Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Bài tiểu luận môn luật kinh tế...

Tài liệu Bài tiểu luận môn luật kinh tế

.PDF
24
5404
101

Mô tả:

BÀI TIỂU LUẬN môn luật kinh tế
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT KINH TẾ Đề tài: “Công ty cổ phần và quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam” GVHD : Th.S Dương Mỹ An Nhóm SV : Nguyễn Tấn Đương Nguyễn Thị Diễm Hương Nguyễn Thị Thanh Loan Lê Đình Toàn Tháng 5 năm 2011 1 PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN 1. Lịch sử hình thành của công ty cổ phần 1.1. Lịch sử hình thành của công ty cổ phần trên thế giới Ở các nước khác nhau, công ty cổ phần có thể có những tên gọi khác nhau. Ở Pháp là công ty vô danh (anonymous Company), ở Anh là công ty với trách nhiệm hữu hạn (Company LTD), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh doanh (Commercial Coporation), và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ phần (Kabushiki Kaisha)… Các giai đoạn hình thành công ty cổ phần: - Giai đoạn mầm móng: góp vồn theo nhóm bạn – hoạt động liên kết lỏng lẻo. - Giai đoạn hình thành: bắt đầu phát hành cổ phiếu, bước đầu xuất hiện giao dịch chứng khoán, hoạt động có tổ chức hơn. - Giai đoạn phát triển: công ty cổ phần trở nên phổ biến ở các nước công nghiệp. Xuất hiện các hình thức đa quốc gia, các trung tâm giao dịch chứng khoán lớn. - Giai đoạn trưởng thành: hình thức công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia; thu hút công nhân mua cổ phiếu; cơ cấu công ty cổ phần hoàn thiện, pháp luật hoàn thiện. Quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế kỷ 18, 19 cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã làm xuất hiện loại hình công ty cổ phần. Sự phát triển mạnh mẽ của Chủ nghĩa Tư bản đòi hỏi sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng to lớn, cạnh tranh và độc quyền có mức độ ngày càng gay gắt. Các chủ tư bản đi đến thoả hiệp với nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành trướng hơn nữa thế lực kinh tế của mình. Công ty cổ phần là hình thức kinh doanh thoả mãn được những nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập trung tư bản, nhu nhận định của Các Mác “Qua các công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt” Về mặt lịch sử hình thành, công ty cổ phần ra đời sau các loại công ty đối nhân nhưng là hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn. Khác với sự ra đời của hình thức công ty TNHH – là sản phẩm của các nhà lập pháp xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, công ty cổ phần được hình thành trong hoạt động kinh doanh và do nhu 2 cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được pháp luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một chế định pháp lý. Chẳng hạn như ở Anh, Luật công ty được ban hành lần đầu tiên năm 1844 nhưng trước đó hơn 100 năm đã có sự xuất hiện của các công ty cổ phần. Và đến năm 1856, ở Anh mới có Luật về công ty cổ phần. Công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông Ấn (East India Company) của Anh (1600-1874). Nó được thành lập ngày 31/10/1860 abởi một nhóm có 218 người, và được cấp phép độc quyền kinh doanh trong vòng 15 năm ở vùng Đông Ấn, các quốc gia và hải cảng ở châu Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả các hải cảng của các đảo, thị trấn và địa điểm ở châu Á, châu Phi và Mỹ hay bất kỳ địa điểm nào như thế nằm ngoài Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) và Eo biển Magellan. Ngày 01/6/1874, Công ty bị giải thể khi giấy phép lần sau cùng không được gia hạn. Công ty đầu tiên này hoạt động hết sức lỏng lẻo: “Người đầu tư góp vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi chuyến đi biển nhận lại vốn cổ phần và tiền lãi”. Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các công ty cổ phần theo hình thức tương tự công ty Đông Ấn của Anh, rồi lần lượt CTCP xuất hiện ở Thụy Điển, Đan Mạch, Đức… Ở Mỹ, công ty cổ phần phát triển rất mạnh. Lúc đầu là vì phải xây dựng đường xe lửa, sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn lãnh thổ rộng lớn của Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty làm đường xe lửa mà thị trường chứng khoán ở NewYork phát triển. Năm 1811, bang NewYork ban bố luật về tính trách nhiệm hữu hạn dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về NewYork và tính hữu hạn kia trở thành phổ biến vì bang nào không dùng đến nó là không thu hút được vốn. Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, CTCP bắt đầu phát triển ở nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các ngành chế tạo cơ khí, ngân hàng, bảo hiểm…ở các nước tư bản phát triển và về sau phát triển rộng rãi ở các nơi khác trên thế giới. Đến những năm 20, 30 của thế kỷ XIX, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật, nền kinh tế thế giới có bước phát triển mạnh mẽ, điều đó dẫn đến nhu cầu phải tập trung những nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sơ hạ tầng kinh tế - xã hội. Công ty cổ phần là một trong những công cụ giúp thực hiện nhanh chóng vấn đề tập trung vốn. Vì vậy, có ý kiến bình luận rằng “Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho số 3 tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt”. Sự ra đời của công ty cổ phần đã giúp cho các nhà doanh nghiệp giải quyết được mâu thuẫn về tiền vốn một cách sáng tạo. Tóm lại, trải qua quá trình phát triển lâu dài, công ty cổ phần đã từ phạm vi ở một nước, một khu vực nhất định đã phát triển thành những công ty đa quốc gia, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng như nhận định: “Công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một quôc gia đến nhiều quốc gia thông qua các công ty đa quốc gia” Ở Mỹ, năm 1989, số lượng các công ty cổ phần chiếm 31,7% trong tổng số các xí nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp. Ngày nay, công ty cổ phần đã chiếm vị trí thống lĩnh trong các ngành công nghiệp, dịch vụ công cộng và trong các ngành khác nhau của nền kinh tế Hoa Kỳ. Ở các nước phương tây, công ty cổ phần là mô hình phổ biến nhất cho các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ở Đức, vốn cơ bản trung bình của các công ty cổ phần năm 1980 là 43 triệu DM, trong khi đó vốn trung bình của một công ty TNHH chỉ là 0,38 triệu DM. Trong 100 công ty lớn nhất của Đức năm 1980 có tới 66 công ty cổ phần. Ở Pháp, vào năm 1986, có tới 123.303 công ty cổ phần, chiếm tới 15,22% tổng số các doanh nghiệp. 1.2. Lịch sử hình thành của công ty cổ phần ở Việt Nam Trong lịch sử hình thành và phát triển có hai phương pháp để thành lập công ty cổ phần đó là thành lập mới các công ty cổ phần và cổ phàn hóa các doanh nghiệp nhà nước đã có. Do nền kinh tế Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt so với các nước khác trên thế giới nên việc thành lập mới các công ty cổ phần không được chú trọng phát triển. Chính việc cải cách DNNN bằng cách cổ phần hóa là con đường khả thi và có hiệu quả nhất được Đảng và Nhà nước ta quán triệt nên chúng ta chỉ tập trung đi sâu vào việc hình thành công ty cổ phần bằng cách cổ phần hóa DNNN. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo ba phương thức: thứ nhất, giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu theo quy 4 định nhằm thu hút cổ đông; thứ hai, bán một phần doanh nghiệp hiện có của doanh nghiệp; thứ ba, tách một bộ phận doanh nghiệp đã đủ điều kiện cổ phần hóa. Quá tình cổ phần hóa ở nước ta trải qua 3 giai đoạn:  Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995).  Giai đoạn mở rộng (5/1996 - 6/1998).  Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hóa (từ 6/1998). 2. Khái niệm công ty cổ phần Công ty cổ phần là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được thành lập và tồn tại độc lập đối với những chủ thể sở hữu nó. Vốn của công ty được chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành huy động vốn tham gia của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế trên cơ sở tư nguyện để tiến hành các hoạt động sản suất nhằm thu lợi nhuận. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: - Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; các cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp một phần hay toàn bộ phần vốn góp gọi là cổ đông. - Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; - Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết; 5 - Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc). Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban kiểm soát. 3. Nguyên tắc cơ cấu của công ty cổ phần Công ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh nghiệp hình thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông. Trong công ty cổ phần, số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Chỉ có công ty cổ phần mới được phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một bằng chứng xác nhận quyền sở hữu của một cổ đông đối với một Công ty Cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Công ty cổ phần là một trong loại hình công ty căn bản tồn tại trên thị trường và nhất là để niêm yết trên thị trường chứng khoán. Bộ máy các công ty cổ phần được cơ cấu theo luật pháp và điều lệ công ty với nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch và hoạt động có hiệu quả. Công ty Cổ phần phải có Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng Quản trị và Ban Điều hành. Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban Kiểm soát. 4. Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần Khái niệm công ty cổ phần được xem đồng nghĩa với công ty đại chúng bởi cấu trúc, mục tiêu và tính chất của nó. Quy định trong một số bộ luật, trong đó có Luật Việt Nam ghi rõ công ty cổ phần cần có tối thiểu 3 cổ đông, bất kể đó là pháp nhân hay thể nhân Tuy nhiên, các quy định đối với một công ty niêm yết thường yêu cầu công ty phải có số cổ đông lớn hơn nhiều. Các quy định cụ thể của cả 6 sàn chứng khoán Hoa Kỳ đều cho thấy điều này, từ các sàn sơ khai như Pink Sheet, OTCBB, NASDAQ, NYSE; trong 6 đó OTCBB yêu cầu công ty ít nhất có 40 cổ đông, còn NYSE lại yêu cầu công ty phải có ít nhất 2.000 cổ đông. Cơ quan tối cao của các công ty cổ phần là Đại hội đồng Cổ đông. Các cổ đông sẽ tiến hành bầu ra Hội đồng Quản trị với Chủ tịch Hội đồng Quản trị, các Phó Chủ tịch và thành viên (kiêm nhiệm và không kiêm nhiệm). Sau đó, Hội đồng quản trị sẽ tiến hành thuê, bổ nhiệm Giám đốc (Tổng giám đốc) và/hoặc Giám đốc điều hành. Hội đồng này cũng có thể tiến hành thuê, bổ nhiệm các Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) hoặc ủy quyền cho Ban Giám đốc (công ty) làm việc này. Quan hệ giữa Hội đồng Quản trị và Ban giám đốc là quan hệ quản trị công ty. Quan hệ giữa Ban giám đốc và cấp dưới, người lao động nói chung là quan hệ quản lý. Xung quanh vấn đề quan hệ giữa các chủ sở hữu là cổ đông của công ty và những người quản lý thông thường cần được tách bạch và kể cả các đại cổ đông cũng không nhất nhất là được hay có thể tham gia quản lý công ty. Để đảm bảo khách quan, nhiều công ty đã quy định chặt chẽ về điều này. 5. Ƣu và nhƣợc điểm của công ty cổ phần 5.1. Ưu điểm  Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong công ty;  Quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ việc huy động vốn cổ phần;  Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng, mua bán cổ phần;  Việc hoạt động của công ty đạt hiệu quả cao do tính độc lập giữa quản lý và sở hữu. 5.2. Nhược điểm  Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế mà công ty phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của luật pháp;  Chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp khá tốn kém; 7  Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính bị hạn chế do công ty phải công khai và báo cáo với các cổ đông;  Khả năng thay đổi phạm vi lĩnh vực kinh doanh cũng như trong hoạt động kinh doanh không linh hoạt do phải tuân thủ theo những qui định trong Điều lệ của công ty, ví dụ có trường hợp phải do Đại hội đồng Cổ đông của Công ty Cổ phần quyết định 6. Tính tất yếu khách quan của sự ra đời loại hình công ty cổ phần và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế thế giới 6.1. Tinh tất yếu: Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường. Do đó, việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP) và vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là tất yếu đối với quá trình phát triển mạnh của nền kinh tế thị trường.  Quá trình xã hội hóa tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày càng cao. Trong nền sản xuất hàng hóa quy luật giá trị tác động mạnh đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản. Điều này đã thúc đẩy họ phải nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, năng suất lao động…mà làm đươc điều đó chỉ có các nhà tư bản lớn mới đủ sức thực hiện. Vì thế các nhà tư bản vừa và nhỏ đã liên kết để mạnh hơn nhằm tiếp tục cạnh tranh và phát triển và thu lại lợi tức sau 1 thời gian nhất định.  Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần.  Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong kinh doanh và tạo thế mạnh quản lý. Khi công nghệ phát triển, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì rủi ro trong kinh doanh cũng ngày càng lớn. Để tránh rủi ro này, các nhà tư bản đã phân tán vốn của mình đầu tư ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau nhằm phân tán rủi ro và tập trung sức mạnh trí tuệ…  Sự phát triển của tín dụng tạo điều kiện thúc đẩy công ty cỏ phần ra đời và phát triển. Tóm lại, sự ra đời của công ty cổ phần là 1 tất yếu khách quan trong sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường và tập trung tư bản. 8 6.2. Vai trò: - Công ty cổ phẩn có khả năng huy độn vốn nhanh chóng với quy mô lớn để thực hiện các dự án khổng lồ mà không nhà đầu tư riêng biệt nào làm nổi. - Công ty cổ phẩn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn do sử dung nguồn vốn huy động bị sức ép chia lợi tức từ phía các cổ đông và khả năng sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi ở nhiều kênh khác nhau. - Công ty cổ phẩn tạo được 1 cơ chế riêng biệt nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực vào thị trường khi các doanh nghiệp này lâm vào khủng hoảng. - Công ty cổ phẩn vận động được sự tham gia đông đảo của dân chúng lại có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phân định rõ giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh, nó đã đem lại quyền lợi cho người lao động được quản lý thực sự công ty. - Công ty cổ phẩn là hình thức tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ ngoại quốc thông qua hình thức liên doanh. 9 PHẦN II. THỰC TRẠNG CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ TÌNH HÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trƣờng  Trong nền kinh tế thị trường, việc huy động vốn đưa vào SXKD thông qua thị trường chứng khoán là một kênh rất quan trọng. Mà muốn "gia nhập" thị trường chứng khoán thì chỉ có các doanh nghiệp cổ phần. Bạn thấy đấy giá trị giao dịch hàng ngày trên các sàn chứng khoán Việt Nam lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng/ngày; nhờ vậy, đã huy động được mọi nguồn vỗn trong xã hội đưa vào lưu thông, làm cho đồng tiền không "ngủ yên" mà luân chuyển không ngừng nghỉ. Tốc độ luân chuyển tiền tệ càng nhanh thì kinh tế càng phát triển mạnh.  Giờ đây, không chỉ có nhà doanh nghiệp mới kinh doanh; mà bất cứ ai khi đã mua cỏ phần, chứng khoán thì cũng đã trở thành người SXKD rồi.  So với các loại hình doanh nghiệp khác hiện nay ở nước ta, thì loại hình doanh nghiệp là công ty cổ phần (hình thức pháp lý liên kết các nhà đầu tư, các chủ thể kinh doanh cùng nhau hùn vốn để thành lập và tổ chức vận hành công ty theo những mục đích nhất định) có nhiều lợi thế hơn hẳn. Lợi thế hơn hẳn đó xuất phát từ những lợi ích và đặc điểm pháp lý mà pháp luật qui định và được thể hiện ở những khía cạnh sau: - Công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập. Pháp luật về công ty của các nước đều xác lập một cách cụ thể về các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công ty cổ phần với tư cách là một pháp nhân độc lập, có năng lực và tư cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập và tách biệt với các cổ đông trong công ty. Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng chính tài sản của mình; với tư cách chủ thể là pháp nhân thông qua người đại diện của mình theo qui định của pháp luật, công ty có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại tòa án. Khi công ty mua sắm các tài sản mới, thì tài sản đó thuộc sở hữu của công ty chứ không thuộc sở hữu của các cổ đông công ty vì lúc này công ty cổ phần là một pháp nhân, tách biệt hoàn toàn với các cổ đông. Trong trường hợp này, cổ đông không được xem tài sản mà công ty mới mua sắm là tài sản của cá nhân mình; mặc dù 10 trên thực tế cổ đông là chủ sở hữu một số quyền lợi có giá trị của công ty cổ phần như:quyền tham gia quản lý, điều hành công ty theo qui định, quyền được chia cổ tức, quyền được chia tài sản theo tỷ lệ cổ phần sở hữu khi công ty giải thể … Tuy nhiên, với tư cách là một pháp nhân, công ty có quyền sở hữu tài sản riêng còn các cổ đông chỉ được sở hữu cổ phần trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối với tài sản của công ty. - Các cổ đông trong công ty cổ phần chịu trách nhiệm hữu hạn. Khi một tổ chức hay cá nhân mua cổ phiếu của công ty cổ phần tức là họ đã chuyển dịch vốn của mình theo những phương thức nhất định vào công ty cổ phần và trở thành tài sản thuộc sở hữu của công ty cổ phần, nhưng cổ đông vẫn được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Với tư cách là một pháp nhân, công ty có năng lực pháp luật độc lập, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo qui định của pháp luật nên các quyền và nghĩa vụ của công ty hoàn toàn tách biệt khỏi các quyền và nghĩa vụ của cổ đông vì công ty là chủ thể của quyền sở hữu công ty. Vốn thuộc sở hữu công ty chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư vào công ty, nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu của mình. Xét về phương diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có quyền đối với tài sản của công ty cổ phần nên họ không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty cổ phần; công ty cổ phần chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả công ty cổ phần lẫn chủ nợ của công ty đều không có quyền kiện đòi tài sản của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ công ty do chưa đóng đủ tiền góp vốn hoặc chưa thanh toán đủ cho công ty cổ phần số tiền mua cổ phiếu phát hành. Đây là điểm khác nhau cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, đối với công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân (theo pháp luật Việt Nam) và đối với công ty đối nhân hay doanh nghiệp một chủ của hầu hết các nước thì các thành viên hợp danh (hay thành viên nhận vốn) và chủ doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm cá nhân vô hạn về các nghĩa vụ của công ty hay của doanh nghiệp bằng tài sản của mình, bất kể tài sản đó có liên quan đến hoạt động kinh doanh hay không. - Việc chuyển nhượng các phần vốn góp được thực hiện một cách tự do. Hầu hết pháp luật về công ty của các nước trên thế giới đều qui định và cho phép chuyển 11 nhượng một cách dễ dàng và tự do các loại cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành từ cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác với các loại công ty khác, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào công ty cổ phần được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu nên cổ phiếu được xem là hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ đông. Các cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành là hàng hóa nên các cổ đông