Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bài tiểu luận luật lao động đề tài lao động là người giúp việc gia đình...

Tài liệu Bài tiểu luận luật lao động đề tài lao động là người giúp việc gia đình

.PDF
32
255
61

Mô tả:

1.1.2.Đặ ể ủ ộ ườ ệ c đi m c a lao đ ng là ng i giúp vi c gia đình................................................5 1.2.N i dung ph ộ ậ ố ớ ộ ườ ệ áp lu t đ i v i lao đ ng là ng i giúp vi c gia đình..................................7 1.2.1.Khái ni m ph ệ ậ ố ớ ộ ườ ệ áp lu t đ i v i lao đ ng là ng i giúp vi c gia đình.........................8 1.2.2.Quy đị ủ ậ ề ộ ườ ệ nh c a pháp lu t v lao đ ng là ng i giúp vi c gia đình............................9 CH NG 2 ƯƠ .........................................................................................................................13 TH C TR NG PH Ự Ạ Ậ Ệ Ề Ộ ƯỜ Ệ ÁP LU T VI T NAM V LAO Đ NG LÀ NG I GIÚP VI C GIA ĐÌNH VÀ ĐỊ ƯỚ Ệ NH H NG HOÀN THI N.................................................................13 2.1. Th c tr ng v lao ự ạ ề ộ ườ ệ đ ng là ng i giúp vi c gia đình...................................................13 Ngh gi ề ệ ề ấ ề ầ ả ế úp vi c gia đình: Nhi u v n đ c n gi i quy t, laodongxanha.net, 2017...........13 Tình hình Lao độ ệ ng giúp vi c gia đình, gfcd.org.vn, 2015.................................................14 2.2. Quy đị ủ ậ ệ ề ộ ườ ệ nh c a pháp lu t Vi t nam v lao đ ng là ng i giúp vi c gia đình..............14 2.3. Ki n ngh v ế ị ề ị ướ ả ệ ậ đ nh h ng gi i pháp hoàn thi n pháp lu t .........................................27 Lao độ ệ ừ ộ ng giúp vi c gia đình ­ Nhìn t giác đ pháp lý, tcdcpl.moj.gov.vn.......................27 Đầ ạ ậ ộ ươ ậ ộ u tiên, là t i lu t lao đ ng Philippines. Ch ng 141 lu t lao đ ng Philippines đị ộ ệ ị ụ ệ nh nghĩa: lao đ ng giúp vi c gia đình hay d ch v giúp vi c gia đình là d ch v th c hi n t i nh ị ụ ự ệ ạ ủ ườ ầ ố ề à c a ng i thuê, theo nhu c u, mong mu n v vi c b o tr ệ ả ử ưở ụ ồ ả ệ ự ả ì nhà c a và h ng th , bao g m c vi c chăm nom cho s tho i mái c a c ủ ủ ườ ác thành viên trong gia đình c a ng i thuê1. Campuchia, Ở ề Đi u 4 B Lu t Lao ộ ậ ộ ị ườ ộ ệ ư đ ng đ nh nghĩa ng i lao đ ng giúp vi c gia đình nh sau: Ng i lao ườ ộ ệ ữ ườ ượ ể ệ đ ng giúp vi c là nh ng ng i đ c thuê đ làm các công vi c chăm sóc ch nh ủ ặ ả ủ ủ ể ổ ấ ườ à ho c tài s n c a ch nhà đ đ i l y thù lao. Nhóm ng i này bao g m ng i gi ồ ườ ệ ả ệ ế ườ ườ ề úp vi c, b o v , tài x , ng i làm v n và các ngh nghi p t ng t kh ệ ươ ự ễ ộ ủ ọ ể ệ ự ế ác mi n là có m t “ch nhà” thuê h đ làm vi c tr c ti p t i nh ạ ủ à c a mình2. Trong Pháp lu t Ph ậ ị ề ộ ệ ạ áp có đ nh nghĩa v lao đ ng giúp vi c gia đình t i Kho n 1 ả ề ộ ậ ộ ư Đi u L7221 B Lu t Lao Đ ng Pháp nh sau: “Lao độ ệ ng giúp vi c gia đình là m t ng i ộ ườ ượ ệ đ c thuê làm công vi c gia đình cho các cá nhân”. Không nh ng th ữ ế ể ơ ề ị ạ ề ỏ ướ đ làm rõ h n v đ nh nghĩa này thì t i Đi u 1 Th a c lao độ ố ả ộ ệ ư ả ấ ng qu c gia Pháp đã mô t lao đ ng giúp vi c gia đình nh sau: B n ch t đặ ệ ủ ề ệ ệ ạ ủ ườ ử ụ c bi t c a ngh nghi p này là làm vi c t i nhà riêng c a ng i s d ng lao độ ệ ộ ệ ể ệ ờ ng giúp vi c gia đình. Lao đ ng giúp vi c gia đình có th làm vi c toàn th i gian ho c b ặ ờ ự ệ ấ ả ặ ộ ầ ệ ẳ án th i gian, th c hi n t t c ho c m t ph n công vi c nhà ch ng h n li ạ ớ ệ ườ ử ụ ộ ệ ên quan t i v sinh… Ng i s d ng lao đ ng giúp vi c gia đình không thu đượ ợ ậ ệ c l i nhu n thông qua công vi c này. Qua tìm hi u ph ể ậ ố ề ộ ệ ể áp lu t các qu c gia v lao đ ng giúp vi c gia đình có th th y r ng thu t ng n ấ ằ ậ ữ ỉ ộ ệ ụ ể ấ ị ày không ch m t công vi c c th nh t đ nh mà nó là bao g m nhi u c ồ ề ệ ệ ông vi c khác nhau trong các công vi c gia đình. Nhìn chung ta có th th y hai ti ể ấ ể ế ọ ộ ệ êu chí đ xem xét th nào g i là lao đ ng giúp vi c gia đình nh sau: ư Th nh t, ứ ấ lao độ ệ ộ ượ ử ụ ể ng giúp vi c gia đình là lao đ ng đ c s d ng đ làm các công vi c trong gia ệ ấ ỡ ạ ộ ạ ủ đình mang tính ch t giúp đ các ho t đ ng sinh ho t c a gia đình. Đó là nh ng c ữ ệ ẳ ạ ư ấ ọ ẹ ệ ông vi c ch ng h n nh : n u ăn, d n d p v sinh nhà c a, gi t gi ử ặ ẻ ườ ũ, trông tr , chăm sóc ng i già,… Th hai, ứ Ng i s d ng lao ườ ử ụ ộ ộ ệ đ ng là lao đ ng giúp vi c gia đình không đượ ợ ậ ệ ể ể c phép thu l i nhu n thông qua công vi c này. Có th hi u tiêu chí này là ng i s d ng lao ườ ử ụ ộ ượ ử ụ ườ ộ đ ng không đ c phép s d ng ng i lao đ ng vào các công vi c li ệ ế ạ ộ ươ ạ ên quan đ n ho t đ ng th ng m i. Qua hai tiêu chí nêu trên có thể ị ộ ệ ư đ nh nghĩa lao đ ng giúp vi c gia đình nh sau: “ Lao độ ệ ộ ự ệ ệ ng giúp vi c gia đình là lao đ ng th c hi n các công vi c trong gia đình mang tính ch t gi ấ ỡ ạ ộ ạ ủ ườ úp đ ho t đ ng sinh ho t c a gia đình. Và ng i s d ng lao ử ụ ộ ượ ợ ậ ừ ệ đ ng không đ c phép thu l i nhu n t công vi c này”. 1.1.2. Đặ ể ủ ộ ườ ệ c đi m c a lao đ ng là ng i giúp vi c gia đình  Phân lo i lao ạ ộ ệ đ ng giúp vi c gia đình Chúng ta có th ph ể ạ ờ ệ ân lo i LĐGVGĐ theo th i gian làm vi c. Nhóm m t ộ , ng i L ườ ệ ứ ị ờ ĐGVGĐ làm vi c theo hình th c không xác đ nh th i gian. Trong lo i h ạ ộ ườ ộ ườ ở ớ ủ ình lao đ ng này, ng i lao đ ng th ng chung v i ch hộ ượ ủ ộ ở ượ ả ươ đ c ch h nuôi ăn, và đ c tr l ng theo tháng.
  TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA HÀNH CHÍNH – LUẬT ­­­­­­ oOo ­­­­­­ BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT LAO ĐỘNG ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH 2 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Ký hiệu Cụm từ đầy đủ BLLĐ Bộ Luật Lao Động LĐGVGĐ Lao Động Giúp Việc Gia Đình GFCD Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển  cộng đồng HĐLĐ Hợp Đồng Lao Động UBNĐ Ủy Ban Nhân Dân 3 MỤC LỤC  1.1.2.Đặc điểm của lao động là người giúp việc gia đình                                                    ................................................      5  1.2.Nội dung pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình                                      ..................................      7  1.2.1.Khái niệm pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình                             .........................      8  1.2.2.Quy định của pháp luật về lao động là người giúp việc gia đình                                ............................      9  CHƯƠNG 2                                                                                                                             .........................................................................................................................       13 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC   GIA ĐÌNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN                                                                     .................................................................       13  2.1.  Thực trạng về lao động là người giúp việc gia đình                                                       ...................................................       13   Nghề giúp việc gia đình: Nhiều vấn đề cần giải quyết, laodongxanha.net, 2017.              ..........       13   Tình hình Lao động giúp việc gia đình, gfcd.org.vn, 2015.                                                    ................................................       14  2.2.  Quy định của pháp luật Việt nam về lao động là người giúp việc gia đình                  ..............       14  2.3. Kiến nghị về định hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật                                              .........................................       27   Lao động giúp việc gia đình ­ Nhìn từ giác độ pháp lý, tcdcpl.moj.gov.vn.                          ......................       27 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH  TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. Khái quát về lao động là người giúp việc gia đình 1.1.1. Khái niệm về lao động là người giúp việc gia đình “Lao động giúp việc gia đình” đã từng tồn tại từ rất lâu ngay từ thời nô lệ  và phong kiến.  Ở xã hội đó, gần như các gia đình khá giả  trên lên đều có lao   4 động giúp việc gia đình thường được gọi là: nô lệ, gia nhân, gia nô, nô bộc, …   nhưng trong xã hội thời bấy giờ  thì đây không được xem là một nghề  họ  bị  hạn chế về quyền hoặc không có bất cứ quyền nào. Mà thậm chí họ chỉ được   xem như là một loại “tài sản”. Trong xã hội tư  bản, thì đây được xem là một  công việc. Còn hiện nay, khi mà nên kinh tế  ngày càng phát triển thì nhu cầu   về giúp việc trong các gia đình ngày càng tăng. Vì vậy lao động là người giúp  việc gia đình đã được trở  thành một nghề  và được pháp luật nhiều quốc gia   trên thế  giới ghi nhận như: Philippines, Pháp, Campuchia,… Trong mối quan   hệ lao động này, người lao động và người sử dụng lao động đều bình đẳng và   nguyên tắc của quan hệ này là thỏa thuận, bình đẳng, tôn trọng nhau giữa các  chủ  thể. Định nghĩa về  lao động là người giúp việc gia đình thì chưa có sự  thống nhất trên thế  giới, mà các quốc gia quy định khác nhau trong pháp luật   của nước mình. Đầu   tiên,   là   tại   luật   lao   động   Philippines.   Chương   141   luật   lao   động  Philippines định nghĩa: lao động giúp việc gia đình hay dịch vụ  giúp việc gia  đình là dịch vụ thực hiện tại nhà của người thuê, theo nhu cầu, mong muốn về  việc bảo trì nhà cửa và hưởng thụ, bao gồm cả việc chăm nom cho sự  thoải   mái của các thành viên trong gia đình của người thuê1.  Ở  Campuchia, Điều 4  Bộ  Luật Lao động định nghĩa người lao động giúp việc gia đình như  sau:  Người lao động giúp việc là những người được thuê để  làm các công việc  chăm sóc chủ  nhà hoặc tài sản của chủ  nhà để  đổi lấy thù lao. Nhóm người   này bao gồm người giúp việc, bảo vệ, tài xế, người làm vườn và các nghề  nghiệp tương tự khác miễn là có một “chủ nhà” thuê họ để làm việc trực tiếp  tại nhà của mình2. Trong Pháp luật Pháp có định nghĩa về  lao động giúp việc gia đình tại  Khoản 1 Điều L7221 Bộ Luật Lao Động Pháp như  sau: “ Lao động giúp việc   gia đình là một người được thuê làm công việc gia đình cho các cá nhân” .  Không những thế để làm rõ hơn về định nghĩa này thì tại Điều 1 Thỏa ước lao    Trần Linh Trang, Pháp luật về lao động giúp việc gia đình – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc  sĩ luật học, Hà Nội, 2015. 2  Trần Linh Trang, Pháp luật về lao động giúp việc gia đình – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc  sĩ luật học, Hà Nội, 2015. 1 5 động quốc gia Pháp đã mô tả  lao động giúp việc gia đình như  sau: Bản chất  đặc biệt của nghề nghiệp này là làm việc tại nhà riêng của người sử dụng lao   động giúp việc gia đình. Lao động giúp việc gia đình có thể làm việc toàn thời  gian hoặc bán thời gian, thực hiện tất cả hoặc một phần công việc nhà chẳng   hạn liên quan tới vệ sinh… Người sử dụng lao động giúp việc gia đình không   thu được lợi nhuận thông qua công việc này. Qua tìm hiểu pháp luật các quốc gia về lao động giúp việc gia đình có thể  thấy rằng thuật ngữ  này không chỉ  một công việc cụ  thể  nhất định mà nó là   bao gồm nhiều công việc khác nhau trong các công việc gia đình. Nhìn chung  ta có thể  thấy hai tiêu chí để  xem xét thế  nào gọi là lao động giúp việc gia  đình như sau: Thứ nhất, lao động giúp việc gia đình là lao động được sử dụng để làm các   công việc trong gia đình mang tính chất giúp đỡ  các hoạt động sinh hoạt của  gia đình. Đó là những công việc chẳng hạn như: nấu ăn, dọn dẹp vệ sinh nhà   cửa, giặt giũ, trông trẻ, chăm sóc người già,… Thứ  hai,  Người sử  dụng lao động là lao động giúp việc gia đình không  được phép thu lợi nhuận thông qua công việc này. Có thể hiểu tiêu chí này là   người sử  dụng lao động không được phép sử  dụng người lao động vào các   công việc liên quan đến hoạt động thương mại. Qua hai tiêu chí nêu trên có thể định nghĩa lao động giúp việc gia đình như  sau: “ Lao động giúp việc gia đình là lao động thực hiện các công việc trong   gia đình mang tính chất giúp đỡ  hoạt động sinh hoạt của gia đình. Và người   sử dụng lao động không được phép thu lợi nhuận từ công việc này”. 1.1.2. Đặc điểm của lao động là người giúp việc gia đình  Phân loại lao động giúp việc gia đình Chúng ta có thể phân loại LĐGVGĐ theo thời gian làm việc. Nhóm một, người LĐGVGĐ làm việc theo hình thức không xác định thời   gian. Trong loại hình lao động này, người lao động thường  ở  chung với chủ  hộ được chủ hộ nuôi ăn, ở và được trả lương theo tháng. 6 Nhóm hai, người  LĐGVGĐ làm việc theo hình thức xác định thời gian.   Người LĐGVGĐ còn có thể làm việc theo giờ thỏa thuận, điều đó có nghĩa là  họ không ở chung với chủ hộ. Công việc thực hiện được yêu cầu rõ ràng, trả  lương   theo   giờ   hoặc   theo   khối   lượng   công   việc.   Ở   hình   thức   này   người   LĐGVGĐ có thể thực hiện công việc cho nhiều hộ gia đình khác nhau.  Đặc điểm của lao động là người giúp việc gia đình Qua quan sát dưới nhiều góc độ khác nhau có thể thấy LĐGVGĐ có nhiều  đặc điểm để  phân biệt so với một số  loại lao động khác. Ví dụ  như  về  độ  tuổi, trình độ  học vấn, chuyên môn,… Có bốn đặc điểm chính sau đây về  LĐGVGĐ. Thứ nhất, về độ  tuổi LĐGVGĐ có tất cả các nhóm từ 15 đến 60 tuổi, tuy   nhiên tập trung chủ  yếu  ở  độ tuổi trung niên từ  40 trở  lên. Bởi lẽ   ở  độ  tuổi  này phần lớn họ  đã có con cái lớn và đến tuổi lao động do đó họ  điều kiện  thoát ly gia đình để đi làm xa, hơn nữa nhiều gia đình cũng thích thuê lao động  ở  độ  tuổi này vì họ  có thể   ở  lại với gia đình lâu hơn và có kinh nghiệm làm   việc gia đình cũng như  chăm sóc các thành viên trong gia đình tốt hơn. Bên  cạnh đó, có một bộ  phận là những người  ở  ngoài độ  tuổi lao động tham gia  vào thị trường lao động này nhưng thường không được “ưa chuộng” vì nhóm  người này thường có sức khỏe yếu, nắm bắt công việc chậm không làm được  công việc nặng nên nhiều hộ gia đình có tâm lí ngại thuê người già vì hay đau  ốm và bất tiện khi để người già chăm sóc gia đình. Và chỉ ít độ tuổi 16 ­18, sở  dĩ ở độ tuổi này ở nông thôn đa phần các em gái thường không còn đi học nên   khi gia đình khó khăn thì để  có thêm thu nhập thì các em tranh thủ  làm thêm  nghề giúp việc gia đình, đối tượng này có cơ  hội tham gia loại hình lao động   bởi dễ  bảo, học việc nhanh và có thể  chơi và trông em nhỏ, tuy nhiên nhóm  này thường trở  lại quê nhà lập gia đình hoặc có mong muốn tìm kiếm một  công việc khác khi đến 19­20 tuổi nên tâm lí nhiều gia đình không muốn thuê  đối tượng này vì tính ổn định thấp và dễ  phát sinh nhiều vấn đề  phức tạp vì  chưa đến tuổi trưởng thành như  trộm cắp, dễ  bị  kẻ  xấu lợi dụng, xúi giục,  quan hệ bất chính với chủ nhà,… Như vậy, nhóm lao động từ 40­55 là nguồn   tiềm năng cho nhu cầu LĐGVGĐ. 7 Thứ hai, về trình độ học vấn những thành phần tham gia vời mối quan hệ  lao động này thường là những người có trình độ  học vấn thấp. Quan niệm  xưa nay thường xem LĐGVGĐ được coi là công việc thấp hèn và thường chỉ  có những người sống  ở nông thôn và có trình độ  học vấn thấp mới làm công   việc này. Những quan niệm về  nghề  giúp việc gia đình chỉ  dành cho người   nông thôn, có trình độ  học vấn thấp và kỹ  năng giao tiếp hạn chế  là những   điểm khá đặc trưng của phần lớn người LĐGVGĐ. Hiện nay trong xã hội  cũng xuất hiện thêm một số  người LĐGVGĐ có trình độ  cao như  sinh viên  đại học đi làm LĐGVGĐ theo giờ tại các gia đình người nước ngoài tại Việt  Nam, tuy nhiên mới chỉ  có lượng ít nhưng có thể  thấy đây cũng là một công  việc đem lại thu nhập cao so với nhiều ngành nghề khác và hứa hẹn có nhiều  thành phần lao động ở nhiều trình độ khác nhau muốn gia nhập. Thứ ba, Về điều kiện gia đình có thể thấy đa số  người lao động lựa chọn   công việc là do kinh tế khó khăn. Họ đi làm để có thêm thu nhập vì tiền công   nhận được từ LĐGVGĐ tương đối ổn định giúp họ trang trải các nhu cầu của  gia đình và cá nhân. Thứ tư, Về đào tạo chuyên môn phần lớn người LĐGVGĐ ở nước ta chưa  có qua đào tạo nghề. Đa phần những trường hợp được đào tạo để đi giúp việc  cho gia đình ở nước ngoài. Tóm lại, đa phần là người LĐGVGĐ đều có những đặc điểm chung về độ  tuổi, đặc trưng giới tính, trình độ  văn hóa không cao, có hoàn cảnh xuất thân   đặc biệt. Chính những đặc thù này đã tạo nên nét đặc trưng trong đối tượng   lao động cần được bảo vệ này. 1.2. Nội dung pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình Pháp luật Việt Nam đã có những ghi nhận về lao động giúp việc gia đình.  Ở  Bộ  Luật Lao động 1994, đã đề  cấp đến vấn đề  này tại các Điều 2, Điều   28, Điều 139 nhưng vẫn còn khá mơ hồ chưa được rõ ràng và cũng như chưa   được hướng dẫn cụ thể. Nhưng  ở  Bộ  Luật Lao động 2012 thì lao động giúp  việc gia đình đã được quy định một cách rõ ràng từ  khái niệm đến nghĩa vụ  của các bên khi tham gia quan hệ  lao động này. Không những thế  tại năm  8 2014, các vấn đề về lao động giúp việc gia đình được hướng dẫn một các cụ  thể bởi các Thông tư và Nghị định đi kèm. Với sự thay đổi của pháp luật này,  lao động giúp việc gia đình được công nhận như một nghề. Và xã hội cũng có   nhìn nhận khác về những người là lao động giúp việc gia đình. 1.2.1. Khái niệm pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình Ở pháp luật Việt Nam, thuật ngữ “Lao động là người giúp việc gia đình”  được định nghĩa là người lao động thực hiện các công việc trong gia đình của  một hay nhiều hộ gia đình khác nhau một cách thường xuyên. Với định nghĩa  này ta thấy rằng nhà làm luật không hạn chế phạm vi thực hiện công việc của  người LĐGVGĐ, họ  có thể  làm việc cho một hoặc nhiều hộ  gia đình. Quy  định này tạo điều kiện cho họ  nâng cao thu nhập từ  đó cải thiện cuộc sống.   Bởi vì đa số  những người lựa chọn công việc giúp việc gia đình thường có  hoàn cảnh khó khăn hoặc không có trình độ  chuyên môn, và công việc này   mang lại thu nhập tương đối  ổn định cho họ. Hơn nữa cũng sẽ  có một số  trường hợp họ  chỉ  thực hiện công việc giúp việc gia đình  ở  một khoản thời   gian trong ngày, đây không phải là công việc duy nhất của họ, nên pháp luật  đã tạo điều kiện để  họ  tận dụng thời gian đó để  lao động giúp việc cho gia   đình khác. Các công việc mà người LĐGVGĐ có thể  làm nhiều công việc  như: nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người   già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên  quan đến hoạt động thương mại. Xuất phát từ  bản chất của công việc giúp   việc gia đình, đó chỉ  đơn thuần là các công việc với mục đích chăm sóc gia   đình về ăn uống, sinh hoạt,… chứ không nhằm mục đích tạo ra thu nhập cho   người sử dụng lao động nên người LĐGVGĐ sẽ không làm các công việc liên  quan đến sản xuất, kinh doanh tạo ra lợi nhận hoặc cạnh tranh trên thị trường.  Ngoài ra pháp luật lao động còn quy định người làm công việc trong gia  đình theo hình thức khoán việc không được xem là lao động giúp việc gia đình.  BLLĐ có quy định này do tính chất công việc của lao động giúp việc gia đình  là làm việc thường xuyên.Tính thường xuyên  ở  đây không phải là tình trạng   lặp đi lặp lại trong một chu kỳ  làm việc mà phải là tính chất lặp đi lặp lại  9 liên tục hằng ngày của công việc. Công việc của người LĐGVGĐ mang tính  chất ổn định, hàng ngày họ có mặt thực hiện nghĩa vụ với tính chất làm công  ăn lương và được biên chế  vào thành phần sinh hoạt của gia đình. Nhưng   trong hình thức khoán việc  thì những công việc chỉ mang tính thời vụ diễn ra   trong một thời điểm nhất định. Chẳng hạn như một người lao động được thuê  mướn theo hình thức cứ  đến một ngày nhất định trong tháng lại thực hiện   công việc nhất định sao đó lại dược nhận một khoản tiền cho dịch vụ đó thì   không được coi là LĐGVGĐ mà họ  là những người làm việc theo hình thức  khoán việc. Việc thực hiện công việc khoán việc của họ được điều chỉnh bởi   Bộ Luật Dân sự. 1.2.2. Quy định của pháp luật về lao động là người giúp việc gia đình Hiện nay, nhu cầu sử dụng lao động giúp việc gia đình ngày càng tăng cao.  Tuy nhiên trong một thời gian dài lao động giúp việc gia đình được xem như  một công việc không được xã hội tôn trọng. Vì vậy, để  làm cho người sử  dụng lao động có những hành vi và thái độ  phù hợp với người lao động giúp  việc gia đình, tạo những điều kiện thích hợp để người lao động giúp việc gia  đình hoàn thành tốt công việc của mình, cũng như  ràng buộc quyền và nghĩa  vụ của các bên. Bộ luật Lao động  đã có những quy định riêng về lao động là   người giúp việc gia đình. Thứ nhất, đó là vấn đề hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp  việc gia đình. Nhằm cụ thể hóa về quyền và nghĩa vụ vủa các bên, tạo cơ sở  cho việc giải quyết các tranh chấp, BLLĐ 2012 đã có sự thay đổi so với BLLĐ  1994 về  hình thức của hợp đồng LĐGVGĐ. BLLĐ 2012 buộc hợp đồng lao   động của quan hệ này phải được lập thành văn bản. Tức là về mặt hình thức   hợp đồng này phải được lập thành văn bản chứ  không như  BLLĐ 1994 thì  không bắt buộc về mặt hình thức. Trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận của hai  bên, BLLĐ 2012 cho phép hai bên tự thỏa thuận thời hạn hợp đồng lao dộng.   Có thể hiểu là các bên có thể lựa chọn giao kết hợp đồng lao động  không xác   định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo  mùa vụ  hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. Tiếp  10 theo là về nội dung của hợp đồng, hình thức trả lương, kỳ hạn trả lương, thời   giờ  làm việc hàng ngày, chỗ   ở  là những nội dung cần ghi rõ trong hợp đồng.  Nội dung cụ thể của hợp đồng được ghi nhận tại các văn bản hướng dẫn thi  gồm: thông tin cá nhân của các bên ký hợp đồng lao động; công việc và địa  điểm làm việc; thời hạn của hợp đồng lao động; tiền lương; tiền thưởng (nếu   có); thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; trang bị bảo hộ lao động; bảo hiểm  xã hội, bảo hiểm y tế; ăn và chỗ ở của người lao động; tiền tàu xe về nơi cư  trú khi chấm dứt hợp đồng lao động đúng thời hạn; hỗ trợ học nghề, văn hóa   (nếu có); trách nhiệm bồi thường của người lao động; những hành vi nghiêm  cấm. Thứ hai, đó là về vấn đề quyền và nghĩa vụ của người sử dụng LĐGVGĐ   và người LĐGVGĐ. Khi hợp đồng lao động được ký kết sẽ  làm phát sinh  quyền và nghĩa vụ  của các bên. Đây có thể  gọi là  “quyền và nghĩa vụ  đối   ứng”3. Nghĩa vụ đầu tiên phải được nhắc đến của người sử  dụng LĐGVGĐ  là:  Thực hiện đầy đủ  thỏa thuận đã giao kết trong hợp đồng lao động. Các  thỏa thuận này có thể  là thỏa thuận về  thời hạn thực hiện hợp đồng; thỏa  thuận về  tiền lương, hình thức trả  lương, kỳ  hạn trả  lương; thỏa thuận về  thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ  ngơi, nghỉ hàng tuần, nghỉ  lễ, nghỉ  tết. Cũng   như đối với các lao động khác, để đảm bảo cuộc sống về già hoặc không có   thu nhập, đồng thời được chăm sóc sức khỏe khi đau ốm, bệnh tật của người   LĐGVGĐ, người sử  dụng LĐGVGĐ có nghĩa vụ  trả  cho người LĐGVGĐ  một khoản tiền theo quy định của pháp luật để  họ  tự  lo đóng bảo hiểm xã  hội, bảo hiểm y tế. Bên cạnh đó người sử  dụng LĐGVGĐ phải tôn trọng  danh dự, nhân phẩm của người giúp việc gia đình. Người sử dụng LĐGVGĐ  phải bố trí chỗ  ăn, ở sạch sẽ, hợp vệ sinh cho người giúp việc gia đình, nếu   có thỏa thuận.Tạo điều kiện cho người giúp việc gia đình được tham gia học   văn hóa, học nghề. Trả tiền tàu xe cho người LĐGVGĐ để  họ  trở về  nơi cư  trú, tuy nhiên họ  sẽ  không được thanh toán chi phí này nếu họ  kết thúc hợp  đồng lao động trước thời hạn. Đây là những quyền lời đáp  ứng các nhu cầu   cơ bản nhất mà người sử dụng LĐGVGD phải đáp ứng cho người LĐGVGĐ.   Quyền và nghĩa vụ đối ứng: Là quyền của bên này sẽ tương ứng với nghĩa vụ của bên kia. Và ngược lại. 3 11 Luật cũng quy định một bên có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ bất kỳ  lúc nào nhưng phải thông báo trước 15 ngày. Vì đây là quyền và nghĩa vụ đối  ứng, tuy BLLĐ không quy định nhưng ta có thể thấy rằng người LĐGVGĐ sẽ  có những quyền tương ứng với những nghĩa vụ của người sử dụng LĐGVGĐ  đã nêu trên. Bên cạnh đó người LĐGVGĐ cũng có những nghĩa vụ  nhất định  gồm bốn nghĩa vụ chính trong đó có một nghĩa vụ mà pháp buộc thực hiện để  bảo vệ  chính người LĐGVGĐ. Nghĩa vụ  của họ  được quy định cụ  thể  tại  BLLĐ 2012. Cụ  thể  là:Thực hiện đầy đủ  thỏa thuận hai bên đã ký kết trong   hợp đồng lao động. Trong quá trình người LDGVGĐ làm việc nếu họ làm hư  hỏng, mất mát tài sản của người sử dụng LĐGVGĐ thì phải bồi thường theo   thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ tiếp theo là thông báo   kịp thời cho người sử dụng lao động về những khả năng, nguy cơ gây tai nạn,  đe dọa an toàn, sức khỏe, tính mạng, tài sản của gia  đình người sử  dụng  LĐGVGĐ và bản thân. Cuối cùng là tố  cáo với cơ  quan có thẩm quyền nếu  người sử dụng LĐGVGĐ có hành vi ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức  lao động hoặc hành vi trái pháp luật khác. Ở đây quấy rối tình dục có thể hiểu  là hình thức quấy nhiễu hướng tới giới tính của người có liên quan, còn cưỡng  bức lao động cũng được định nghĩa tại BLLĐ 2012 như  sau: Cưỡng bức lao   động là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ  đoạn khác nhằm buộc  người khác lao động trái ý muốn của họ. Quy định này đã chuyển từ  quyền  thành nghĩa vụ để bắt buộc người LĐGVGĐ phải tố  giác các hành vi đó của  người sử dụng LĐGVGĐ với cơ quan có thẩm quyền. Mục đích của của quy   định này là để  bảo vệ  chính người LĐGVGĐ, người có vị  trí yếu thế  hơn   trong quan hệ  lao động này và tạo cho họ  một môi trường làm việc tốt nhất.   Bên cạnh đó với  mục đích tạo môi trường tốt nhất này cho người LĐGVGĐ  BLLĐ 2012 còn ghi nhận những hành vi nghiêm cấm đối với người sử  dụng   LĐGVGĐ như sau: Nghiêm cấm ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao  động, dùng vũ lực đối với lao động là người giúp việc gia đình. Giao việc cho  người giúp việc gia đình không theo hợp đồng lao động. Giữ giấy tờ tùy thân   của người lao động. 12 Như  vậy có thể  thấy những quy định của pháp luật về  LĐGVGĐ ngày  càng cụ  thể, xóa bỏ  đi sự  mơ  hồ  trước đó về  khái niệm, hợp đồng, hay cả  quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ lao động này.  13 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI  GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN 2.1.  Thực trạng về lao động là người giúp việc gia đình Trên thực tế, nghề  LĐGVGĐ mang lại thu nhập tương đối  ổn định cho  người lao động, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy,  sử dụng người giúp việc là nhu cầu nhất thiết của nhiều gia đình, nhất là tại   các đô thị lớn... Bởi thế, lực lượng lao động này tăng nhanh trong những năm  gần đây. Theo thống kê chưa đầy đủ, lao động giúp việc gia đình tăng từ 157   nghìn người năm 2008 lên 246 nghìn người năm 2016, dự báo đến năm 2020,   cả  nước có khoảng 350 nghìn người 4. Hiện nay, người LĐGVGĐ chủ yếu  ở  độ  tuổi trung niên (36­55 tuổi). Bên cạnh đó, có một bộ  phận  đáng kể  là  những người  ở  ngoài độ  tuổi lao động (trên 55 tuổi) tham gia vào thị  trường   lao   động   này.   Theo   kết   quả   điều   tra   của   IFGS5  2011,   có   61,5%   người  LĐGVGĐ  ở  độ  tuổi 36­55, 23,8% người lao động  ở  độ  tuổi 35 trở  xuống;   14,8% người lao động  ở  độ  tuổi 56 trở  lên. Các kết quả  nghiên cứu về  giúp  việc gia đình tại Việt Nam thời điểm 2015 đều có chung nhận định: lao động   giúp việc gia đình chủ  yếu là nữ  giới. Nhìn chung, người lao động giúp việc  gia đình có trình độ  học vấn không cao. Phần lớn có trình độ  từ trung học cơ  sở  trở  xuống. Theo kết quả điều tra tại Hà Nội và TP. HCM của IFGS, 2011   có 85,7% người lao động có trình độ  học vấn THCS trở  xuống. Tỷ lệ người   lao động có trình độ tiểu học trở xuống là 31,8%. Tỷ lệ  tương ứng theo điều  tra của GFCD, 2012 là 84,6% và 22%. Lao động giúp việc gia đình là lĩnh vực   có sự tham gia của lao động chưa thành niên, trong đó phần nhiều là nữ  giới.  Kết quả điều tra của IFGS cho biết trong số 371 người lao động nữ, có 3% ở  4  Nghề giúp việc gia đình: Nhiều vấn đề cần giải quyết, laodongxanha.net, 2017.  Viện nghiên cứu gia đình và giới (Institute For Family and Gender Studies). 5 14 độ  tuổi 16­186. Tuy là công việc không quá khó nhưng giúp việc gia đình đòi  hỏi người lao động phải có nhiều kỹ  năng về  các công việc trong gia đình.  Người lao động hiện nay chưa đáp  ứng được những yêu cầu tối thiểu của   nghề. Theo  trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng cho   biết, LĐGVGĐ có tới hơn 90% của qua đào tạo. Có thể thấy LĐGVGĐ ở nước ta ngày càng phát triển, nhu cầu về loại lao   động này cũng tăng cao và có những nhìn nhận khác nhau từ  xã hội nhưng  chưa đầy đủ. Tuy công việc này bình đẳng như  các nghề  khác, sự  đóng góp  cho sự phát triển của xã hội là đáng kể nhưng nghề này vẫn chưa được nhiều   người trong xã hội xem trọng, và được gắn với tên thường gọi “ Ô Sin”.   2.2.  Quy định của pháp luật Việt nam về lao động là người giúp việc gia  đình Tuy pháp luật lao động hiện nay quy định rất cụ thể về vấn đề LĐGVGĐ.   Với  các quy định tại BLLĐ 2012 và các văn bản hướng dẫn đi kèm thì quy  định của vấn đề  này đã rất rõ ràng và có những hướng dẫn chi tiết về  việc   thực hiện. Nhưng việc thực hiện trên thực tế  vần còn rất nhiều khó khăn và  bấp cập. Đặc biệt là các cơ  qua có thẩm quyền gặp khó khăn trong vần đề  quản lý quan hệ lao động này. 2.2.1. Về hợp đồng lao động  HĐLĐ là căn cứ  làm phát sinh quyền và nghĩa vụ  giữa người lao động và   người  sử  dụng lao  động. HĐLĐ đối với LĐGVGĐ là sự  thỏa thuận giữa  người lao động làm công việc giúp việc giúp cho gia đình với người sử dụng   lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của   mỗi bên trong quan hệ  lao động. Sau đây là quy định của pháp luật cũng như  yêu cầu về hợp động lao động đối với người giúp việc.  Thử việc Trước khi kí kết HĐLĐ, người sử  dụng và người lao động có thể  thỏa  thuận về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ hai bên trong thời gian thử việc và kết   6  Tình hình Lao động giúp việc gia đình, gfcd.org.vn, 2015. 15 thúc thời gian thử việc theo quy định BLLĐ. Thời gian thử việc không quá 06   ngày làm việc. Hai bên chỉ được thỏa thuận về việc làm thử đối với công việc   thường xuyên phải làm khi ký HĐLĐ. Tiền lương trong thời gian thử  việc   bằng 85% mức lương đã thỏa thuận, trường hợp chưa thỏa thuận được mức   tiền thì mức tiền lương trong thời gian thử việc ít nhất bằng 85% mức lương   tối thiểu vùng tại địa bàn nơi người lao động làm việc. Thực tế  có rất nhiều  trường hợp người sử dụng lao động vi phạm quy định này như: yêu cầu người  LĐGVGĐ thử việc dài hơn so với quy định 06 ngày như 10 ngày, 15 ngày hay   thậm chí là 1 tháng; không trả  lương cho người lao động trong thời gian thử  việc; không ký HĐLĐ bằng văn bản với LĐGVGĐ khi đã hết thời gian thử  việc mặc dù vẫn tiếp tục sử dụng người lao động.  Chủ thể hợp đồng lao động Theo   quy   định   tại   Điều   3   Thông   tư   19/2014/TT­BLĐTBXH,   người   ký  HĐLĐ bên phía người sử  dụng LĐGVGĐ là: Chủ  hộ; người được chủ  hộ  hoặc các chủ hộ  ủy quyền hợp pháp; người được các thành viên trong hộ gia   đình hoặc các hộ  gia đình  ủy quyền hợp pháp. Người ký kết HĐLĐ bên phía  người lao động là: người LĐGVGD từ đủ 18 tuổi trở lên; người LĐGVGĐ từ  đủ  15 đến dưới 18 tuổi và có văn bản đồng ý của người đại diện theo pháp   luật của người LĐGVGĐ.  Như  vậy, pháp luật lao động cho phép trẻ  em từ  đủ 15 tuổi trở lên có thể làm LĐGVGĐ nếu công việc đó nhẹ nhàng, phù hợp   với lứa tuổi, thời gian làm việc không vượt quá thời gian quy định của pháp   luật.  Hình thức hợp đồng Theo   quy   định   Nghị   định   27/2014/NĐ­CP   hợp   đồng   lao   động   đối   với  LĐGVGĐ bắt buộc phải được lập thành văn bản.  Tuy nhiên, các quy định  pháp luật về  HĐLĐ với LĐGVGĐ vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc gây   tranh   cãi   và   thiếu   khả   thi   trên   thực   tế.   Trên   thực   tế,   đa   số   HĐLĐ   với   LĐGVGĐ được giao kết bằng lời nói. Bởi vì, phần lớn người LĐGVGĐ là  phụ  nữ nông thôn, thường lại chính là những người có quan hệ  đồng hương,   quan hệ  họ hàng với gia đình sử  dụng lao động, hiểu biết pháp luật còn hạn  chế, cộng thêm tâm lý, thói quen giải quyết các quan hệ bằng tình cảm nên họ  16 không   biết   hoặc   không   muốn   ký   hợp   đồng   lao   động.  Theo  khảo   sát   của  GFCD, có trên 90% HĐLĐ là thỏa thuận miệng giữa người giúp việc và chủ  hộ. Khi được hỏi về  ý định giao kết HĐLĐ bằng văn bản thì chỉ  có 48,6%   LĐGVGĐ có ý định ký hợp đồng bằng văn bản với   người lao sử  dụng lao  động7.  Nội dung của hợp đồng Các nội dung cụ  thể  phải có trong HĐLĐ được hướng dẫn tại Điều 6  Thông   tư   19/2014/TT­BLĐTBXH   gồm:   Thông   tin   cá   nhân   của   các   bên   ký  HĐLĐ; công việc và địa điểm làm việc; thời hạn của HĐLĐ; tiền lương; tiền   thưởng (nếu có); thời giờ  làm việc, thời giờ  nghỉ  ngơi; trang bị  bảo hộ  lao   động; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; ăn và chỗ ở của người lao động; tiền  tàu xe về nơi cư trú khi chấm dứt HĐLĐ đúng thời hạn; hỗ trợ học nghề, học   văn hóa (nếu có); trách nhiệm bồi thường của người LĐGVGĐ; những hành   vi nghiêm cấm. Trên thực tế, hầu hết HĐLĐ được không được ký bằng hình  thức văn bản nếu có được ký bằng văn bản thì nội dung thường cũng rất sơ  sài chủ yếu là nội dung về tiền lương; công việc và địa điểm làm việc, những  nội dung khác ít được người sử  dụng lao động và người lao động ghi nhận   trong hợp đồng.  Ký kết hợp đồng Được quy định tại Điều 5, Nghị  định số  27/2014/NĐ­CP nếu người sử  dụng lao động có thuê mướn, sử  dụng nhiều lao động là người giúp việc gia   đình thì người sử dụng lao động ký kết HĐLĐ với từng người lao động. Hợp   đồng lao động được lập ít nhất thành 2 bản, mỗi bên giữ một bản. Người sử  dụng lao động có trách nhiệm thông báo với UBND xã, phường, thị  trấn nơi   người lao động làm việc về  việc sử  dụng LĐGVGĐ trong thời hạn 10 ngày,  kể  từ  ngày ký HĐLĐ. Bên cạnh đó để  bảo vệ  quyền lợi cho những người  LĐGVGĐ không biết chữ Điều 4 Thông tư 19/2014/TT­BLĐTBXH đã nêu rõ  về  việc ký kết hợp đồng lao động đối với lao động không biết chữ  như  sau:   người sử dụng lao động đọc toàn bộ nội dung HĐLĐ để người lao động nghe   Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng (2013), Báo cáo tóm tắt: Tổng quan tình hình lao  động giúp việc gia đình tại Việt nam từ năm 2007 đến nay, Hà Nội. 7 17 và thống nhất nội dung trước khi ký HĐLĐ; người lao động thực hiện ký  HĐLĐ bằng hình thức điểm chỉ; trường hợp cần thiết, người lao động yêu  cầu người sử  dụng lao động mời người thứ ba không phải là thành viên của  hộ gia đình làm chứng trước khi ký HĐLĐ và trong hợp đồng phải ghi rõ tên,   số  chứng minh nhân dân hoặc hộ  chiếu, hộ  khẩu thường trú, địa chỉ  liên lạc  khi cần và chữ ký của người làm chứng.  Chấm dứt hợp đồng lao động Chấm dứt HĐLĐ là sự  kiện pháp lý làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của  các   bên   theo   HĐLĐ   đã   giao   kết.   Nghị   định   27/2014/NĐ­CP   và   Thông   tư  19/2014/TT­BLĐTBXH quy định cụ thể  về  căn cứ  chấm dứt, nghĩa vụ, trách  nhiệm của các bên khi chấm dứt HĐLĐ. Theo quy định tại Điều 10 Nghị định   27/2014/NĐ­CP, HĐLĐ chấm dứt trong các trường hợp sau: hết hạn HĐLĐ;  đã hoàn thành công việc theo HĐLĐ; hai bên thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ;  Người lao động chết; người sử dụng lao động là cá nhân chết; người sử dụng  lao động hoặc người lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ.  Thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động Đối với người LĐGVGĐ, khi muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao  động, họ phải thông báo trước cho người sử dụng lao động 15 ngày, tuy nhiên  họ chỉ cần báo trước 03 ngày trong các trường hợp: người sử dụng lao động vi  phạm hợp đồng (vi phạm về tiền lương, công việc, điều kiện làm việc) hoặc  có vấn đề về sức khỏe. Và họ có thể nghỉ việc mà không cần báo trước khi bị  người sử  dụng lao động hoặc thành viên trong hộ  gia đình ngược đãi, xúc  phạm danh dự, nhân phẩm, quấy rối tình dục, dùng vũ lực hoặc cưỡng bức   lao động; khi phát hiện thấy điều kiện làm việc có khả  năng đe dọa an toàn,   sức khỏe của bản thân, đã báo cho người sử  dụng lao động biết mà chưa  được khắc phục; do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả  kháng khác mà   người lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể  tiếp tục   thực hiện hợp đồng lao động.  Hiện nay, người LĐGVGĐ tự  ý bỏ  việc mà  không tuân thủ quy định của pháp luật. Đối với người sử dụng lao động, họ cũng có quyền đơn phương chấm dứt  hợp đồng lao động với người LĐGVGĐ nhưng phải báo trước cho người  18 LĐGVGĐ 15 ngày. Nhưng nếu người LĐGVGĐ vi phạm HĐLĐ hoặc khi họ  bị ốm đau bệnh tật phải điều trị  30 ngày liên tục thì người sử dụng lao động   chỉ cần báo trước 03 ngày. Và không phải báo trước nếu người LĐGVGĐ có  những hành vi sau đây: trộm cắp, đánh bạc, cố ý gây thương tích, có các hành   vi ngực đãi, xúc phạm danh dự nhân phẩm, quấy rối tình dục người sử dụng   LĐGVGĐ hoặc các thành viên trong hộ gia đình; sử dụng các chất gây nghiện,  mại dâm; hoặc do các nguyên nhân như thiên tai, hỏa hoạn và các trường hợp   bất khả kháng khác mà người sử dụng LĐGVGĐ đã tìm mọi cách  khắc phục  nhưng không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ.  Trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động khi hợp   đồng lao động chấm dứt Khi hợp đồng lao động chấm dứt, người sử  dụng LĐGVGĐ sẽ  có những  trách nhiệm đối với người LĐGVGĐ như sau: thanh toán các khoản liên quan   đến quyền lợi của người lao động  (tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y   tế); tiền lương cho những ngày nghỉ hàng năm mà người lao động chưa nghỉ,   chi phí ăn, chỗ ở của người lao động, tiền hỗ  trợ học văn hóa, học nghề, các  khoản thỏa thuận khác trong HĐLĐ (nếu có); tiền tàu xe đi đường khi người  lao động về  nơi cư  trú, trừ  trường hợp người lao động làm việc theo HĐLĐ  xác định thời hạn và HĐLĐ theo mùa vụ  hoặc theo công việc nhất định có  thời hạn dưới 12 tháng đơn phương chấm dứt HĐLĐ; trợ  cấp thôi việc cho   người lao động theo quy định của BLLĐ. Tuy nhiên, hiện nay các quy định này  chưa được người sử  dụng lao động thực hiện đầy đủ  như: không thanh toán  tiền lương cho những ngày nghỉ  hàng năm mà người lao động chưa nghỉ, trợ  cấp thôi việc cho người lao động. Thông thường, khi chấm dứt HĐLĐ, người   sử  dụng lao động và người lao động chỉ  thỏa thuận thanh toán khoản tiền  lương còn thiếu và tiền tàu xe đi đường khi người lao động về  nơi cư  trú.   Tình trạng này do nhiều nguyên nhân trong đó có sự  thiếu hiểu biết về  pháp   luật của người lao động làm cho người sử  dụng lao động có điều kiện vi  phạm và ý thức chấp hành pháp luật của các bên. 2.2.2. Về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế  Tiền lương 19 Tiền lương là khoản tiền mà người sử  dụng lao động trả  cho người lao   động để thực hiện công việc theo thỏa thuận. Theo đó mức tiền lương sẽ do  hai bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng lao động. Mức tiền lương sẽ  bao   gồm cả chi phí ăn, ở của người lao động sống tại gia đình người sử dụng lao  động (nếu có, nhưng không vượt quá 50% mức tiền lương trong hợp đồng lao   động) và không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại nơi người lao   động làm việc.  Về  hình thức trả  lương: người sử  dụng lao động có thể  thỏa thuận trả  lương cho người lao động theo thời gian (tháng, tuần, ngày, giờ). Thời hạn trả  lương do người lao động và người sử   dụng lao động thỏa thuận, thời điểm   trả  lương cố  định trong ngày, trong tuần hoặc trong tháng và ghi trong hợp  đồng lao động. Người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần, tháng thì  được trả  lương sau giờ, ngày, tuần, tháng làm việc hoặc trả  gộp do hai bên  thỏa thuận. Tiền   lương   làm   thêm   được   quy   định   cụ   thể   Thông   Tư   19/2014/TT­ BLĐTBXH. Người lao động là thêm giờ thì được trả lương ít nhất bằng 150%  tiền lương theo giờ; làm việc vào ngày nghỉ  lễ, tết được trả  lương ít nhất  300% tiền lương ngày; làm thêm giờ vào ban đêm thì được trả thêm 20% tiền  lương ngày. Tiền lương tính trả  cho ngày nghỉ  hằng năm, nghỉ  lễ, tết được tính nhau  sau: tiền lương ghi trong HĐLĐ của tháng trước liền kề  trước khi người lao  động nghỉ hằng năm, lễ, tết chia cho số ngày làm việc bình thường trong tháng  do hai bên thỏa thuận ghi trong HĐLĐ, nhân với số ngày nghỉ hằng năm, nghỉ  lễ, nghỉ  tết của người lao động. Quy định nhằm tạo điều kiện cho người  LĐGVGĐ hưởng được những ngày nghỉ  năm, lễ, tết được trọn vẹn về  tinh   thần củng như vật chất. Theo Điều 16 Nghị  định 27/2014/NĐ­CP thì tiền lương ngừng việc được  quy định một cách rất dễ  hiểu và hợp tình hợp lí. Người sử  dụng lao động  thanh toán đầy đủ  lương khi người lao động nghỉ  việc do lỗi của người sử  dụng lao động; nếu không có lỗi trong việc nghỉ việc của người lao động thì  không phải thanh toàn lương. 20 Khấu  trừ   tiền  lương,  đây   là   một   chế   tài   rất   thiết  thực,tăng   tính   trách  nhiệm kỷ luật cho “người làm” và “chủ  nhà”. Tuy để  trách sự  bất công, lạm  dụng quy định này để  người sử  dụng LĐGVGĐ thu các khoản tiền vô lí gây   ảnh hưởng đến quyền lợi, thu nhập của người LĐGVGĐ. Quy định khấu trừ  lương không quá 30% tiền lương đối với người lao động không sống cùng  chủ  hộ  và không quá 60% tiền lương (khi đã trừ  chi phí ăn  ở) đối người lao  động sống chung với chủ hộ.  Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế Người sử  dụng lao động có trách nhiệm chi trả  thêm cùng lúc với kỳ  trả  lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo   hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế  thuộc trách nhiệm của người sử  dụng  lao động theo quy định của pháp luật về  bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế  để  người lao động tự lo bảo hiểm. Nhưng thường người lao động không tham gia   bảo hiểm.  Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi người lao động bị ốm, bị   bệnh Trường hợp người lao động sống cùng gia đình người sử dụng lao động bị  ốm, bị  bệnh, người sử  dụng lao động tạo điều kiện để  người lao động nghỉ  ngơi, khám, chữa bệnh. Chi phí khám, chữa bệnh do người lao động chi trả,   trừ  trường hợp hai bên có thỏa thuận khác. Nhưng ngược lại cũng quy định  người sử dụng lao động không phải trả lương cho những ngày người lao động   phải nghỉ việc do bị ốm, bị bệnh nhằm bảo quyền lợi của người sử dụng lao   động. 2.2.3. Về điều kiện làm việc, chế độ sinh hoạt  Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi Về  cơ  bản, các quy định về  thời giờ làm việc, thời giờ  nghỉ  ngơi đối với  LĐGVGĐ được quy định tương tự như các trường hợp khác. Để phù hợp với   đặc thù công việc của người LĐGVGĐ pháp luật cho phép hai bên tự  thỏa   thuận thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tuy nhiên phải đảm bảo người lao  động phải được nghỉ  ít nhất 8 giờ, trong đó có 6 giờ  liên tục trong 24 giờ.   Thời giờ làm việc đối với lao động chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi  
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan