việc tham gia BHXH của
những đối tượng này hoàn toàn không có sự đóng góp của ai khác ngoài
chính bản thân họ.
Vì vậy những đối tượng này thường khó quản lí và khó thực hiện các
công tác thu nộp cũng như chi trả cho các đối tượng. Việc triển khai thực
hiện BHXH đối với các đối tượng này còn gặp nhiều khó khăn, song với
mục tiêu tiến đến thực hiện BHXH toàn dân, BHXH Việt Nam đang nghiên
cứu trển khai và áp dụng những biện pháp hữu hiệu đối với loại đối tượng
này.
BHXH Việt Nam có những biện pháp quản lí các đối tượng tham gia
thông qua việc cấp sổ BHXH. Đây không chỉ là cách quản lí về số lượng mà
còn quản lí cả thời gian công tác, ngành nghề công tác, mức đóng, từ đó làm
căn cứ để chi trả cho các đối tượng. Việc quản lí cấp sổ được thực hiện
thống nhất trên phạm vi cả nước, các thông tin trong sổ mang tính chính xác.
Quản lí việc cấp sổ là trách nhiệm của cả người sử dụng lao động và cơ quan
BHXH. Về phía người sử dụng lao động là việc quản lí danh sách người lao
động được cấp sổ cùng với mức lương làm căn cứ xác định mức đóng
BHXH và thực hiện báo cáo định kì về sự biến động số lượng lao động. Về
phía cơ quan BHXH là theo dõi việc cấp phát sổ BHXH theo phân cấp và
thực hiện báo cáo định kì lên cơ quan BHXH cấp trên về tình hình cấp sổ.
Theo quy định của Việt Nam hiện nay quy trình cấp sổ do cơ quan BHXH
cấp tỉnh thực hiện gồm sáu bước, đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc,
tránh những hiện tượng khai man, trường hợp giả giấy tờ để trục lợi từ
BHXH. Cụ thể:
Bước 1: Lập và kiểm tra danh sách người lao động và người sử dụng
lao động phải tham gia theo luật định.
Bước 2: Chuẩn bị sổ cả về số lượng, chất lượng, đóng dấu giáp lai và
ghi sổ BHXH.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Bước 3: Cơ quan BHXH chịu trách nhiệm phổ biến cho người lao
động linh hoạt kê khai một cách thống nhất.
Bước 4: Xét duyệt và ghi sổ ban đầu.
Bước 5: Kí nhận của người lao động.
Bước 6: Kí xác nhận của người sử dụng lao động và cơ quan BHXH.
Chúng ta có thể tìm hiểu công tác quản lí đối tượng tham gia thông
qua bảng số liệu 1:
Bảng 1: Tình hình tham gia BHXH Việt Nam giai đoạn 1995- 2004.
Năm
Tổng số người
tham gia BHXH
( người)
Tốc độ tăng tuyệt
đối số người
tham gia ( người)
Tốc độ tăng
tương đối số
người tham gia
(%)
1995
2.275.998
---
---
1996
2.821.444
545.446
23,97
1997
3.162.352
340.908
12,08
1998
3.392.224
229.872
7,27
1999
3.579.397
187.173
5,52
2000
3.771.390
191.993
5,36
2001
4.075.925
340.535
8,07
2002
4.564.400
488.475
11,98
2003
5.070.433
506.033
11,09
2004
6.344.508
1.274.075
25,13
( Nguồn BHXH Việt Nam)
Qua bảng 1 ta thấy số người tham gia BHXH ngày càng tăng đây cũng
là một kết quả tốt của BHXH Việt Nam. Năm 1995 mới chỉ có 2.275.998
người tham gia đến nay BHXH Việt Nam đã có 6.344.508 người tham gia
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
(ngày 31/12/2004), như vậy là chỉ trong 10 năm số người tham gia đã tăng
lên gấp gần 3 lần. Đặc biệt là năm 2004 số người tham gia tăng 25,13% so
với năm 2003, qua bảng trên ta có thể nhận thấy số người tham gia BHXH
Việt Nam ngày càng tăng. Trong đó số lao động tham gia BHXH bắt buộc
đạt 5,7 triệu người; tăng 406.000 người (tăng 8%) so với năm 2003. Trong
đó có 122.000 người làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh ( tăng
23%), 115.000 người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoàI (tăng 16%) và 3.723 người làm việc trong các hợp tác xã ( tăng 40%).
Số người tham gia BHYT tự nguyện đạt 6,2 triệu, tăng 28% so với năm
2003, trong đó có 5,9 triệu học sinh, sinh viên và 300 ngàn người là thành
viên hộ gia đình, các hội đoàn thể. Như vậy là việc quản lí đối tượng tham
gia có hiệu quả, sau đổi mới người lao động ý thức được tầm quan trọng
cũng như những lợi ích mà họ nhận được. Tuy số người tham gia tăng nhanh
song nhìn chung tại các địa phương thì công tác mở rộng đối tượng tham gia
là còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là các đối tượng lao động trong tổ hợp tác, hộ
sản xuất kinh doanh cá thể thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Nhưng theo thống kê, hiện nay chỉ có khoảng 300.000 đơn vị tổ hợp tác nhỏ
( chỉ sử dụng bình quân khoảng 3 lao động) trong số 405.562 đơn vị kinh tế
ngoài quốc doanh, do vậy quản lí đối tượng tham gia này gặp rất nhiều khó
khăn.
1.2. Quản lí quỹ lương của doanh nghiệp.
Với hai loại đối tượng tham gia BHXH ở nước ta hiện nay, phương
thức thu nộp được chia thành hai loại:
Thứ nhất là thu trực tiếp: Theo phươngthưc này cán bộ chuyên trách
thu của cơ quan BHXH sẽ trực tiếp thu những đóng góp của những người
tham gia BHXH. Hình thức này hay được áp dụng cho đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện, không có chủ sử dụng lao động.
Thứ hai là thu gián tiếp qua đại lí thu: Đây là phương thức thu chủ yếu
của BHXH Việt Nam. Đại lí thu của BHXH chủ yếu là các chủ sử dụng lao
động. Trước tiên chủ sử dụng lao động thu của người lao động sau đó
chuyển toàn bộ đóng góp của cả người lao động và người sử dụng lao động
cho cơ quan BHXH. Thực hiện như vậy là rất thuận tiện cho cơ quan
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
BHXH, vì chính chủ sử dụng lao động quản lí trực tiếp lao động của mình,
thông qua quỹ lương của doanh nghiệp người sử dụng lao động khấu trừ
luôn phần phí đóng BHXH của người lao động theo % mức tiền lương của
họ. Đại lí cũng có thể là cơ quan, tổ chức, hiệp hội, đoàn thể có liên quan
như bưu điện, ngân hàng, ... song các đại lí thu này không phổ biến.
Như vậy quản lí quỹ lương của doanh nghiệp vừa quản lí được đối
tượng tham gia vừa quản lí được số thu của BHXH Việt Nam. Tiền thu sẽ
được trích theo % tổng quỹ lương của doanh nghiệp, sau đó trực tiếp chuyển
khoản lên tài khoản của cơ quan BHXH. Đây cũng là phương thức nộp phổ
biến nhất hiện nay. Quy định hiện nay sau khi chính thức chuyển BHYT về
BHXH, tổng mức phí thu hiện nay là 23% tổng quỹ lương của doanh nghiệp.
Trong đó, đóng BHXH là người lao động 5%, người sử dụng lao động 15%;
đóng BHYT bắt buộc là người lao động 1%, người sử dụng lao động 2%.
1.3. Quản lí tiền thu BHXH.
Tại Việt Nam hiện nay hình thức thu nộp chủ yếu là chuyển khoản
thông qua ngân hàng. BHXH Việt Nam hình thành các “tài khoản chuyên
thu”, các tài khoản này được mở tại các NHNN hoặc tại Kho bạc. Tuỳ theo
thực tế của từng địa phương mà cơ quan BHXH sẽ mở tài khoản có thể là ở
cấp tỉnh hoặc cả cấp huyện. Về cơ bản BHXH sẽ không thu nộp bằng tiền
mặt, ngân phiếu hay hiện vật, trong trường hợp đặc biệt người sử dụng lao
động nộp bằng tiền mặt hoặc ngân phiếu thì cơ quan BHXH phải có hướng
dẫn cụ thể để người sử dụng lao động nộp trực tiếp vào tài khoản chuyên thu
BHXH. Định kì hàng tháng người sử dụng lao động sau khi trả lương cho
người lao động sẽ nộp tiền BHXH bằng cách chuyển tiền từ tài khoản của họ
ở một ngân hàng hay kho bạc sang tài khoản chuyên thu BHXH. Sau đó cơ
quan BHXH cấp huyện và cấp tỉnh sẽ phải chuyển số thu này lên cơ quan
BHXH cấp trên mà không được sử dụng tiền thu để chi bất cứ việc gì.
BHXH huyện sẽ chuyển khoản vào ngày 10 và 25 hàng tháng, ngày làm việc
cuối cùng của năm phải chuyển toàn bộ số thu lên BHXH tỉnh. BHXH tỉnh
định kì chuyển số thu lên BHXH Việt Nam vào ngày 10, 20 và ngày cuối
cùng của tháng. BHXH Việt Nam định kì chuyển toàn bộ số thu vào quỹ
BHXH mở tại kho bạc Nhà nước.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Theo điều 11, chương hai của Quy chế quản lí tài chính BHXH Việt
Nam có quy định: “ Quỹ BHXH được quản lí thống nhất trong hệ thống
BHXH Việt Nam, được hạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng quỹ
thành phần (quỹ hưu trí và trợ cấp, quỹ khám chữa bệnh tự nguyên, quỹ
khám chữa bệnh bắt buộc).” Số dư trên tài khoản tiền gửi của quỹ BHXH tại
ngân hàng hay kho bạc Nhà nước được hưởng lãi suất theo quy định của
ngân hàng và kho bạc Nhà nước.
Để đảm bảo thu đúng thời hạn BHXH Việt Nam có quy định kể từ
ngày hạn nộp trong vòng 30 ngày người tham gia BHXH phải nộp BHXH.
Khoảng thời gian 30 ngày này là khoảng thời gian ân hạn, nếu quá thời gian
ân hạn mà chưa chuyển tiền thì được coi là vi phạm pháp luật BHXH và sẽ
bị sử phạt. Hiện nay có những trường hợp vi phạm sau đây:
- Nợ ( Chậm đóng BHXH): Đây là trường hợp vi phạm mà người tham
gia BHXH tính đến thời điểm quy định vẫn chưa đóng BHXH. Nợ được chia
làm ba loại:
+ Nợ gối đầu: là trường hợp nợ mà số tiền nợ nhỏ hơn số tiền đóng
BHXH bình quân một tháng.
+ Nợ chậm đóng: là trường hợp mà số tiền nợ lớn hơn số tiền đóng
BHXH bình quân một tháng và nhỏ hơn số tiền đóng BHXH bình quân ba
tháng.
+ Nợ đọng: là trường hợp mà số tiền nợ lớn hơn số tiền đóng BHXH
bình quân ba tháng.
Hiện nay có một số biện pháp thực hiện nhằm kiểm soát, đôn đốc
người tham gia BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình như sau:
Cơ quan BHXH phải tăng cường xuống tận đơn vị sử dụng lao
động để nhắc nhở.
Nhắc nhở bằng văn bản.
Nếu sau một thời gian người tham gia BHXH có biểu hiện chậm
nộp thường xuyên hoặc khi có nợ tồn đọng phát sinh cơ quan
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
BHXH sẽ có biện pháp sử lí nghiêm khắc hơn và quyết định sử
phạt theo luật định.
- Trốn đóng BHXH: đây là trường hợp tương đối phổ biến thường xuất
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: khai giảm số lượng lao động, khai
giảm thu nhập của người lao động.
Truy thu và sử phạt là hai hình thức được cơ quan BHXH áp dụng
nhiều nhất hiện nay. Truy thu đảm bảo cho pháp luật BHXH được tuân thủ,
cụ thể là cơ quan BHXH được phép yêu cầu kho bạc hoặc ngân hàng trích
chuyển từ tài khoản của người sử dụng lao động sang tài khoản chuyên thu
của BHXH bao gồm cả tiền lãi mà không cần sự chấp thuận thanh toán của
người sử dụng lao động. Xử phạt được BHXH thực hiện và xác định theo tỉ
lệ % so với tiền đóng BHXH hàng tháng dựa trên cơ sở tích luỹ. Nhìn chung
các chế tài sử phạt của Việt Nam hiện nay chưa thực sự nghiêm khắc, mới
chỉ mang tính hành chính chưa đủ để ngăn chặn hành vi vi phạm trên. Kết
quả thu BHXH qua mười năm từ năm 1995- 2004 được thực hiện ở bảng 2.
Bảng 2: Tình hình thu BHXH Việt Nam giai đoạn 1995- 2004.
Năm
Số thu BHXH Tốc độ tăng tuyệt
( triệu đồng)
đối (triệu đồng)
Tốc độ tăng
thu tương đối
(%)
1995
788.486
---
---
1996
2.569.733
1.781.247
225,90
1997
3.514.226
944.493
36,75
1998
3.875.956
361.730
10,29
1999
4.186.055
310.009
8,00
2000
5.198.222
1.012.167
24,18
2001
6.334.650
1.136.428
21,86
2002
6.790.795
456.145
7,20
2003
11.654.660
4.863.865
71,62
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
2004
13.168.500
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.513.840
12,99
( Nguồn BHXH Việt Nam)
Như vậy số thu của BHXH những năm qua đã đạt được những kết quả
đáng kể, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Có thể thấy, ngay sau khi
đổi mới BHXH Việt Nam đã đi vào hoạt động ổn định và có hiệu quả. Như
trong bảng 2 thì số thu có tỉ lệ tăng hầu hết trong các năm là hai con số, đặc
biệt là năm 2003 có số thu tăng rất cao do BHYT chính thức sát nhập vào
BHXH. Và BHXH thực hiện thu cả phí BHYT của các lao động tham gia
BHXH như vậy thực sự thuận tiện cho cả bên thu lẫn bên nộp. BHXH Việt
Nam sau đổi mới đã chuyển từ đơn vị không có thu (thu không đáng kể)
chuyển sang đơn vị có thu. Trong mười năm thực hiện, số thu năm 2004 là
13.168.500 triệu đồng so với 788.486 triệu đồng của năm 1995. Như vậy chỉ
trong mười năm mà số thu đã tăng lên gần 20 lần, đây là con số quả không
nhỏ đặc biệt là so với số tăng gần 3 lần của số người tham gia. Việc tốc độ
tăng thu BHXH lớn hơn tốc độ tăng của người tham gia cho chúng ta thấy
phần lớn việc tăng quỹ là do tăng mức đóng góp trên đầu người. Vấn đề tăng
thu làm tăng quỹ, từ đó giảm gánh nặng của NSNN, tăng nguồn quỹ nhàn rỗi
để tăng đầu tư cung cấp cho thị trường vốn thông qua hoạt động đầu tư tăng
trưởng quỹ. Việc này không những góp phần phát triển quỹ mà còn đóng
góp vào sự phát triển của xã hội.
Bên cạnh đó tình trạng trốn đóng của BHXH Việt Nam không phải là
ít. Đặc biệt là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các đơn vị kinh tế nhỏ lẻ
sử dụng ít lao động thường xuyên trốn đóng. Tình trạng nợ đọng kéo dại ở
một số địa phương, một số đơn vị sử dụng lao dộng vẫn còn. Theo báo cáo,
tính đến ngày 3/9/1999, tổng số nợ đọng trên cả nước lên tới 418.144 triệu
đồng (bình quân số nợ này tương đương với việc các đơn vị sử dụng lao
động trong toàn quốc đóng chậm BHXH 1,6 tháng). Như vậy tình hình nợ
đọng hiện nay là rất lớn. Đến những năm gần đây tình trạng nợ đọng BHXH
trong công tác thu được phần nào cải thiện tình hình. Hàng năm số đơn vị
lao động tiếp tục tham gia BHXH tại các địa phương ngày càng gia tăng.
Năm 2003 trên toàn quốc có 17.437 đơn vị và 474.887 người tham gia. Đặc
biệt trong năm 2003, số nợ của BHXH của các đơn vị đã giảm rõ rệt. Nếu so
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
LuËn v¨n tèt nghiÖp
với số thu như thời kì trước thì số nợ chậm đóng chỉ bằng 0,49 tháng bình
quân tiền thu BHXH ( tương đương với số thu bình quân trong 15 ngày).
Trong đó số nợ chậm đóng của năm 2002 tương đương với 0,78 tháng bình
quân tiền thu BHXH. Theo các báo cáo thì số nợ chậm đóng của năm 2003
chủ yếu là của các doanh nghiệp đang trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại
hoặc doanh nghiệp bị phá sản hay giải thể.
2. Quản lí chi BHXH.
2.1. Chi các chế độ BHXH.
Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH hiện nay được phân loại theo
nhiều tiêu thức khác nhau, tuy vào các góc độ mà người ta có thể xem xét
các vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau. Có bốn cách phân loại chi trợ cấp
BHXH như sau:
- Chi trợ cấp định kì thường xuyên và trợ cấp một lần.
- Phương thức thanh toán trợ cấp bằng tiền hay hiện vật.
- Nguồn chi từ NSNN hay từ quỹ BHXH.
- Chi theo trợ cấp ngắn hạn hay dài hạn.
Hiện nay BHXH Việt Nam đang thực hiện chi cho các chế độ sau:
+ Trợ cấp ốm đau.
+ Trợ cấp thai sản.
+ Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
+ Trợ cấp hưu trí.
+ Trợ cấp tử tuất.
+ Chi dưỡng sức phục hồi sức khoẻ.
Để quản lí chi trợ cấp cho các chế độ của BHXH Việt Nam cần chú ý
đến những nội dung sau đây:
2.1.1.Phân cấp chi trả.
Cũng như quản lí thu, quản lí chi cũng theo phân cấp theo đó cơ quan
BHXh cấp tỉnh, huyện có trách nhiệm thực hiện kịp thời đầy đủ cho các đối
- Xem thêm -