khi sở hữu cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng; hơn thế nữa trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị các cổ phiếu mà họ sở hữu nên khi họ muốn rút lui khỏi công việc kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu của mình cho người khác thì họ thực hiện rất dễ dàng. Trong khi đó đối với công ty trách nhiệm hữu hạn theo qui định của pháp luật Việt Nam thì khi chuyển nhượng các phần vốn góp của mình, thành viên đó phải chuyển nhượng trước hết cho các thành viên còn lại trong công ty hoặc chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên công ty trong trường hợp các thành viên còn lại không mua hoặc không mua hết. Đó là lý do giải thích vì sao có rất nhiều người muốn đầu tư vào công ty cổ phần chứ không muốn đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác. Đây cũng là một trong những yếu tố cần thiết cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.  Công ty cổ phần có cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt: Công ty cổ phần không thể được thành lập và hoạt động nếu không có vốn. Vốn là yếu tố quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng như quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty được xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trưng là loại hình công ty đối vốn, quyền lực trong công ty cổ phần sẽ thuộc về những ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty. Trong quan hệ với bên ngoài, vốn của công ty cổ phần là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính của công ty. Tuy nhiên, khác với nhiều yếu tố khác, vốn trong công ty cổ phần là yếu tố năng động nhất. Các qui luật kinh tế thị trường chỉ ra rằng cùng với sự lưu thông hàng hóa là sự lưu thông tiền tệ, tức là sự chu chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển của công ty cổ phần tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui luật kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. Điều này đặt ra một đòi hỏi là con người phải 12 tạo ra cách thức góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn để có thể đáp ứng được sự vận động linh hoạt của vốn. Sự linh hoạt trong vận động của vốn vừa phải thích ứng với yêu cầu đòi hỏi đa dạng của nhà đầu tư, vừa không mất đi bản chất vốn có của công ty cổ phần. Điều đó có nghĩa là phải tạo cho bản thân công ty cổ phần khả năng chuyển dịch các phần vốn góp một cách dễ dàng song tư cách pháp nhân của công ty không vì sự chuyển nhượng đó mà bị thay đổi. Theo các qui định của Luật Doanh nghiệp thì công ty cổ phần ở Việt Nam có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau như: cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi (trong cổ phiếu ưu đãi có: cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phiếu ưu đãi khác…) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư cho kinh doanh của công ty. Ngoài ra, khi xây dựng giá trị các cổ phiếu của công ty thì các công ty thường xác lập mệnh giá của cổ phiếu thấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư dù cho khả năng tài chính không nhiều nhưng vẫn có khả năng tham gia đầu tư vốn vào công ty cổ phần.  Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về thời gian tồn tại. Với các loại hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh, sự tồn tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tư cách của chủ sở hữu doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh; bởi vì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết, sự rút lui hay sự khánh tận của chủ doanh nghiệp tư nhân hay của một trong các thành viên hợp danh của công ty. Nhưng đối với công ty cổ phần thì hoạt động kinh doanh của công ty hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với các cổ đông trong công ty; bởi vì công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập nên nếu có bất kỳ sự rút lui, sự phá sản hoặc thậm chí cái chết có xảy ra đối với các cổ đông thì công ty cổ phần vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mà hoàn toàn không hề bị ảnh hưởng gì. Đây chính là một ưu điểm bảo đảm cho việc kinh doanh của công ty diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác, các luật công ty hiện đại của một số nước đều không hạn chế thời gian tồn tại của công ty cổ phần trừ những trường hợp 13 như: công ty phá sản hoặc các cổ đông cùng thỏa thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều lệ công ty qui định. Chính sự ổn định trong kinh doanh và thời gian hoạt động lâu dài đã tạo cho các công ty cổ phần có được sự thu hút mạnh mẽ và được ưa chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác .  Công ty cổ phần có cơ chế quản lý tập trung cao. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, trong công ty cổ phần có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Đó là việc các cổ đông sẽ bầu ra Ban giám đốc và Ban giám đốc sẽ thay mặt các cổ đông quản lý công ty cổ phần. Như vậy, trong công ty cổ phần việc quản lý được tập trung hóa cao vào Ban giám đốc mà không dàn trải đều việc quản lý cho các cổ đông như đối với công ty hợp danh; bởi vì trong công ty hợp danh việc quản lý công ty được thực hiện bởi các thành viên hợp danh với tư cách là những người chịu trách nhiệm vô hạn hoặc liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của công ty nên họ được toàn quyền quản lý công ty và nhân danh công ty trong các hoạt động. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý còn được thể hiện ở việc luật công ty hiện đại của một số nước còn qui định cho phép giám đốc quản lý công ty có thể không phải là cổ đông của công ty. Giám đốc có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, là người điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Rõ ràng việc qui định như vậy một mặt thu hút được những người quản lý chuyên nghiệp được công ty thuê làm công tác quản lý, mặt khác tách biệt vai trò chủ sở hữu với chức năng quản lý đã tạo cho công ty cổ phần có được sự quản lý tập trung cao thông qua cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù hợp với điều kiện quản lý các doanh nghiệp có qui mô lớn. Khác với doanh nghiệp tư nhân là việc quản lý mang tính chất nội bộ gia đình, công ty cổ phần có một cơ chế quản lý hợp lý, minh bạch rõ ràng. Tóm lại: Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam khi chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội theo hướng khai thác các tiềm năng sẵn có về vốn, lao động, trình độ quản lý và các nguồn lực vật chất cần thiết khác cho nhu cầu đầu tư và phát triển của đất nước là một nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện thành công các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn 14 quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong tiến trình đẩy mạnh việc khai thác các nguồn lực quốc gia, chúng ta không thể không tính đến yếu tố nội lực. Nhìn lại các loại hình doanh nghiệp hiện nay mà pháp luật Việt Nam cho phép thành lập và hoạt động, tuy mỗi loại đều có những điểm mạnh nhất định đòi hỏi các nhà kinh doanh cần nắm bắt để khai thác và vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện và sở thích của mình; nhưng chúng ta không thể phủ nhận những lợi thế hơn hẳn của loại hình doanh nghiệp là công ty cổ phần so với các loại hình doanh nghiệp khác. Chính những ưu điểm vượt trội như thế, một mặt đã tạo nên lực hút rất lớn của xã hội đầu tư vào hình thức kinh doanh này, mặt khác cũng đòi hỏi nhà nước ta cần có chính sách tạo hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn cho các nhà đầu tư khi thành lập các công ty cổ phần để kinh doanh, nhất là việc hình thành một cơ chế quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam. 2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam Việt Nam với một nền kinh tế còn non kém chưa thoát ra sự yếu kém và nghèo nàn, một nền kinh tế chiếm đa số là nông nghiệp lạc hậu, hệ thống kinh tế Nhà nước chưa năng động, không tận dụng hết các nguồn lực tiềm năng vốn có. Thời gian chuyển đổi cơ cấu kinh tế chưa lâu còn mang nặng tính tập trung bao cấp nặng sức, phó thác cho Nhà nước. Người lao động chưa có tinh thần làm chủ vì thực chất tài sản đó không phải của họ và cũng chẳng phải là của ai mà toàn dân. Chuyển sang nền kinh tế, sự tiếp thu chậm chạp và bảo thủ đã hạn chế rất đáng kể khả năng pháp triển nền kinh tế. Nền kinh tế Nhà nước vẫn mang vai trò chủ đạo và được Nhà nước bảo hộ nhưng trong thực tế các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh không hiệu quả trong thị trường thậm chí Nhà nước phải bù lỗ, kiến thức kinh tế của các nhà quản lý này có thể là khiêm tốn cũng có thể là do sức ì cho Nhà nước giải quyết. Năm 2009, cả nước thực hiện, sắp xếp được 105 doanh nghiệp. Trong đó, cổ phần hóa 60 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp, đạt 8,4% kế hoạch giai đoạn 2009 2010. Có thể nhận thấy, tiến độ cổ phần hóa trong năm 2009 là rất chậm so với kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Quá trình cổ phần hóa diễn ra chậm là do khách quan. Khi kinh tế suy giảm, đem doanh nghiệp ra bán cũng không ai mua. Chính phủ vẫn quyết tâm đẩy nhanh quá trình 15 cổ phần hóa nhưng không có nghĩa làm bằng mọi giá, mà phải làm theo cách có hiệu quả nhất, đảm bảo phát huy được thị trường hóa cổ phần hóa. Có doanh nghiệp muốn cổ phần hóa để đổi mới chu trình quản trị quản lý nhưng vì chưa tìm được đối tác chiến lược, nên phải tạm dừng để tìm kiếm. Nhiều chủ trương sắp xếp đổi mới cũng thể hiện quyết tâm cổ phần hóa, cho phá sản những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và thua lỗ kéo dài, Nghị quyết của Quốc hội cũng thể hiện điều này. Chủ trương của Chính phủ là giữ một số tổng công ty lớn trong những lĩnh vực nhạy cảm, nhưng đồng thời vẫn hình thành những tập đoàn đa sở hữu. Chẳng hạn ngành xăng dầu, tiếp đến là những tập đoàn mà Nhà nước vẫn đang nắm giữ 100% vốn, trong điều kiện cho phép sẽ cổ phần hóa. Nhà nước là chủ sở hữu chỉ cần nắm tỷ lệ vốn nhất định đủ để chi phối chứ không cần 100%, trừ những lĩnh vực đặc biệt. Cổ phần hóa là giai đoạn thí điểm, vừa làm vừa hoàn thiện cơ chế nên vai trò quản lý Nhà nước là rất quan trọng, nếu không sẽ xảy ra tình trạng như các nước là người lao động bị đưa ra ngoài. Chúng ta làm rất thận trọng nên cơ chế thay đổi liên tục, thay đổi để phù hợp với thực tế, đảm bảo nâng cao hiệu quả, phát huy tính dân chủ của người lao động và huy động được các nguồn lực. Nhờ có vai trò Nhà nước, quá trình cổ phần hóa ở từng doanh nghiệp đã đảm bảo điều kiện người lao động được giải quyết tốt, không tạo sức ép về lao động đối với chương trình cổ phần hóa. Đây là những điểm đạt được. Mô hình doanh nghiệp lớn có đặc thù và có vấn đề lớn do đó cần có cơ chế xử lý riêng. Định hướng của Chính phủ chỉ đạo là sửa đổi cơ chế theo thực tế phát sinh. Điểm “vướng” nhất trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn là đổi mới toàn diện từ tư duy đến quản trị. Vừa rồi, Quốc hội đưa ra vấn đề bán cổ phần cho cổ đông chiến lược. Đây là vấn đề khó vì nhiều khi phải mời cổ đông chiến lược vào để họ giúp cho doanh nghiệp mình. Lúc ấy, giá không quan trọng và có thể bán với giá thỏa thuận thấp hơn giá thị trường. Cần có chủ trương quan điểm rõ thì doanh nghiệp mới dám làm. 16 Khó khăn nhất của doanh nghiệp là xử lý tài chính, xác định giá trị sở hữu đất đai, giá trị thương hiệu, mua bán cổ phần cho cổ đông chiến lược, giải quyết thu nhập với người lao động. Do đó, cần rà soát xem cơ chế vướng ở đâu. Kết quả khảo sát sơ bộ cho thấy vướng ở cơ chế bán, vấn đề tài chính. Cho đến nay, sau nhiều năm cổ phần hóa (CPH) mới có hơn 3.800 công ty nhà nước và bộ phận của công ty nhà nước chuyển sang công ty cổ phần, 300 công ty TNHH một thành viên nhà nước. Như vậy, thời gian còn lại để thực hiện không còn nhiều, trong khi còn khoảng 1.500 DN nhà nước phải sắp xếp, đây là một thử thách không dễ vượt qua. Nhiều bất cập trong quá trình ổ phần hóa: Theo Bộ Tài chính, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các doanh nghiệp chậm CPH. Nào là tồn tại về tài chính, do kinh doanh thua lỗ dẫn đến mất vốn nhà nước, nợ xấu ngân hàng, nhiều tài sản tồn đọng không xử lý… đã làm nhiều doanh nghiệp nhà nước không CPH được. Nhiều doanh nghiệp đã "ép" CPH do đánh giá tăng giá trị tài sản, chất lượng hoạt động, nên sau CPH tình hình sản xuất, kinh doanh không cải thiện. Thậm chí, không ít doanh nghiệp không thể quyết toán để bàn giao tài chính sang công ty cổ phần. Việc huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân bên ngoài còn hạn chế, nên vốn nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong vốn điều lệ các doanh nghiệp CPH (52%). Đã vậy, một tỷ lệ lớn doanh nghiệp sau CPH, ban quản lý, điều hành là những người quản lý của doanh nghiệp Nhà nước cũ, nên không đổi mới trong quản trị doanh nghiệp... Ngoài ra, một số quy định pháp luật về CPH chưa thật sát với thực tế, hoặc chậm hướng dẫn thi hành. Về các nội dung tính đủ giá trị đất, nhất là việc tính giá đất thuê vào giá trị doanh nghiệp, xác định lợi thế về địa lý, giá trị thương hiệu, lựa chọn cổ đông chiến lược, minh bạch các thông tin về CPH… làm chưa chuẩn nên đã kéo dài thời gian CPH, hoặc bị lợi dụng trong khi thực hiện. Bên cạnh đó, các quy định, khung pháp lý về CPH lại thay đổi liên tục khiến doanh nghiệp khó cập nhật. Chẳng hạn, từ năm 2002 đến nay quy định pháp luật về CPH được thay đổi 3 lần (Nghị định (NĐ) 64/2002/CP, NĐ 187/2004/CP và NĐ 109/2007/CP) và các thông tư hướng dẫn thường ban hành chậm, nên đã ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch CPH doanh nghiệp nhà nước... 17 Đẩy nhanh tiến độ, nhƣng phải bảo đảm chất lƣợng Để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả sau CPH, Nhà nước chỉ giữ 100% vốn tại các loại doanh nghiệp như doanh nghiệp quốc phòng, an ninh; DN công ích quan trọng; công ty mẹ của một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty hoạt động một trong những ngành, nghề liên quan đến an ninh quốc gia về kinh tế, quản lý, khai thác nguồn tài nguyên và khoáng sản quan trọng… Ngoài ra, Nhà nước cũng cần đổi mới chính sách đầu tư tạo lập tài sản và quyền sở hữu, quản lý tài sản phục vụ mục tiêu cung ứng sản phẩm và dịch vụ công ích theo hướng Nhà nước có trách nhiệm đầu tư tạo lập những tài sản cần đầu tư lớn, mà các doanh nghiệp không có khả năng đầu tư hoặc không muốn đầu tư (hệ thống đập hồ, kênh mương thủy lợi liên vùng, hệ thống cấp thoát nước đô thị lớn, thông tin tín hiệu hàng hải…) để giao hoặc tổ chức đấu thầu cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích. Được biết, địa vị pháp lý của các công ty cổ phần mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối chưa nhất quán. Khi cần kiểm soát, các cơ quan quản lý coi họ là doanh nghiệp nhà nước, khi xét hưởng ưu đãi của nhà nước (nếu có) họ lại bị coi là công ty cổ phần. Vì thế, nên thay đổi nhận thức không còn tồn tại doanh nghiệp nhà nước nữa, mà chỉ còn doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý nhà nước nên hạn chế việc can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính vào quá trình quản trị điều hành của doanh nghiệp. Thay vào đó, nên ban hành các quy định về người đại diện sở hữu vốn nhà nước và thực hiện quyền của Nhà nước với doanh nghiệp như một cổ đông bình đẳng với các cổ đông khác. Một số chuyên gia cho rằng, trong thời điểm hiện nay nếu CPH vội vàng có thể dẫn đến tình trạng "thôn tính" tài sản nhà nước. Vì thế, mục tiêu CPH nên được nhìn nhận một cách tổng thể và dài hạn hơn. CPH là việc cần phải làm để tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước nhằm đặt mục tiêu tăng hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, nhưng không CPH bằng mọi giá. Vấn đề hiện nay là đẩy nhanh tiến độ CPH các doanh nghiệp nhà nước, song phải bảo đảm chất lượng khi thực hiện CPH các doanh nghiệp này. 18 3. Thành công và những tồn tại của các công ty cổ phần ở Việt Nam trong thời gian qua 3.1. Những thành tựu: Trong thời gian qua việc xất hiện hình thái công ty cổ phần đã tạo nên sự thay đổi căn bản về hình thức quản lý, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa, mô hình này đã thu hút được nguồn vốn kinh doanh của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển doanh nghiệp. Tạo điều kiện nâng cao vai trò làm chủ thực sự của người nắm cổ phần, tạo điều kiện phát triển công ty. Ngoài ra đã giải quyết được vấn đề thất nghiệp khi các doanh nghiệp nhà nước cấu lại. các doanh nghiệp nhà nước không những không sa thải công nhân khi cổ phần hóa, ngược lại trên thực tế đã tuyển thêm nhiều lao động mới vì hiệu quả kinh tế tăng, thị trường mở rộng… Về phía nhà nước, cái lợi vừa mang tính chiến lược lại vừa cụ thể: ngân sách nhà nước bớt được các khoản chi bao cấp, số thu ngân sách nhà nước tăng do doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Mặt khác, thông qua mô hình của công ty cổ phần, nhà nước tạo ra được một cách quản lý mới có tính tập thể và hiệu quả cao. Thông qua hội đồng quản trị, từ nay người lao động cũng được tham gia vào quá trình quản lý và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2. Những hạn chế: Công ty cổ phần tuy có vai trò lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội nhưng nó cũng có những hạn chế: - Công ty cổ phần với chế độ trách nhiệm hữu hạn đã đem lại những lợi ích cho công ty, nhưng lại chuyển bớt rủi ro về phía chủ nợ. - Công ty cổ phần gồm đông đảo các cổ đông tham gia, nhưng đa số các cổ đông không biết nhau và nhiều người trong họ không am hiểu kinh doanh; sự tham gia góp vốn vào công ty khác nhau nên mức độ ảnh hưởng của các cổ đông đối với hoạt động của công ty cũng khác nhau. Điều đó dẫn đến việc lạm dụng và lợi dụng hoặc dẫn đến nảy sinh tranh chấp và phân hóa lợi ích giữa các cổ đông hoặc các nhóm cổ đông khác nhau. 19 - Công ty cổ phần mặc dù có cơ cấu tổ chặt chặt chẽ nhưng việc phân chia quyền lợi và chức năng của từng bộ phận đối với hoạt động của công ty lại rất phức tạp. - Công ty cổ phần là tổ chức có tính dân chủ cao trong kinh tế nhng nó phụ thuộc đáng kể vào việc góp vốn, khiến nhiều mặt còn bị hạn chế, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông ít cổ phần. - Tính công khai của công ty cổ phần là một ưu điểm đối với nhà nước và xã hội, nhưng nó là một hạn chế đối với những hoạt động kinh tế vốn có đặc tính “kín đáo”. Việc giảm bớt hạn chế của công ty cổ phần phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự hoàn hảo của pháp luật, tính hiệu quả và niềm tin của pháp luật, sự phát triển chung của nền kinh tế, trình độ phát triển cao của dân trí, và có một bộ máy nhà nước kỷ cương phép tắc. 4. Nguyên nhân những hạn chế trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc 4.1. Về phía khách quan: Chúng ta tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện những bước quá độ từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Trong điều kiện đó những điều kiện khách quan cho quá trình cô phần hóa còn nhiều bất cập đó là trình độ xã hội hóa chưa chín muồi, phân công lao động xã hội ở trình độ tương đối thấp, chất lượng và hiệu quả kinh doanh không cao. Hơn thế nữa, nền kinh tế thị trường mới hình thành chưa thể hiện được những ưu thế vốn có của nó để mang lại những điều kiện đầy đủ về kinh tế xã hội cho sự hình thành của hình thái công ty cổ phần. Mặt khác, do xuất phát từ nền sản xuất nhỏ lại nhiều năm vận hành trong cơ chế cũ nên trình độ độ kiến thức và tâm lý của ta còn bị ảnh hưởng nặng nể chưa thích ứng được với cơ chế mới. Những hạn chế này là lực cản không nhỏ đối với tiến trình cổ phần hóa. 4.2. Về phía chủ quan: Trong điều kiện khách quan như thế. để tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan song trong thời gian qua nhân tố này còn nhiều vướng mắc. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan