Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Mầm non Bản chất và vai trò của pháp luật...

Tài liệu Bản chất và vai trò của pháp luật

.DOC
29
7082
151

Mô tả:

BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT Đặt vấn đề: Như chứng ta đã biết, xã hội là một hệ thống các mối quan hệ đan xen, tác động qua lại lẫn nhau và rất phức tạp. Nó nảy sinh trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, giữa các tổ chức với nhau… Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. Do đó mà các mối quan hệ trong xã hội cũng luôn vận động và biến đổi cho phù hợp. Với nhiều mối quan hệ phát sinh như vậy đòi hỏi phải có phương tiện quản lý và Nhà nước đã ban hành ra pháp luật để quản lý xã hội theo một trật tự nhất định. Để hiểu rõ được nguồn gốc sinh ra pháp luật, nó có vai trò quan trọng như thế nào đối với việc quản lý xã hội, quản lý đất nước? Tôi xin giới thiệu với các đồng chí bài “Bản chất và vai trò của pháp luật”. Mục đích của bài này là nhằm cung cấp cho các đồng chí một cách cơ bản những kiến thưc về bản chất và vai trò của pháp luật. Để từ đó mà vận dụng có hiệu quả vào cuộc sống. Kết cầu bài gồm 4 phần. I. NGUỒN GỐC CỦA PHÁP LUẬT. II. BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT. III. CÁC MỐI QUAN HỆ CỦA PHÁP LUẬT. IV. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT. 1 PHẦN CHO HỌC VIÊN GHI PHẦN GIẢNG Ta biết rằng pháp luật có vị Như chúng ta đã biết, Nhà nước xuất trí quan trọng đối với sự phát triển hiện là do yêu cầu khách quan nảy sinh từ xã của xã hội. hội khi xã hội phân hoá thành giai cấp với những quyền lực đối kháng. Để duy trì và bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, giai cấp thống trị đã đặt ra những quy tắc của để mọi người tuân theo, đó chính là pháp luật. Vậy để biết pháp luật là gì? nó có bản chất và vai trò như thế nào. Đầu tiên chúng ta sẽ tìm hiểu nguồn gốc của pháp luật. I. Nguồn gốc của pháp luật. 1. Nguồn gốc Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, chế độ cộng sản nguyên thuỷ là thời kỳ không có Nhà nước và do đó cũng không có pháp luật. - Ở thời kỳ này, các bộ tộc nguyên thuỷ sử dụng các quy tắc dân tộc, phong tục, tập quán – những chuẩn mực thống nhất để điều chỉnh hành vi con người. Đặc điểm của những quy tắc xã hội của các bộ tộc nguyên thuỷ là: - Thể hiện ý chí, phù hợp với lợi ích của toàn thị tộc, bộ lạc và không thể hiện thành văn. - Điều chỉnh cách sử sự của những người liên kết với nhau theo 2 tinh thần hợp tác cộng đồng. - Được thực hiện một cách tự nguyện và theo thói quen của mỗi thành viên trong thị tộc, bộ lạc. - Những quy tắc đó nó biểu hiện ý chí và lợi ích chung của mọi thành viên trong bộ tộc, được mọi người tự giác tuân theo và trở thành thói quen của con người trong xã hội. Ai không tuân theo, người đó bị cả xã hội lên án, thậm chí bị đuổi khỏi bộ tộc. Chính nhờ những quy tắc, tập quán này mà trật tự xã hội được duy trì cho đến khi nó không còn phù hợp nữa. - Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, cùng với sự phân công lao động xã hội phát triển, chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia thành giai cấp, mâu thuẫn giai cấp phát triển không thể điều hoà được, thì Nhà nước xuất hiện. Lúc này các quy tắc tập quán thể hiện ý chí chung toàn xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không còn phù hợp nữa. - Trong điều kiện đó, tầng lớp có của, lợi dụng địa vị xã hội của mình đã tìm cách giữ lại những tập quán có lợi, vận dụng và biến đổi nội dung của tập quán phù hợp với ý chí, nguyện vọng của giai cấp thống trị. Bằng sự thừa nhận của Nhà nước, những tập quán đó trở thành quy phạm pháp luật. Đúng 3 như Ăngghen nhận xét “Quy tắc đó thoạt tiên là thói quen, sau thành pháp luật”. - Mặt khác cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của sự phân công lao động và người lao động ngày càng tăng, trong xã hội xuất hiện nhiều quan hệ mới, phát sinh đòi hỏi Nhà nước phải có những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. - Như vậy, pháp luật cũng + Ví dụ: như Nhà nước là sản phẩm của quá - Bộ luật Hămmuarapi (thế kỷ XVIII trình phát triển kinh tế – xã hội, là trước công nguyên của Babilon). những hiện tượng lịch sử xã hội, - Do ra công (năm 621 trước công chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển nguyên) – Hy lạp. trong điều kiện xã hội có giai cấp - 12 bảng của Lamã (thế kỷ V trước và đấu tranh giai cấp. Pháp luật ra công nguyên). đời cùng với Nhà nước, không - Manu (Ấn Độ, thế kỷ I trước công tách rời Nhà nước, duy trì địa vị và nguyên). bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị. Nhà nước và pháp luật là một trong những hệ thống của kiến trúc thượng tầng, do phương thức sản xuất của xã hội quyết định. Mỗi một hình thái kinh tế – xã hội có một kiểu Nhà nước và một kiểu pháp luật tương ứng. Ví dụ: Pháp luật chủ nô; pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản, pháp luật xã hội chủ nghĩa. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là kiểu pháp luật mới ra đời sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi và là kiểu 4 pháp luật cuối cùng trong lịch sử. Biết được nguồn gốc ra đời của pháp luật. Vậy pháp luật là gì? 2. Khái niệm pháp luật. - Khái niệm: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. - Pháp luật là tổng thể các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành. Có nghĩa là nó khác với các quy tắc khác trong xã hội và nó có những thuộc tính riêng biệt mà các quy tắc khác không có. Ví dụ: - Có tính phổ biến (là khuôn mẫu dùng chung cho nhiều người, được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống). - Rõ ràng về nội dung ai cũng phải tuân theo một khuôn mẫu thống nhất, không thể hiểu sai lệch để xử sự theo một cách khác. Về hình thức: chặt chẽ về câu chữ, văn phạm chính xác, một nghĩa. Ví dụ: Văn bản pháp luật có tên gọi được quy định chặt chẽ như: Hiến pháp, Bộ luật, Pháp lệnh, Nghị định,v.v… - Có tính bắt buộc chung. Việc tuân theo pháp luật không theo ý muốn chủ quan của mỗi người, bất kỳ ai cũng phải tuân theo 5 các quy tắc đó của pháp luật. Nếu ai không tuân theo thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà Nhà nước áp dụng các biện pháp tác dụng phù hợp để bảo bảo đảm thực hiện đúng các quy tắc ấy. II. Bản chất của pháp luật. 1. Bản chất chung của các kiểu pháp luật. Từ khái niệm nêu trên về pháp luật cho ta thấy rằng pháp luật có bản chất riêng của nó. Nhưng cũng giống như Nhà nước, bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp và tính xã hội. - Tính giai cấp của pháp luật. + Pháp luật phản ánh ý chí của Nhà nước, của giai cấp thống trị. - Giai cấp nào nắm quyền lực Nhà nước thì trước hết ý chí của giai cấp đó được phản ánh trong pháp luật. Do vậy mà khi nghiên cứu về pháp luật tư sản, Mác - Ăngghen đã đưa ra kết luận trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là: “Pháp luật của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành pháp luật, cái ý chí của nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. - Nhờ nắm trong tay quyền lực Nhà nước mà giai cấp thống trị đã thông qua Nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất thành ý chí Nhà 6 nước. Và nó được cụ thể hoá thành các văn bản pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện. + Mặt khác, tính giai cấp của pháp luật còn biểu hiện ở mục đích điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội. Mục đích của pháp luật là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội theo một trật tự phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước, tạo ra một xã hội trật tự, ổn định với ý nghĩa này thì: - Pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Như vậy, bản chất giai cấp luôn là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào, nhưng mỗi kiểu pháp luật có một cách thể hiện riêng. Ví dụ: - Trong chế độ nô lệ, phong kiến: Pháp luật quy định đặc quyền, đặc lợi cho tầng lớp chủ nô và phong kiến, phủ nhận hoàn toàn quyền con người đối với nô lệ và hạn chế đến mức tối đa quyền lợi của người nông dân trong xã hội phong kiến. - Pháp luật tư sản ra đời có tiến bộ hơn so với những kiểu pháp luật khác nhưng nó vẫn bị hạn chế bởi tính giai cấp của nó: Pháp luật bảo vệ quyền chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quyền tự do bán sức lao 7 động  nó cũng chưa bình đẳng và đảm bảo công lý cho mọi người trong xã hội. - Pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật kiểu mới, thể hiện ý chí giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nó điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và mục đích, là đem lại lợi ích cho số đông người lao động, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là kiểu pháp luật tiên tiến nhất và là kiểu pháp luật cuối cùng trong lịch sử. - Tính xã hội của pháp luật. Thật vậy, từ xa xưa con người đã biết điều chỉnh các mối quan hệ của mình một cách có ý thứ. Khi thiết lập các quy phạm pháp luật con người đã loại bỏ dần tính tự phát trong xã hội và chú ý đến các yếu tố xã hội như: kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh, quốc phòng. - Điều đó chứng tỏ giá trị xã hội của pháp luật nhằm chống lại tình trạng lộn xộn và tự phát trong xã hội. - Mặt khác: - Pháp luật là do Nhà nước đại diện chứng thức cho toàn xã hội ban hành. Vì vậy: ở chừng mực nào đó, pháp luật còn thể hiện ý chí của các giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội. 8 Hai thuộc tính này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo một thể thống nhất, không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất là tính giai cấp và ngược lại cũng không có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.  Tóm lại: Xét về bản chất, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội. Sau khi cách mạng thành công, giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản cần phải đổi mới nhanh chóng xoá bỏ hệ thống pháp luật cũ, xây dựng hệ thống pháp luật mới  nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội mới, trấn áp các phần tử phản cách mạng, giáo dục và vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng xã hội mới.  Pháp luật xã hội chủ nghĩa ra đời, vậy pháp luật xã hội chủ nghĩa là gì? 2. Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa. a. Khái niệm: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống những quy tắc xử sự chung do Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động 9 khác dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy Nhà nước và phương thức tác động của Nhà nước trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của Nhà nước nhằm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. - Pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật kiểu mới. Xét ở góc độ chung, nó có bản chất vừa thể hiện tính giai cấp, vừa thể hiện tính xã hội và có những đặc trưng cơ bản của pháp luật nói chung. - Tuy nhiên dựa trên cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của chủ nghĩa xã hội thì pháp luật xã hội chủ nghĩa có những đặc thù riêng, có nghĩa là nó có những đặc điểm riêng được thể hiện ở bản chất của nó  vậy pháp luật xã hội chủ nghĩa có bản chất như thế nào? Ta sẽ đi tìm hiểu bản chất của nó. b. Bản chất. - Pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân. - Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là ý chí của số đông, chiếm đại đa số trong xã hội, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Có thể 10 nói rằng đây là nét khác nhau căn bản so với pháp luật khác, các pháp luật trước pháp luật xã hội chủ nghĩa đều có chung bản chất là thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp bóc lột, là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp đó. - Mặt khác, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mang bản chất giai cấp công nhân, nên pháp luật cũng đương nhiên mang bản chất của giai cấp công nhân. - Pháp luật xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, tính dân tộc. - Đồng thời, cũng như Nhà nước, pháp luật không chỉ có tính giai cấp mà nó còn có tính nhân dân, tính dân tộc. Đặc điểm này là do bản chất của Nhà nước và mục tiêu xã hội chủ nghĩa quyết định. Mục tiêu của ta là xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Mục tiêu đó không chỉ là nguyện vọng của mỗi giai cấp công nhân, mà còn là nguyện vọng của toàn thể nhân dân lao động và cả dân tộc. Đó là hiện thực, bởi vì trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc về cơ bản là thống nhất. Cho nên sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không chỉ là sự lựa chọn của giai cấp công nhân, mà còn là sự 11 lựa chọn của toàn thể nhân dân lao động Việt Nam. - Pháp luật xã hội chủ nghĩa mang tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa. - Bất kỳ pháp luật nào cũng có tính cưỡng chế – tức là tính bắt buộc đối với người thực hiện. - Tuy nhiên, pháp luật xã hội chủ nghĩa có bản chất nhân đạo sâu sắc. Điều này được thể hiện ở việc một mặt pháp luật xã hội chủ nghĩa nghiêm khắc ngăn chặn, đấu tranh chống lại mọi hành vi vi phạm pháp luật, mặt khác lại rất khoan hồng đối với những người tội phạm khi họ biết hối cải, trở thành công dân lương thiện. Ví dụ: Cứ đến ngày Quốc khánh (2/9) người nào cải tạo tốt, biết hối cải thì được Chủ tịch nước ân xá cho ra tù trước thời hạn. Thậm chí có người còn được tạo công ăn việc làm, trở thành công dân lương thiện và cơ sở ích. Vậy tạo sao lại có tính nhân đạo? - Đây là hệ thống pháp luật tiến bộ nhất trong lịch sử. - Nó kế thừa những giá trị văn minh của nhân loại. - Mặt khác nó xuất phát từ bản chất giai cấp công nhân, từ mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội tốt đẹp, văn minh. 12 Tóm lại, việc nghiên cứu bản chất của pháp luật nói chung và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ và bình diện khác nhau. Tuy nhiên, bản chất chung nhất của pháp luật bao giờ cũng thể hiện tính giai cấp và tính xã hội. Đây là hai thuộc tính có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mức độ thể hiện của hai thuộc tính này trong pháp luật rất khác nhau và hay biến đổi tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối… trong mỗi nước, ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Để hiểu rõ hơn bản chất của pháp luật, chúng ta sẽ đi nghiên cứu nó trong mối quan hệ của các hiện tượng xã hội khác. III. Các mối quan hệ của pháp luật. 1. Pháp luật và kinh tế. - Kinh tế là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật và pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển của kinh tế. - Xét ở góc độ kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng thì pháp luật là yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội. Nó ra đời trên cơ sở hạ tầng và được quy định bởi cơ sở hạ tầng. - Xét ở góc độ nội dung-hình thức thì pháp luật là hình thức, nó phản ánh nội dung là kinh tế. - Khi các quan hệ kinh tế – xã hội phát 13 triển thì cần phải điều chỉnh các quan hệ đó. Do vậy mà mối quan hệ pháp luật phải dựa trên một quan hệ kinh tế – xã hội, hoặc mô hình, điển hình hoá quan hệ đó. Cho nên sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế được biểu hiện ở các mặt sau: + Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của hệ thống pháp luật. - Ví dụ:Khi phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì phải có đa dạng pháp luật kinh tế như: Luật đầu tư, luật doanh nghiệp… + Tính chất của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định tính chất của các quan hệ pháp luật, mức độ và phương pháp điều chỉnh pháp luật. Ví dụ: Nước ta phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa  Luật kinh tế phải bảo vệ việc tự do sản xuất kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, không trái pháp luật… + Các tổ chức và thiết chế pháp lý chịu ảnh hưởng quyết định từ chế độ kinh tế. Ví dụ: Trước kia ta có trọng tài kinh tế  nay đổi thành Toà án kinh tế. - Mặc dù ra đời từ các điều 14 kiện và tiền đề kinh tế nhưng pháp luật có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với kinh tế. Điều đó được thể hiện cụ thể ở các mặt sau: + Pháp luật được xây dựng đúng, phù hợp thì thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ví dụ: Khoán đất, khoán rừng cho các hộ nông dân  họ quản lý, sản xuất tích cực, có hiệu quả hơn. + Pháp luật xây dựng không phù hợp với các quy luật kinh tế thì kìm hãm sự phát triển nền kinh tế. Ví dụ: Kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp trước kia, kìm hãm sự phát triển.  Như vậy: sự tác động của pháp luật lên kinh tế phụ thuộc không nhỏ vào chủ thể xây dựng pháp luật. Có nghĩa là các cơ quan lập pháp khi xây dựng hệ thống pháp luật phải xuất phát từ cơ sở kinh tế, lấy mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội làm trọng tâm và không dựa vào ý chí chủ quan của giai cấp nào. Khi áp dụng vào thực tiễn phải luôn kiểm nghiệm, rút ra những mặt ưu điểm, những mặt sai sót để kịp thời sửa chữa, điều chỉnh cho phù hợp với đời sống kinh tế – xã hội. 2. Pháp luật với chính trị. 15 - Lênin từng nói: Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế – chính trị là kinh tế cô đọng lại. - Cho nên pháp luật phản ánh kinh tế thị trường nhiều nó sẽ phản ánh chính trị, cụ thể là ở đường lối, chính sách được thể chế thành pháp luật. - Bất kỳ giai cấp thống trị nào muốn cho đường lối chính trị đi vào đời sống đều phải thông qua Nhà nước, thể chế hoá đường lối chính trị của giai cấp mình thành pháp luật. Nên pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. - mặt khác, mối liên hệ giữa pháp luật và chính trị còn thể hiện tập trung giữa đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. - Đảng chỉ đạo việc xây dựng, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, còn pháp luật thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng thành ý chí chung và ý chí của Nhà nước. - Ngoài ra, chính trị còn thể hiện mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. - Cho nên mọi pháp luật phản ảnh và điều chỉnh các mối quan hệ đó. Như vậy, chính trị luôn có mối quan hệ đối với pháp luật, pháp luật không bao giờ đối 16 lập với chính trị. Và ngược lại chính trị chỉ có thể phát huy được quyền lực, chính trị của mình thông qua pháp luật. Khi pháp luật được hình thành thì mọi hoạt động chính trị lại phải nằm trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. 3. Pháp luật và Nhà nước. - Pháp luật và Nhà nước là hai bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có cùng nguyên tắc, cùng phát triển, có mối quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau. - Có nghĩa là Nhà nước không thể thiếu pháp luật và pháp luật cũng không thể thiếu Nhà nước. Bởi vì: - Nhà nước chỉ phát huy được quyền lực khi dựa trên cơ sở của pháp luật, đồng thời pháp luật chỉ tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên quyền lực Nhà nước. Ở đây chúng ta cũng có thể hiểu rằng mối quan hệ này nó xuất phát từ đặc điểm của pháp luật là quy tắc xử sự chung cho tất cả mọi người và những quy tắc đó được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế của Nhà nước. - Nhà nước nước ban hành ra pháp luật, còn pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước, (ban lực lượng nắm quyền lực Nhà nước) - Nhưng chúng ta cũng phải nhận thức rõ khi nghiên cứu mối quan hệ này, mặc dù pháp luật là do Nhà nước ban hành, xây 17 dựng nhưng khi xây dựng và ban bố. Nhà nước nước không được chủ quan, duy ý chí mà phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của điều kiện kinh tế – xã hội. Khi đã ban hành rồi thì Nhà nước và các cơ quan của nó đều phải tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. Mặt khác khi tiến hành tổ chức thực hiện pháp luật mà thấy không phù hợp thì Nhà nước phải kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc là huỷ bỏ để ban hành ra những quy phạm pháp luật mới. 4. Pháp luật và các quy phạm xã hội khác. Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, con người đã dùng nhiều quy phạm xã hội để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ngay từ thời nguyên thuỷ, con người đã sống thành bầy, đàn và để thống nhất hành động trong bầy đàn đó, họ đã sử dụng những quy tắc, những quy phạm mà lúc đầu chỉ là những quy ước với nhau, lâu dần trở thành quy phạm được mọi người tự giác tuân theo như tập quán đạo đức… Đến khi Nhà nước xuất hiện thì có quy phạm pháp luật. - Như vậy, quy phạm pháp luật chỉ là một trong nhiều loại quy phạm xã hội được dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội. 18 + Quy phạm pháp luật chỉ tồn tại duy nhất và phát triển trong xã hội có giai cấp luôn gắn liền với Nhà nước. + Không được tuyệt đối hoá vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, và không được xem nhẹ các yếu tố quy phạm xã hội khác. Có nghĩa là phải đánh giá đóng vai trò của nó, đồng thời phải biết kết hợp với các quy phạm xã hội khác để điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách có hiệu quả. Vì vậy, phải biết tìm kiếm, khai thác những nhân tố hợp lý của các quy phạm xã hội nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để quản lý xã hội một cách có hiệu quả. IV. Vai trò của pháp luật. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thể không khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật đối với quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Ở Việt Nam, trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ rằng: nhiệm vụ ban hành hiến pháp là nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước lúc bấy giờ. Người cho rằng, thiếu luật pháp, chính phủ không thể điều hành được đất nước. 19 Điều 12 Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng quy định rằng: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Vậy vai trò của pháp luật được thể hiện ở những khía cạnh nào? Vai trò đầu tiên chúng ta cần tiếp cận đó là: 1. Vai trò của pháp luật đối với kinh tế. - Chúng ta biết rằng, chức năng của Nhà nước là quản lý kinh tế, vì Nhà nước không thể can thiệp trực tiếp vào việc sản xuất kinh doanh mà chỉ quản lý kinh tế vĩ mô. Câu hỏi đặt ra ở đây là nếu không có pháp luật thì Nhà nước có quản lý được không? + Nếu không có pháp luật Nhà nước không có cơ sở pháp lý nào để quản lý kinh tế. Ví dụ: như người dân cứ tự do sản xuất kinh doanh những mặt hàng không đủ chất lượng, buôn bán ma tuý.., + Khi có pháp luật, Nhà nước sẽ đặt ra những quy định thể hiện trong kinh tế để quản lý kinh tế, cho phép người dân được kinh doanh những mặt hàng nào và những hoạt động kinh tế nào bị cấm. Cho nên chúng ta có thể khẳng định 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan