Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bàn về vai trò của đo lường trong một số hệ thống quản lý chất lượng ở các doanh...

Tài liệu Bàn về vai trò của đo lường trong một số hệ thống quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp công nghiệp việt nam

.DOC
37
211
60

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Đo lường là một lĩnh vực hoạt động khoa học- kỹ thuật hết sức gần gũi và gắn bó mật thiết với đời sống con người.Nó gần gũi và quen thuộc đến mức như trở thành tự nhiên. Cũng vì vậy thường người ta không để ý đến nó, không dễ dàng cảm nhận được vai trò và tầm quan trọng của nó.Chúng ta hình như chỉ tình cờ phát hiện ra nó và cảm thấy nó quan trọng khi gặp một trục trặc nào đó trong cuộc sống. Hầu như những gì con người cần cho cuộc sống đều phải đo. Cái thước giúp ta biết tấm vải, khúc gỗ...dài bao nhiêu mét,cái cân giúp ta biết con gà,con lợn, bì gạo...nặng bao nhiêu kilôgam...Đo lường tạo ra cơ sở định lượng tin cậy để thuận mua vừa bán, để đảm bảo công bằng và tin cậy lẫn nhau trong thương mại, trong giao lưu kinh tế giữa mọi người và giữa các nước với nhau, đồng thời đo lường tạo ra cơ sở định lượng để chúng ta có được các quyết định đúng đắn liên quan đến an toàn và tính mạng của mọi người. Khoa học-kỹ thuật ngày càng phát triển, trình độ đời sống và sản xuất của con người ngày càng nâng cao,đo lường càng trở nên gần gũi và quan trọng.Ngày nay, chúng ta không thể hình dung một đời sống xã hội văn minh, phát triển mà lại thiếu đo lường. Đo lường đã trở thành như một yếu tố, một nhu cầu văn hoá trong đời sống của tất cả mọi người,của toàn xã hội. Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế,công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra cho công tác đo lường những yêu cầu mới rất cấp bách, đặc biệt là trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá thương mại hiện nay .Trong những năm qua,cơ chế quản lý nhà nước về đo lường đã đổi mới khá nhiều, một mặt phù hợp với hoàn cảnh điều kiện của ta,mặt khác tiếp cận thích ứng với tập quán,xu thế và các quy định của quốc tế và khu vực.Có thể nhận thấy những đổi mới về nhận thức và cách làm này khi so sánh các nội dung của pháp lệnh đo lường ban hành năm 1990 với pháp lệnh đo lường năm 1999.Bên cạnh đó hoạt động quản lý nhà nước về đo lường gắn bó chặt chẽ với các hoạt động quản lý nhà nước khác đã góp phần trực tiếp vào việc đấu tranh chống gian lận thương mại,chống thất thu thuế, chóng hàng giả và các hàng kém chất lượng, bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp,đặc biệt là các doanh nghiệp có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, đồng thời bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng góp phần tạo ra môi trường pháp lý để đảm bảo sự pháp triển lành mạnh của sản xuất và tiêu dùng. Qua quá trình học tập, được thầy cô giáo giảng dạy, trang bị cho lý luận và những kiến thức cơ bản về đo lường.Em đã đi vào nghiên cứu đề tài: "Bàn về vai trò của đo lường trong một số hệ thống quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam". Nội dung của đề án gồm: Phần I: Những lý luận chung về đo lường. Phần II: Thực trạng đo lường trong hệ thống quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam. Phần III: Một số giải pháp nhằm làm tốt công tác đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng.PHẦN I: NHŨNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐO LƯỜNG I.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐO LƯỜNG. 1. Sự hình thành và phát triển của đo lường trong lịch sử phát triển của nhân loại. Sự hình thành và phát triển của đo lường gắn liền với lịch sử phát triển của nhân loại, từ xa xưa con người đã biết sử dụng đo lường để phục vụ đời sống sinh hoạt như việc định lượng, cân đong,đo đếm các loại vật chất. Đỉnh cao của sự phát triển đo lường với điểm mốc đáng chú ý là sự ra đời của “Hệ mét”. Năm 1789 đại cách mạng tư sản dân quyền đã nổ ra ở Pháp và giành được thắng lợi, sự thắng lợi này gắn liền với một giai đoạn phát triển đặc của đo lường và quản lý đo lường ở Pháp cũng như trên toàn thế giới.Trong không khí thắng lợi về chính trị, Quốc hội lập hiến Pháp muốn làm một việc gì đó về khoa học kỹ thuật.Năm 1790, họ quyết định xây dựng một hệ đo lường hợp pháp thống nhất cho toàn nước Pháp trên một vật chuẩn tự nhiên nào đó có thể tái tạo lại chính xác mỗi khi cần.Họ cũng mong muốn hệ đo lường này sẽ là một hệ đo lường văn minh, làm mẫu mực cho toàn thế giới, một hệ đo lường cho “tất cả các dân tộc, tất cả các thời đại”. Theo quyết định đó Pháp đã tập hợp được những nhà khoa học nổi tiếng lúc đó nghiên cứu để thực hiện dự án xây dựng hệ đo lường nói trên. Họ đề nghị lấy đơn vị độ dài với tên gọi là “mét” làm đơn vị gốc,do đó có tên “ Hệ mét” và định nghĩa mét là độ dài bằng 1/10 triệu của 1/4 kinh tuyến quả đất.Từ kết quả đó, hai thước chuẩn giống nhau bằng platin đã được chế tạo để thể hiện đơn vị mét theo định nghĩa trên. Có mét người ta định nghĩa luôn đơn vị khối lượng là khối lượng của một đêximét khối nước tinh khiết ở nhiệt độ 4 độ c và gọi là “kilôgam”.Hai quả cân hình trụ bằng platin cũng được chế tạo để thể hiện đơn vị kilôgam theo định nghĩa trên, về đại lượng dung tích rất cần cho giao lưu kinh tế lúc ấy,thì người ta lấy thể tích của một kilôgam nước tinh khiết làm đơn vị và gọi là “lít”. Ngoài mét,kilôgam và lít ra,người ta còn dựa vào đơn vị mét để định nghĩa một số đơn vị thông dụng nhất như mét vuông, mét khối,hécta...và lập ra nhiều đơn vị ước, bội theo nguyên tắc thập phân.Như vậy là đã xây dựng được một hệ đơn vị đo lường với quả đất và nước tinh khiết làm vật chuẩn thiên nhiên, việc xuât hiện vật chuẩn thiên nhiên và ước bội thập phân là những tư tưởng vĩ đại của những người sáng tạo ra “Hệ mét”,để lại dấu ấn không thể phai mờ trong quá trình lịch sử phát triển của đo lường và quản lý đo lường trên toàn thế giới. Đến năm 1960 tại đại hội cân đo quốc tế lần thứ XI ở Paris đã thông qua “ Hệ đơn vị đo lường quốc tế”,viết tắt là SI làm cơ sở để thống nhất đo lường trên toàn thế giới.Các đại hội cân đo quốc tế sau đó đã tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ SI nhằm đáp ứng các yêu cầu về đo lường ngày càng cao của sản xuất và khoa học kỹ thuật. Hệ SI là một thành tựu xuất sắc của đo lường học, nó là một hệ hiện đại,thực dụng,cỡ đơn vị nói chung phù hợp với yêu cầu thông thường của sản xuất,vì vậy hệ SI đã được hầu hết các nước trên thế giới,trong đó có nước ta lấy làm cơ sở để quy định đơn vị đo lường hợp pháp của nước mình. Như vậy sự xuất hiện của “Hệ mét” và hệ SI là những sáng tạo xuất sắc của nhân loại, để lại dấu ấn không bao giời phai mờ cấu thành trong quá trình lịch sử phát triển của đo lường và quản lý đo lường. 2. Lịch sử hình thành và phát triển của đo lường Việt nam. Lịch sử hình thành và phát triển của đo lường Việt nam trải qua một thời gian dài với những giai đoạn thăng trầm khác nhau gắn liền với chiều dài lịch sử của đất nước.Bước ngoặt sự hình thành và phát triển của đo lường Việt nam được đánh dấu bằng sự kiện rất đáng ghi nhớ là ngày 20/1/1950, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đang trong giai đoạn gay go,ác liệt,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đích thân ký sắc lệnh số 8/SL quy định hệ thống đo lường áp dụng ở nước ta là Hệ mét.sắc lệnh 8/SL đã nêu lên và giải quyết đúng đắn (ở phạm vi và trình độ phát triển của xã hội lúc bấy giờ ) nhiều nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về đo lường như đơn vị đo lường hợp pháp,việc sử dụng và sản xuất dụng cụ đo,việc sử phạt về đo lường.Có thể nói sắc lệnh 8/SL được Bác Hồ trực tiếp ban hành cách đây 50 năm chính là nền tảng,là điểm xuất phát tạo nên sự trưởng thành của đo lường và quản lý đo lường ở nước ta như ngày nay. Sau năm 1954,trong điều kiện hoà bình xây dựng XHCN ở miền Bắc,Nhà nước ta có điều kiện dể nghiên cứu ban hành những văn bản pháp luật đầy đủ và sâu rộng hơn về đo lường. Ngày 26/12/1964 Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Nghị định số 186/CP ban hành.Bảng đơn vị đo lường hợp pháp của nước Việt nam dân chủ cộng hoà.Đây là sự kế thừa và nâng lên ở một tầm cao mới săc lệnh 8/SL.Bảng đơn vị hợp pháp của nước ta ban hành theo nghị định trên đã được xây dựng hoàn toàn trên cơ sở Hệ đơn vị quốc tế (SI), tiếp nối sự phát triển tự nhiên từ Hệ mét sang Hệ SI của thế giới. Đầu những năm 70, nhất là sau khi hiệp định Paris(1972) dược ký kết, công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở miền Bắc nước ta và cùng với nó là phong trào cải tiến quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật được triển khai mạnh mẽ.Trong bối cảnh đó,việc đưa các hoạt động đo lường vào nề nếp thông qua việc ban hành những văn bản,luật pháp gốc toàn diện và hoàn chỉnh hơn về quản lý đo lường trở thànhmột yêu cầu cấp thiết. Ngày 25/9/1974,Hội đồng chính phủ đã ký đồng thời hai Nghị định 216 và 217/CP ban hành Điều lệ quản lý đo lường và Điều lệ quản lý đo lường trong các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Công tác quản lý nhà nước về đo lường ở nước ta từ năm 1974 đến 1990 chủ yếu được tiến hành trên cơ sở hai điều lệ này.Vào những năm 70 Thủ tướng chính phủ lại liên tiếp ra hai chỉ thị về cân lớn và về tăng cường quản lý đo lường mà trước hết là tăng cường,thúc đẩy việc tổ chức sản xuất,sửa chữa dụng cụ đo lường trong nước.Để đáp ứng những yêu cầu cấp bách về đo lường của thời kỳ đổi mới kinh tế nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh đo lường năm 1990,từ đó cho đến nay Pháp lệnh đo lường năm 1990 đã bộc lộ nhữnh mặt thiếu xót không phù hợp với tình hình mới với yêu cầu hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng cấp bách, nên đến năm 1999, nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh đo lường mới phù hợp hơn. II- NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN THƯỜNG DÙNG CỦA ĐO LƯỜNG TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG. 1. Đo lường là gì ? Để giải đáp câu hỏi này,ta lần lượt làm sáng tỏ một số khái niệm sau đây. 1.1. Đại lượng (đo được). Đại lượng đo được,hay vắn tắt là đại lượng, là thuộc tính của một hiện tượng,một vật thể hoặc một chất có thể phân biệt được về mặt chất lượng và xác định được về mặt số lượng.Có thể xem đại lượng duới hai khía cạnh chất lượng và số lượng, về mặt chất lượng,có thể chia đại lượng thành từng loại đại lượng như độ dài,khối lượng,thời gian,thể tích,nhiệt độ,áp xuất...Về mặt số lượng mỗi loại đại lượng này có thể biểu diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ riêng biệt khác nhau. 1.2. Đơn vị. Đơn vị đo (đơn vị) là một đại lượng cụ thể được chọn theo quy ước thống nhất dùng để biểu thị các đại lượng cùng loại với nó về mặt định lượng.Ví dụ ta có một độ dài cụ thể theo định nghĩa thống nhất của quốc tế được lấy làm đơn vị để đo đaị lượng “độ dài” mang tên “mét”. 1.3. Giá trị của đại lượng. Giá trị của đại lượng (giá trị) là sự biểu thị đại lượng bằng số và đơn vị tương ứng.Ví dụ: 15 mét (15m) ; 125 kilôgam (125kg); 25 lít (251)...Phần số trong giá trị của đại lượng thường gọi là trị số.Trong các ví dụ trên là 15; 125; 25... 1.4. Phép đo. Phép đo là tập hợp các thao tác nhằm mục đích xác định giá trị của địa lượng.Như vậy, bản chất của phép đo chính là việc so sánh đại lượng cần đo với một đại lượng cùng loại đã được chọn làm đơn vị. 7.5. Đo lường là gì ? Đến đây ta có thể làm rõ một vài khía cạnh xung quanh thuật ngữ “đo lường” đang được dùng phổ biến trong đời sống,sản xuất,tài liệu khoa học- kỹ thuật cũng như trong nhiều văn bản của nhà nước. Có thể hiểu đo lường là phép đo hoặc là lĩnh vực khoa học về phép đo tuỳ theo ngữ cảnh khi nó được dùng như một danh từ. Có thể hiểu đo lường là đo,là một thao tác cụ thể nhằm xác định giá trị của đại lượng khi nó được dùng như một động từ.Cũng có thể dùng thuật ngữ này như một tính từ để chỉ một vấn đề, một nội dung nào đó có liên quan đến việc xác định giá trị của đại lượng,ví dụ như hoạt động đo lường,quản lý đo lường. 2. Các thuật ngữ chung và cơ bản của đo lường trong hệ thống quản lý chất lượng. 2.1. Đơn vị và hệ đơn vị. Đơn vị bao gồm các đơn vị cơ bản,đơn vị dẫn xuất, đơn vị hợp pháp. Trong các đơn vị đo có một số đơn vị mà độ lớn được chọn độc lập với những đơn vị khác đó là những đơn vị cơ bản, ví dụ như mét,kilôgam, giây... Độ lớn của những đơn vị này thường được chọn vừa phải,phù hợp với yêu cầu đo lường thông thường trong đời sống, sản xuất.Dựa vào những đơn vị cơ bản đó người ta xây dựng các đơn vị dẫn xuất.Như vậy độ lớn của đơn vị dẫn xuất phụ thuộc vào độ lớn của đơn vị cơ bản.Tập hợp những đơn vị cơ bản và các đơn vị dẫn xuất theo một nguyên tắc nhất định lập thành hệ đơn vị.Và để đảm bảo tính thống nhất của đo lường, mỗi nước thường quy định bằng luật pháp những đơn vị đo lường được phép sử dụng tại nước mình và gọi là đơn vị đo lường hợp pháp. 2.2. Chuẩn đơn vị đo lường và sai số của phép đo. Những trang thiết bị kỹ thuật để thể hiện và truyền đơn vị được gọi là chuẩn đơn vị đo lường.về bản chất,chuẩn cũng là phương tiện đo nhưng không dùng cho các phép đo hàng ngày mà chỉ dùng để thể hiện và truyền kích cỡ của các đơn vị đến các dơn vị đo có độ chính xác thấp hơn.Hệ thống chuẩn đơn vị đo lường là cơ sở kỹ thuật quan trọng nhất để đảm bảo tính thống nhất và độ chính xác cần thiết của phép đo trong phạm vi doanh nghiệp,quốc gia và quốc tế. Sai số của phép đo là hiệu số giữa kết quả đo và giá trị thực của đại lượng. Trong đó giá tậ thực của đại lượng là giá tậ phản ánh thuộc tính của đối tượng đã cho bằng bằng một phương pháp lý tưởng phù hợp với nó cả về số lượng và chất lượng. 2.3. Một số thuật ngữ mang tính chuyên môn của đo lường trong hệ thống quản lý chất lượng. Phương tiện đo là thiết bị được dùng độc lập hoặc cùng với các thiết bị phụ để thực hiện phép đo.Vật đo là thiết bị được dùng theo một cách cố định trong khi sử dụng nó để tái tạo hoặc cung cấp một hoặc nhiều giá trị đã biết của một đại lượng đã cho.Bộ chuyển đổi đo là thiết bị cung cấp đại lượng ở đầu ra có mối liên hệ xác định với đại lượng ở đầu vào. Chuỗi đo là dãy các phần tử của một phương tiện đo hoặc hệ thống đo tạo thành đường đi của tín hiệu đo từ đầu vào đến đầu ra.Hệ thống đo là tập hợp đầy đủ các phương tiện đo và thiết bị khác được liên kết lại để thực hiện những phép đo nhất định. Phương tiện đo hiển thị là phương tiện đo biểu thị ra số chỉ. Phương tiện đo tự ghi là phương tiện đo có ghi lại số chỉ.Phương tiện đo tổng là phương tiện đo xác định giá tậ của đại lượng đo bằng cách cộng các giá trị thành phần của đại lượng đo nhận được đồng thời hoặc kế tiếp nhau từ một nguồn hoặc nhiều nguồn.Phương tiện đo tích phân là phương tiện đo xác định giá tậ của đại lượng bằng cách tích phân một đại lượng đối với đại lượng khác.Phương tiện đo tương tự là phương tiện đo trong đó tín hiệu ra hoặc hiển thị là một hàm liên tục của đại lượng đo hoặc tín hiệu vào. Phương tiện đo hiện số là phương tiện đo có đầu ra hoặc chỉ thị hiện số. Cơ cấu hiển thị là bộ phận của phương tiện đo để biểu thị ra số chỉ. Cơ cấu ghi là bộ phận của phương tiện đo để thực hiện việc ghi số chỉ.Bộ cảm biến là phần tử của phương tiện đo hoặc chuỗi đo chịu tác động trực tiếp của đại lượng đo.Bộ dò là cơ cấu hoặc chất để phát hiện sự có mặt của một hiện tượng mà không cần cung cấp giá tậ của đại lượng liên quan. Bộ phận chỉ là phân tử cố định hoặc di động của cơ cấu mà vị trí của nó so với dấu hiệu của thang đo cho phép xác định giá tậ được chỉ. Thang đo là tập hợp các dấu hiệu được sắp xếp thứ tự với cách đánh số nào đó tạo thành bộ phận thuộc cơ cấu chỉ thị của phương tiện đo.Phạm vi chỉ là tập hợp các giá trị giới hạn bởi các số chỉ cực trị. Mặt số là phần cố định hoặc di động của cơ cấu chỉ thị có mang thang đo hoặc các thang đo.Hiệu chỉnh là thao tác để đưa phương tiện đo về tình trạng hoạt động phù hợp với việc sử dụng nó.Hiệu chỉnh của người sử dụng là việc hiệu chỉnh chỉ dành cho người sử dụng phương tiện đo. III. VAI TRÒ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐO LƯỜNG TRONG CÁC HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG. 1. Vai trò và sự cần thiết của đo lường trong các hệ thống quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp công nghiệp. Lịch sử phát triển của đo lường cho chúng ta thấy đo lường đi vào cuộc sống,đi vào khoa học trước và dễ dàng hơn là đi vào sản xuất.Lý do là vì ở giai đoạn đầu trong quá trình phát triển của xã hội loài người trình độ sản xuất còn rất thô sơ,kỹ thuật sản xuất thủ công là chính.Người sản xuất dựa vào thói quen và tài năng khéo léo của mình,dựa vào sự ước lượng bằng mắt, bằng tay thay cho việc đo lường chính xác.Bên cạnh đó, tiến hành đo lường có nghĩa là phải tiến hành đầu tư với sự tốn kém nhất định về vật tư,tiền vốn để mua sắm phương tiện đo,để thực hiện phép đo.Trong thời kỳ đó chỉ có giai cấp thống trị mới có khả năng thực hiện những chỉ tiêu thường là lớn đó mà thôi.Nhưng giai cấp thống trị nói chung lại không phải là người trực tiếp sản xuất.Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất,đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật sau đó và cuộc cách mạng công nghệ hiện đại đang diễn ra đã làm thay đổi hẳn vai trò của đo lường trong sản xuất.Từ trình độ thủ công,sản xuất chuyển dần lên trình độ cơ khí hoá, tự động hoá với sự áp dụng ngày càng rộng rãi kỹ thuật điện tử và tin học,với những yêu cầu rất cao về tính lắp lẫn,tính hiệp tác trong sản xuất. Những vấn đề này chỉ có thể giải quyết được với một trình độ và khả năng về đo lường tương ứng. ở giai đoạn hiện nay,đo lường đã thâm nhập và trở thành yếu tố không thể thiếu được của mọi quá trình công nghệ trong đó, công nghệ hệ thống quản lý chất lượng là một yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo chất lượng và hiệu quả cao trong sản xuất. Trong hệ thống quản lý chất lượng nói riêng và trong sản xuất nói chung, đo lường hầu như đã tham dự vào toàn bộ chu trình hình thành nên một sản phẩm,từ khâu nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thử, đến việc kiểm tra nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản xuất: điều khiển,điều chỉnh quá trình công nghệ; kiểm tra chất lượng ở từng công đoạn cuối cùng, cho đến cả khâu lắp đặt, đưa sản phẩm vào sử dụng và bảo hành sản phẩm. Việc đo lường đầu vào, đầu ra và bản thân quy trình là một bộ phận thiết yếu của hệ thống quản lý chất lượng. Đo lường theo dõi quản lý chất lượng và có thể được sử dụng để xác định mức độ cải tiến và xuống cấp trong chất lượng. Đo lường có thể thực hiện dưới hình thức đếm đơn giản để có những dữ liệu thuộc tính hoặc theo những phương pháp tinh vi hơn sản sinh ra những dữ liệu biến thiên xuất hiện trên một thang liên tục như là chiều cao, dòng điện tốc độ chiều dài, độ cô đặc và thời gian. Quy trình hoạt động không có đo lường là những quy trình mà người ta hiểu biết rất ít về nó. Trái lại, nếu đầu vào và đầu ra có thể đo được biểu hiện bằng con số, thì có thể biết được ít nhiều về quy trình và có thể kiểm soát được. Giai đoạn đầu sử dụng đo lường làm một bộ phận của việc kiểm soát quy trình là xác định một cách chính xác những hoạt động, vật liệu, trang thiết bị...sẽ phải đo. Điều này làm cho ai quan tâm đến quy trình có thể liên hệ đến các giá tộ mục tiêu và tiêu điểm đạt được sẽ động viên có thêm nhiều cải tiến. Đứng trên tầm vĩ mô đo lường là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý về chất lượng trong các tổ chức, các doanh nghiệp.Còn đối với các hoạt động và quá trình diễn ra trong tổ chức, doanh nghiệp hầu như đều cần đến các hoạt động đo lường để đánh giá hiệu quả của công việc, cũng như việc tuân thủ các quy định trong các hoạt động. Đo lường giúp cho việc đánh giá được chính xác và thống nhất mọi hoạt động trong tổ chức, doanh nghiệp thông qua việc đảm bảo các yêu cầu về phương tiện đo, phương pháp đo, đơn vị đo và người thực hiện. Điều đó làm cho các kết quả đo có sức thuyết phục cao, thể hiện được đầy đủ các yêu cầu và là cơ sở cho các đánh giá sau này. Đo lường giúp cho doanh nghiệp triển khai nghiên cứu áp dụng các tiêu chuẩn đặc biệt là các tiêu liên quan đến chất lượng, giúp cho doanh nghiệp có thể kiểm tra đăng ký chất lượng và xử lý các vi phạm về chất lượng cũng như các tranh chấp về chất lượng, đồng thời đo lường giúp cho việc nghiên cứu thử nghiệm đánh giá và xác định chất lượng một cách chính xác, nhanh chóng và đầy đủ. 2. Nội dung quản lý nhà nước về đo lường ở Việt Nam hiện nay. Thực chất quản lý Nhà nước về đo lường là quản lý đo lường ở tầm vĩ mô, là sự kiểm soát, sự định hướng, sự điều tiết của Nhà nước đối với các hoạt động đo lường nhằm đạt được lợi ích chung của toàn xã hội và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, trong đó chủ thể quản lý Nhà nước về đo lường là chính phủ - cơ quan hành chính cao nhất. Quản lý nhà nước về đo lường được thực hiện trên nguyên tắc: Đối tượng quản lý Nhà nước về đo lường là hoạt động đo lường ở tất cả các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.Quản lý Nhà nước về đo lường quan tâm trước hết đến hoạt động đo lường có liên quan đến quyền lợi, sức khoẻ, sự an toàn của mọi người dân đồng thời phân biệt và giải quyết hợp lý giữa phạm vi quản lý Nhà nước về đo lường và tính tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phải đảm bảo được hệ thống hành pháp về đo lường giữ vai trò then chốt trong việc kiểm tra thực hiện pháp luật về đo lường. Quản lý Nhà nước về đo lường phải được tổ chức và triển khai phù hợp với các quy định chung mà quốc tế đã thống nhất. Với những nguyên tắc đó, quản lý Nhà nước về đo lường bao gồm một số nội dung cơ bản sau: *) Quản lý Nhà nước về hệ thống chuẩn đơn vị đo lường và mẫu chuẩn: Mỗi một đơn vị đo lường đo lường đều được xác định bải một hệ thống chuẩn, trong đó chuẩn quốc gia do chính phủ kí quyết định công nhận, chuẩn cao nhất do bộ trưởng bộ khoa học - công nghệ - môi trường kí quyết định công nhận, chuẩn của các cơ quan quản lý Nhà nước về đo lường hoặc các cơ sở được uỷ quyền kiểm định Nhà nước cùng với những chuẩn chính của các ngành, đây chính là những mắt xích nối liền mối quan hệ giữa chuẩn quốc gia với tất cả các phương tiện đo được sử dụng. Tất cả các chuẩn này đều phải được kiểm định Nhà nước. Quản lý Nhà nước chứng nhận về mẫu chuẩn của ngành do các cơ quan quản lý của ngành thực hiện, các mẫu chuẩn phải qua chứng nhận của Nhà nước bao gồm mẫu sử dụng để khắc vạch phương tiện đo, mẫu chuẩn liên quan đến việc xác định lượng hàng hoá trao đổi và giao nhận, mẫu chuẩn liên quan đến việc bảo đảm an toàn lao động, môi trường, sức khoẻ, liên quan đến giám định tư pháp và các hoạt động công vụ khác của Nhà nước. *) Hoạt động kiểm định phương tiện đo: Nhà nước tiến hành kiểm định các loại phương tiện đo dùng làm chuẩn để kiểm định hay được dùng làm chuẩn chính, các phương tiện đo sử dụng và phục vụ cho mục đích định lượng hàng hoá trong mua bán trao đổi, các phương tiện đo liên quan đến việc bảo đảm an toàn lao động, an toàn về sức khoẻ, vệ sinh môi trường và các phương tiện đo giám định tư pháp. Nhà nước tiến hành kiểm định theo ba chế độ kiểm định đó là kiểm định ban đầu, kiểm định định kỳ, kiểm định bất thường. Các cơ sở, cá nhân sản xuất, sửa chữa và nhập khẩu phương tiện đo phải đăng ký kiểm định ban đầu, các cơ sở hay cá nhân sử dụng phương tiện đo thì bắt buộc phải đăng ký kiểm định định kỳ. Những thủ tục đăng ký kiểm định đã được quy định thống nhất do cơ quan quản lý Nhà nước về đo lường quy định thống nhất trên toàn quốc. *) Quản lý hoạt động sửa chữa, xuất nhập khẩu và buôn bán phương tiện đo: Các tổ chức, cá nhân thực hiện sản xuất, sửa chữa phương tiện đo thì phải đăng ký tại cơ quan quản lý Nhà nước về đo lường có thẩm quyền. Hoạt động xuất nhập khẩu buôn bán phương tiện đo thì phải được sự đồng ý, phê duyệt của cơ quan quản lý Nhà nước về đo lường. *) Quản lý sử dụng phương tiện đo, hàng đóng gói sẵn theo định lượng: Các tổ chức cơ sở chỉ được sử dụng các phương tiện đo đã qua kiểm định và thực hiện các phương pháp đo lường theo quy định của Nhà nước. Quản lý hàng đóng gói theo định lượng là cách quản lý gián tiếp các phép đo, các phương tiện đo liên quan đến hoạt động thương mại để bảo vệ lợi ích chính đáng của người mua và người bán. *) Thực hiện thanh tra chuyên ngành về đo lường gồm có thanh tra định kỳ và thanh tra bất thường do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện. 3. Công tác quản lý đo lường tại doanh nghiệp. Đối với công tác đo lường ở doanh nghiệp thì chủ thể quản lý chính là giám đốc chất lượng, đối tượng quản lý là tất cả các hoạt động đo lường trong doanh nghiệp đặc biệt là quá trình điều chỉnh công nghệ, kiểm tra chất lượng giữa các công đoạn sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi bán và kiểm tra chất lượng dịch vụ sau khi bán. Quản lý đo lường tại doanh nghiệp dựa trên các cơ sở có căn cứ như: Cơ sở khoa học đó là việc áp dụng những thành tựu đo lường tại doanh nghiệp, cơ sở kỹ thuật là hệ thống chuẩn đo lường tại doanh nghiệp để kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, cơ sở pháp lý bao gồm toàn bộ các văn bản nội quy, quy định của Nhà nước. Nhiệm vụ đặt ra cho quản lý đo lường tại doanh nghiệp là phải tổng hợp và phân tích tình hình và yêu cầu về đo lường tại doanh nghiệp, xây dụng những chương trình đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xây dựng những đề án biện pháp phù hợp để nâng cao chất lượng đo lường tại doanh nghiệp. Xây dựng, đề nghị ban hành những quy định, định mức về đo lường tại doanh nghiệp, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện những quy định, định mức này. Tổ chức và quản lý trang bị bảo quản và sử dụng các phương tiện đo đồng thời thực hiện kiểm định và hiệu chuẩn, sửa chữa các phương tiện đo. Tổ chức thực hiện công tác nghiên cứu, những thử nghiệm, cải tiến kỹ thuật đo lường mặt khác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác đo lường, cán bộ làm thông tin về đo lường. 4. Mối quan hệ giữa đo lường và chất lượng với quản lý chất lượng trong doanh nghiệp. Trước hết ta thấy rằng quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp là doanh nghiệp tự vận dụng các tiêu chuẩn có trong các hệ thống quản lý chất lượng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Xét ở tầm vĩ mô thì giữa tiêu chuẩn, hoạt động đo lường và hoạt động quản lý Nhà nước về chất lượng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng thúc đẩy nhau cùng phát triển và nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì không thể thực hiện được quản lý Nhà nước về chất lượng. Đo lường có tác động tích cực đối với tiêu chuẩn hoá, đo lường là công cụ để tiến hành nghiên cứu thử nghiệm lựa chọn các yêu cầu, định mức hợp lý đối với các chỉ tiêu của tiêu chuẩn, nó là công cụ để điều khiển các quá trình sản xuất theo tiêu chuẩn. Đo lường là công cụ để tiến hành kiểm tra các chỉ tiêu, thuộc tính của sản phẩm xem có đạt các yêu cầu quy định trong tiêu chuẩn đã lựa chọn hay không. Tiêu chuẩn thể hiện rõ những điểm trọng yếu của từng hoạt động trong công việc, xác định các công việc trên cơ sở các phương pháp thao tác và kết quả nhờ đó mà làm cho sản phẩm hay chi tiết được sản xuất ra có chất lượng đồng đều và ổn định. Đánh giá chất lượng bao giờ cũng căn cứ vào các tiêu chuẩn, không dựa vào tiêu chuẩn thì không thể khẳng định đuợc sản phẩm này hay sản phẩm kia có chất luợng, trong khi đó đo luờng tạo điều kiện mô tả chính xác tình trạng của sản phẩm và còn gián tiếp là cơ sở khoa học cho việc xây dựng những tiêu chuẩn mới sau này. Tiêu chuẩn hoá chỉ có thể phát huy đuợc tác dụng của mình khi có một hệ thống đo luờng chính xác, nguợc lại đo luờng lại sử dụng tiêu chuẩn hoá nhu một công cụ để phát triển thông qua việc quy định các phuơng pháp đo và phuơng tiện đo thống nhất. Tiêu chuẩn hoá là biện pháp quan trọng để đo luờng có hiệu quả cao góp phần đảm bảo độ chính xác cần thiết của các phép đo, phuơng tiện đo. 5)Yêu cầu và vị trí của đo lường trong hệ thống quản lý chất lượng ISO:9000 Nhận thức rõ tầm quan trọng của đo lường trong sản xuất, trong quản lý chất lượng nên đo lường đã trở thành yếu tố không thể thiếu được trong bất kỳ một hệ thống quản lý chất lượng nào trong đó có hệ thống quản lý chất lượng ISO:9000. Mục đích là đảm bảo sử dụng đúng thiết bị để tra công việc, chứng tỏ sự phù hợp của sản phẩm, đảm bảo sự phù hợp của hệ thống quản lý chất lượng và thường xuyên nâng cao tính hiệu lực của hệ thống quản lý chất lượng. Sự xuất hiện đo lường trong hệ thống này được áp dụng trong ngành công nghiệp có sử dụng thiết bị kiểm tra và đo lường để kiểm chứng sản phẩm sản xuất có đúng các thông số kỹ thuật không.Nếu việc kiểm tra chỉ là thị sát thì chúng ta không cần thiết bị đo lường. Tuy nhiên, nếu sử dụng thiết bị đo lường và thử nghiệm thì phải kiểm soát, bảo quản và sử dụng chúng hoàn hảo, duy tri độ chính xác ở mức cần thiết. Theo hệ thống quản lý chất lượng ISO: 9000 thì tổ chức phải xác định việc theo dõi và đo lường cần thực hiện và các phương tiện theo dõi và đo lường cần thiết để cung cấp bằng chứng về sự phù hợp của sản phẩm với các yêu cầu xác định. Tổ chức phải thiết lập các quá trình để đảm bảo rằng việc theo dõi và đo lường cần tiến hành và được tiến hành một cách nhất quán với các yêu cầu theo dõi và đo lường. Ngoài ra, tổ chức phải đánh giá và lưu hồ sơ về giá tậ hiệu lực của các kết quả đo lường trước đó khi thiết bị được phát hiện không phù hợp với các yêu cầu. Tổ chức phải tiến hành các hành động thích hợp đối với thiết bị và bất kỳ sản phẩm nào bị ảnh hưởng. Phải duy tri hồ sơ các kết quả hiệu chuẩn và kiểm tra xác nhận. Khi sử dụng phần nềm máy tính để theo dõi và đo lường các yêu cầu đã quy định, phải xác nhận khả năng thoả mãn việc áp dụng dự kiến. Việc này phải được tiến hành trước lần sử dụng đầu tiên và được xác nhận lại khi cần thiết. Trong phiên bản mới ISO 9000:2000 đã đưa ra các yêu cầu cho hệ thống quản lý chất lượng nhằm tiến tới sự thoả mãn khách hàng thông qua việc đáp ứng các yêu cầu của họ và của luật định. Cũng như phiên bản ISO 9000 trước đây, phiên bản mới này khuyến khích việc quản lý chất lượng theo phương pháp quá trình. Đó chính là việc nhận biết và quản lý có hệ thống các quá trình hoạt động và sự tương tác giữa các quá trình họat động này. Vậy đo lường được hiện diện và được quy định trong ISO 9000:2000 như thế nào ? Có thể nói, cũng như trong ISO 9000 cũ đo lường chiếm một vị trí nổi bật trong ISO 9000:2000. Tất cả các yêu cầu có liên quan đến đo lường đã được quy định trước đây đều được giữ lại với sự bổ sung và hệ thống hoá cao hơn. Các yêu cầu về đo lường trong ISO 9000:2000 đều cho ta thấy rõ vai trò xuyên suốt của đo lường trong tất cả các quá trình hình thành nên một sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng thấy được cụ thể những công việc về đo lường cần thực hiện để đáp ứng yêu cầu này. Những yêu cầu này được thể hiện trong ISO 9000:2000 như sau: +Mục 4. Các yêu cầu của hệ thống chất lượng: phần các yêu cầu chung quy định tổ chức phải đo lường, kiểm soát và phân tích các quá trình cần thiết cho một hệ thống quản lý chất lượng. +Mục 5. Trách nhiệm của lãnh đạo, phần lập kế hoạch quy định các mục tiêu chất lượng phải là các mục tiêu đo lường được. +Mục 6. Quản lý nguồn lực, tổ chức phải xác định cung cấp và duy trì cơ sở vật chất cần thiết để đạt được sự phù hợp của sản phẩm, trong đó có trang thiết bị, phần cứng và phần mềm. +Mục 7. Việc thực hiện sản phẩm, phần lập kế hoạch thực hiện các sản phẩm được quy định phải xác định các hoạt động kiểm tra và xác nhận giá trị và các tiêu chuẩn chấp nhận. Phần các hoạt động sản xuất và dịch vụ theo quy định thì tổ chức phải sẵn có và sử dụng các thiêts bị đo lường giám sát.Đặc biệt phần 7.6 Kiểm soát các thiết bị đo lường và giám sát đã đưa ra yêu cầu: Tổ chức phải xác định các phép đo và các thiết bị giám sát và đo lường cần thiết để đảm bảo sự phù hợp của sản phẩm theo yêu cầu quy định. Các thiết bị đo lường và giám sát phải được sử dụng và kiểm soát để đảm bảo rằng năng lực của phép đo đồng nhất với các yêu cầu của phép đo. Để chắc chắn thiết bị đo lường hoạt động có hiệu quả và cho kết quả đáng tin cậy thì thiết bị đo lường phải: - Được hiệu chuẩn hoặc kiểm tra xác nhận định kỳ, hoặc trước khi sử dụng, dựa trên các chuẩn đo lường có liên kết với chuẩn đo lường quốc gia hay quốc tế, khi không có các chuẩn này thì căn cứ được sử dụng để hiệu chuẩn hoặc xác nhận phải được lưu hồ sơ. -Được hiệu chỉnh hay hiệu chỉnh lại khi cần thiết. -Được nhận biết để giúp xác định trạng thái hiệu chuẩn. -Được gìn giữ tránh bị hiệu chỉnh làm mất tính đúng đắn của các kết quả đo -Được bảo vệ để tránh hư hỏng hoặc suy giảm chất lượng trong di chuyển, bảo dưỡng và lưu giữ. +Mục 8.Đo lường, phân tích và cải tiến, phần lập kế hoạch quy định: Tổ phải xác định, lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động đo lường và giám sát cần thiết để đảm bảo sự phù hợp và đạt được các kết quả cải tiến...Đồng thời tổ chức phải giám sát các thông tin về sự thoả mãn hoặc sự không thoả mãn của khách hàng như là một phép đo về hoạt động của hệ thống chất lượng. Mặt khác đo lường và giám sát các quá trình quy định: Tổ chức phải áp dụng các phương pháp thích hợp để đo lường và giám sát các quá trình sản xuất để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng.Các phương pháp này chứng tỏ khả năng của mỗi quá trình nhằm thoả mãn các mục đích đã định. Hơn nữa đo lường và giám sát sản phẩm quy định tổ chức phải đo lường và giám sát các đặc tính của sản phẩm để xác nhận rằng sản phẩm đã thoả mãn các yêu cầu quy định. Như vậy, trong ISO 9000:2000 đo lường đã hiện diện trực tiếp hoặc gián tiếp hầu như ở tất cả các yếu tố tạo thành hệ thốn quản lý chất lượng. Tổ chức phải tiến hành các phương pháp thích hợp để đo lường các quá trình của hệ thống quản lý chất lượng.Các phương pháp này phải chứng tỏ khả năng của các quá trình đạt được các kết quả đã hoạch định. Khi không đạt được kết quả dự kiến, phải tiến hành khắc phục và hành động phòng ngừa một các thích hợp để đảm bảo sự phù hợp của sản phẩm.Các thiết bị đo lường đo các đặc tính của sản phẩm để kiểm tra xác nhận rằng các yêu cầu về sản phẩm đã được đáp ứng.Việc này phải được tiến hành tại những giai đoạn thích hợp của quá trình tạo sản phẩm theo các bố trí đã lập kế hoạch. 6. Yêu cầu và vị trí của đo lường trong hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM Bất kỳ một hệ thống kiểm tra nào dựa vào việc thanh tra sản xuất để phát hiện chất lượng tồi đều không đáng tin cậy, tôn kém, lãng phí và không kinh tế. Hệ thống đó phải được thay thế bằng chiến lược phòng ngừa và phải sử dụng thanh tra để xem xét lại hệ thống chuyển đổi chứ không phải xem lại sản phẩm.Với nhận thức đó hệ thống quản lý chất lượng toàn diện đã coi đo lường là một bộ phận quan trọng của quá trình kiểm tra TQM, nó được sử dụng để vạch kế hoạch, đánh giá và sửa sai, tuy nhiên nó chỉ là một bộ phận và không được trở thành một mục đích tự nó. Bản thân việc thực hiện sự đo lường sai sót với độ chính xác vô hạn không giúp gì để tránh được sai sót đó, do đó trong quản lý chất lượng toàn diện nhiều khi cần phải kiềm chế sự hăng hái của những nhà hoá học phân tích, những kỹ sư thí nghiệm chính xác và thậm chí cả những kỹ sư công nghiệp nữa. Thông thường người ta tiến hành đo lường kiểm tra sự phù hợp theo tiêu chuẩn vào cuối quá trình sản xuất, ngay trước khi giao thành phẩm cho các đại lý hoặc người tiêu dùng. Nhưng trong tiếp cận TQM việc đo lường kiểm tra được tiến hành trong suốt quá trình sản xuất. Tiến hành đo lường kiểm tra ở đầu vào quá trình sản xuất bao gồm việc kiểm tra nguyên vật liệu hoặc các bộ phận từ các nhà cung cấp, qua đó để thấy được các yếu tố đầu vào có đạt sự phù hợp theo quy định hay không. Đo lường kiểm tra được tiến hành ngay trong quá trình sản xuất khi sản phẩm đi qua từng công đoạn một trong quá trình. Một mục tiêu của kiểm tra tại nơi làm việc là để xác định coi quá trình có hoạt động thích đáng không, nằm trong tầm kiểm soát hay vượt ra ngoài. Trong TQM việc sửa chữa những sai sót về chất lượng trong quá trình sản xuất là mục tiêu hàng đầu và đó là cách lý tưởng để giảm khả năng có phế phẩm. Trong môi trường TQM lý tưởng thì người sản xuất trực tiếp phải đồng thời là người đo lường kiểm tra các chi tiết đi qua chỗ làm việc của mình và tìm ngay biện pháp khắc phục, tuy nhiên không phải lúc nào cũng làm được điều đó vì việc tiến hành kiểm tra đo lường chi tiết tốn mất nhiều thời gian và khiến tốc độ sản xuất bị tri trệ.Đo lường kiểm tra lý tưởng là tiến hành kiểm tra trước tất cả các nguyên công, tuy nhiên điều này rất gây tốn kém nên theo TQM thì các trạm đo lường kiểm tra thường được đặt ở những chỗ mang lại hiệu quả nhất.Vấn đề quan trọng đặt ra là khi nào, ở giai đoạn nào trong quá trình sản xuất cần được kiểm tra thông qua đo lường.Phát hiện ra sai sót càng sớm trong quá trình sản xuất thì càng ít lãng phí tài nguyên trong các nguyên công tiếp theo, nhờ đó phế phẩm được loại ra ngay từ đầu. IV. MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ ĐO LƯỜNG Ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN TRÊN THẾ GIỚI. Với nền tảng cơ sở hạ tầng phát triển ở trình độ cao, nên các nước phát triển có hệ thống đo lường và quản lý đo lường hiện đại và hiệu quả, qua đó đã có những đóng góp to lớn trong công tác đo lường trên toàn thế giới mà biểu hiện đỉnh cao là hình thành những khu vực liên kết hợp tác trong lĩnh vực đo lường tiêu chuẩn hoá. ở cộng đồng châu Âu, hoạt động đo lường tiêu chuẩn hoá mang tính khu vực bắt đầu được đẩy mạnh từ những năm 1985 kể từ khi cộng đồng này đưa vào áp dụng khái niệm “phương pháp tiếp cận mới”trong lĩnh vực đo lường tiêu chuẩn hoá. Cộng đồng châu Âu theo đuổi “phương pháp tiếp cận mới” gần 30 năm nay và tiếp tục khẳng định sự kiên trì đường lối này trong thiên niên kỷ mới. “Phương pháp tiếp cận mới” của cộng đồng châu Âu nhằm mục tiêu giảm bớt càng nhiều càng tốt các trở ngại do các quy định của mỗi nước trong cộng đồng gây ra, làm ảnh hưởng tới tự do hoá thương mại trong cộng đồng. Và vì vậy, cho phép giảm sự tập trung hoá và tăng mức độ linh hoạt trong hoạt động thương mại. Nội dung của phương pháp tiếp cận mới này là chỉ có các yêu cầu cơ bản về an toàn và công dụng của sản phẩm mới được đưa vào trong các nghị quyết của cộng đồng và đòi hỏi sự tuân thủ của các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó ở các nước thành viên. Còn các tiêu chuẩn chi tiết khác không liên quan đến an toàn và công dụng cơ bản nói trên sẽ được các công ty đưa ra và áp dụng tự nguyện. Các tiêu chuẩn này là tự nguyện song bản thân chúng đã tạo ra tiền đề cho sự phù hợp với các yêu cầu cơ bản quy định trong các nghị quyết của cộng đồng châu Âu. Ngày nay nhu cầu về một “phuơng pháp tiếp cận mới” là tất yếu khi liên kết chính trị, kinh tế và xã hội ngày càng trở nên chặt chẽ trong phạm vi cộng đồng và cũng không phải là ngẫu nhiên cộng đồng châu Âu đua ra “phuơng pháp tiếp cận mới” này. “Phuơng pháp tiếp cận mới” đuợc dựa trên cái gọi là phuơng pháp tiếp cận toàn cầu về thử nghiệm và chứng nhận. Sản phẩm của thế giới mà theo đó việc toàn cầu hoá và hội nhập của các thị truờng khác nhau đã trở thành xu thế tất yếu. Phuơng pháp tiếp cận toàn cầu về thử nghiệm và chứng nhận cho phép doanh nghiệp có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu quy định. Nói cụ thể hơn là doanh nghiệp có thể dùng bên thứ ba thực hiện việc thử nghiệm hoặc tự mình thử nghiệm hoặc chứng nhận cho sản phẩm của chính mình, tuỳ thuộc vào khả năng đảm bảo chất lượng trong thực tiễn sản xuất kinh doanh của mình. Cả “ phương pháp tiếp cận mới” của cộng đồng châu Âu và phương pháp tiếp cận toàn cầu về thử nghiệm và chứng nhận đều hướng tới sự giảm bớt sự can thiệp của pháp luật và nhà nước vào hoạt động sản xuât kinh doanh của doanh nghiệp, tạo nên chỗ đứng cho cái gọi là sự tự điều chỉnh của thị trường, qua đó thúc đẩy tự do hoá thương mại trong phạm vi khu vực và toàn cầu. ở châu Á hoạt động đo lường tiêu chuẩn hoá cũng mang tính khu vực nhưng kém phát triển hơn ở cộng đồng châu Âu do mối liên kết về chính tậ và về kinh tế lỏng lẻo hơn. Trong khuôn khổ tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - thái bình dương (APEC) các hoạt động về đo lường, tiêu chuẩn và chứng nhận bao gồm: -Hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế. -Thừa nhận lẫn nhau về kết quả thử nghiệm và chứng nhận. -Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng. -Tăng cường trao đổi thông tin nhằm minh bạch hoá chính sách quản lý tiêu chuẩn chất lượng. Việc triển khai các hoạt động nói trên là nhiệm vụ chủ yếu của tiểu ban Tiêu chuẩn và Sự phù hợp của APEC.VỚi sự điều hành của tiểu ban này, một số lĩnh vực ưu tiên đối với hài hoà tiêu chuẩn và thừa nhận lẫn nhau đã được xác định, một số hiệp định khung của APEC về thừa nhận lẫn nhau đã được soạn thảo. Là một nước đang phát triển, Việt nam đã và đang thừa hưởng những thành tựu về đo lường và tiêu chuẩn hoá tiên tiến trên thế giới mà cụ thể là Việt nam đã và đang nhận được sự hỗ trợ của các nước thuộc cộng đồng châu Âu, thông qua các dự án song phương. Dự án hiện đang trong quá trình triển khai là chương trình hỗ trợ kỹ thuật của EU tại Việt nam trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng. Các yếu tố của phương pháp tiếp cận mới của cộng đồng châu Âu cũng đã được thể hiện trong các văn bản pháp lệnh năm 1999.Việt nam đã và đang tham gia tích cực vào các dự án hên kết trong lĩnh vực đo lường ở phạm vi khu vực và thế giới, đây là những thuận lợi to lớn cho sự nghiệp đo lường việt nam phát triển, đồng thời tạo ra những thời cơ và thách thức đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng hàng hoá.PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐO LƯỜNG TRONG MỘT SỐ HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG Ở CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM. I. TÌNH TRẠNG ĐO LƯỜNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NÓI CHUNG. 1. Đo lường công nghiệp là gì? Đo lường công nghiệp là lĩnh vực đo lường gắn liền với sản xuất của các doanh nghiệp, phục vụ cho việc duy tri và cải tiến công nghệ nhằm đảm bảo chất lượng của sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể tiếp cận đo lường công nghiệp theo hai hướng: Một là, hình thành một mạng lưới dẫn xuất chuẩn (các phòng hiệu chuẩn được công nhận) để các chuẩn và phương tiện đo dùng trong công nghiệp được liên kết với chuẩn quốc gia trực tiếp hoặc gián tiếp. Hai là, tổ chức quản lý, phát triển đo lường tại chính doanh nghiệp với ý nghĩa đo lường là một trong các yếu tố quan trọng không thể thiếu trong cấu thành hệ thống đảm bảo chất lượng của doanh nghiệp. Đo lường công nghiệp là lĩnh vực các doanh nghiệp và các nghành công nghiệp phải tự lo liệu vì lơị ích sản xuất kinh doanh của mình. Vai trò của nhà nước chỉ là định hướng, giúp đỡ, hỗ trợ trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện. 2. Đo lường công nghiệp trong pháp lệnh đo lường 1999. Pháp lệnh đo lường 1999 đã dành toàn bộ chương IV để quy định về vấn đề hiệu chuẩn phương tiện đo. Những quy định này thể hiện quan điểm và cơ chế quản lý của nhà nước ta đối với đo lường công nghiệp. Cơ chế này dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thoả thuận và tự phát triển của các ngành, các doanh nghiệp với sự giúp đỡ và định hướng của nhà nước. Nội dung cơ bản của những quy định này là: + Hiệu chuẩn là việc so sánh giá tậ của đại lượng thể hiện bằng phương tiện đo với giá tậ tương ứng thể hiện bằng chuẩn đo lường. Hiệu chuẩn được áp dụng đối với các phương tiện đo dùng làm chuẩn và các phương tiện đo ngoài danh mục phải kiểm định. Đó chính là những phương tiện đo dùng trong nghiên cứu khoa học, công nghệ,những phương tiện đo dùng làm chuẩn để hiệu chuẩn phương tiện đo khác, để khắc độ phương tiện đo, để điều khiển, điều chỉnh các quá trình công nghệ sản xuất,vật liệu, thiết bị nhằm phục vụ việc kiểm tra chất lượng, việc nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới,việc bảo hành sửa chữa, phục hồi sản phẩm. Việc hiệu chuẩn được thực hiện tại các phòng hiệu chuẩn và chính các phòng hiệu chuẩn này chịu trách nhiệm về kết quả hiệu chuẩn của mình. +Phòng hiệu chuẩn được một tổ chức công nhận có thẩm quyền đánh giá và công nhận là có đủ điều kiện theo quy định để tiến hành các hoạt động hiệu chuẩn đối với từng lĩnh vực đo cụ thể, gọi là phòng hiệu chuẩn được công nhận.Pháp lệnh đo lường 1999 giao trách nhiệm cho cơ quan quản lý nhà nước về đo lường phải quy định cụ thể nội dung, điều kiện, thủ tục công nhận phòng hiệu chuẩn và tổ chức công nhận có thẩm quyền. +Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ sản xuất, kinh doanh phát triển hoạt động hiệu chuẩn, xây dựng các phòng hiệu chuẩn được công nhận nhằm boả đảm tính thống nhất và độ chính xác cần thiết của phương tiện đo, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh và nghiên cứu của cơ sở. Như vậy, với những quy định như trên thì tình trạng đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam nói chung ra sao.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan