BÀI TIỂU LUẬN QTDN
TÊN NHÓM :CONATION ( Nổ lực hết mình)
1 LƯ PHƯƠNG ĐẾN CHẬM
2 HUỲNH VĂN DUY
3 LÊ DUY LINH
4 NGUYỄN MINH NGỌC
5 NGUYỄN PHAN RÔN
6 TRẦN THANH TÚ
7 PHẠM THANH TÙNG
8 NGUYỄN NGỌC TRỌNG
ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁ TRỊ SẢN PHẪM
CỦA TỔNG CÔNG TY BIA SÀIGÒN TAI TPHCM
LỜI MỞ ĐẦU
Nguồn gốc xuất sứ:
Từ bao đời nay rươu bia còn là hương vị của thương việt của người việt nam, nó mang
một nét văn hóa dậm đà bản sắc dân tộc
- buổi tiệc,liên hoan … từ thời trước công nguyên
cha ông chúng ta đã ngiên cứa vả sản xuất từ một nguyên liệu lúa mạch hay củ quả .. rất
gần giũ bình dị với tấc cả những ai biết thưởng thức Nói tới Bia người ta nghĩ ngay đến
Bia Sài gỏn! còn ở Miền Tây thì dân thường quen dùng rượu đế. Thế nhưng có Bia
Saigon-Miền Tây đã đem đến vùng sông nước này cái gu của người Saigòn, cái gu uống
Bia thứ nước giải khát thêm chút nồng của chất men làm bằng lúa mạch, uống hoài được
hoài,
say
mà
không
say.
Đó mới là thứ thức uống độc chiêu tồn tại hàng trăm năm nay, dù người có tiền hay
người bình dân, ai cũng muốn thưởng thức. Đó là lý do khiến Bia Sai gon quyết định
đem nhà máy đi khắp đất nước, mà Miền Tây là nơi ưu tiên và Bia Saigon-Miền Tây
không phụ lòng mong đợi của mọi người.
Vai trò:
- Bia là một trong các đồ uống lâu đời nhất mà loài người đã tạo ra, có niên
đại ít nhất là từ thiên niên kỷ 5 TCN và đã được ghi chép lại trong các thư
tịch cổ của Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà (Mesopotamia).
Giống như phần lớn các chất chứa đường khác có thể bị lên men một cách tự
nhiên, rất có thể là các đồ uống tương tự như bia đã được phát minh một
cách độc lập giữa các nền văn minh trên toàn thế giới. Việc kiểm định hóa
học các bình gốm cổ phát hiện ra rằng bia (tương tự như rượu vang) đã được
sản xuất khoảng 7.000 năm trước ở khu vực ngày nay là Iran và là một trong
số các công nghệ sinh học đã biết, trong đó các quy trình sinh học của sự lên
men được áp dụng.
- Bia còn là loại hình giao tiếp trong tấc cả loại lỉnh vực, còn là nước giải
khát...
-Vân thưa các bạn, KHÔNG CẦN CẦU KÌ, KHÔNG CẦN PHÔ TRƯƠNG, UỐNG RỒI
SẼ BIẾT.
1
Nếu chúng ta! Là nhừng nhà quản tri doang nghiệp đem tinh thần. nhân tài …làm sao
vẩn giử vững được thương hiệu là “GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁ TRỊ
SẢN PHẦM TỔNG CỔNG TY BIA SÀI GÒN TẠI TPHCH’’ của chúng tôi
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NÂNG CAO CHẤT` LƯỢNG GIÁ TRỊ
SẢN PHẨM
1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là tâp hợp các sản phẩm của hàng hóa thỏa mãn nhu cầu nào đó của
người tiêu dùng. Như vậy chất lượng sản phẩm mang tính chất tổng hợp về kinh tế-kì
thuât-xã hội- thị trường, và chất lượng sản phẩm có mối quan hệ sống còn với nhau, thiếu
chất lượng thì không thể có thị trường. Qúa trình chuyển từ nền kinh tế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường, thì bao nhiêu vấn đề nhận thức về pháp luật, về thị
trường thay đổi trong đó có khái niệm về chất lượng và công tác quản lý chất lượng.
Chất lượng sản phẩm nó còn là tổng hợp những chỉ tiêu, đặc trưng của sản phẩm thể hiện
thỏa mản nhu cầu trong những điều kiện nhu cầu nhất định
Chất lượng sản phẩm là hệ thống những đặt tính nội tại của sản phẩm được xác định bằng
thông số có thể có phù hợp với những điều kiện kỷ thuật hiện đại và thỏa mản nhu cầu
nhất định của xã hội.
Nếu nói đến chất lượng sản phẩm người ta có thể chia sản phẩm thành ba loại
+ Chất lượng thị trường là chất lượng sản phẩm đảm bảo thõa mãn nhu cầu mong đợi của
khách hàng.
+Chất lượng thị yếu là chất lượng sản phẩm phù hợp với sở thích thói quen tâm lý của
người tiêu dùng
+Chất lượng phù hợp là chất lượng bảo đảm theo dúng thiết kế hoặc tiêu chuẩn quy định
còn gọi là chất lượng sản xuất
. về chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm
. chỉ tiêu công dụng chức năng của sản phẩm
.độ tin cậy khả năng làm việt của sản phẩm tức là tác dụng
.tính lao động sản xuất chế biến chế tạo thuận lợi
.tính công nghệ khi sản xuất chế tạo chế biến tiết kiệm tối đa các yếu tố vật chất
. tính hấp dẩn thẩm mỷ đẹp, hấp dẫn của sản phẩm
2
.độ sinh thái môi trường mức độ gây độc hại của môi trường và con người
. độ an toàn không gây nguy hiểm cho người sử dụng và vận chuyển thuận lợi
Chất lượng sản phẩm không phải tự nó mà có, mà do những doanh nghiệp tự đào sâu tìm
toi, củng không ích tốn kém gì nhiều ngoài cơm áo gạo tiền để có được
1.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm là gì?giá trị chất lượng sản phẫm là gì?.vây đảm bảo
về giá trị chất lượng của sản phẫm là đảm bào vệ sinh an toàn thực phẫm… Đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm là gì
1.1.Nâng cao chất lượng sản phẫm
-Nâng cao chất lượng sản phẩm tức là đa dạng hóa chủng và kiểu dáng các loại mặt
hàng, nhằm tăng cường sức cạnh tranh của các loại sản phẩm trên thị trường và
nước ngoài
- ý nghĩa của việt nâng cao chất lượng sản phẩm là nhân tố quan trọng quyết định
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường
-tạo uy tín và danh tiếng, là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài
Tăng chất lượng sản phẩm có ý nghĩa tăng năng xuất lao đông cho xã hội
Nâng cao chất lượng sản phẩm đó lá sự kết hợp lợi ích của doanh nghiệp người
tiêu dùng, xã hội và người lao động
1.1.1. Giá trị chất lượng sản phẫm là gì?.
1.1.2. Đảm bảo vệ sinh an toan thực phẫm
1.2.Chất lượng sản phẫm thấp, chất lượng sản phẫm cao
1.2. Chất lượng sản phẫm cao
Là chất lượng mà theo suy nghĩ của khách hàng không ngừng có thương hiệu mạnh và
chất lượng tốt
1.2.1. chất lượng sản phẫm thấp
Là chất lượng mà trong quá trình sản xuất do không làm đúng yêu cầu về kỷ thuât
1.3. Khái niệm về Sản phẫm, chất lượng? Sự hình thành và các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm. Quá trình phát triển của công tác quản lý chất lượng sản phẩm Vai
trò của quản lý chất lượng sản phẩm Các yêu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
1.3. khái niêm sản phẫm, chất lượng
Sản phẩm là linh hồn của một công ty
Chất lượng là mức độ đạt được một số tiêu chuẩn nào đó đã đề ra từ trước
1.3.1. Sự hình thành và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
3
1.3.2.Quá trình phát triển của công tác quản lý chất lượng sản phẩm
-quản lý do người trực tiếp sản xuất.
-quản lý do đốc công hay quản đốc phân xưởng.
-quản lý bằng kỉm tra(kcs)
-quản lý bằng chất lượng thống kê
-quản lý chất lượng tổng hợp
1.3.4. Vai trò của quản lý chất lượng sản phẩm
1.3.5. Các yêu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
1.4. Khái niệm về nhu cầu, Khách hàng. Nâng cao chất lượng sản phẩm tức xây dựng và
phát triển thương hiệu,làm thế nào giử vửng và phát triển thương hiệu đối với khách hàng
1.4 khái niệm nhu cầu
1.4.1 khái niệm khách hàng
1.4.2 Giử vửng và phát triển thương hiệu
•Thương hiệu có một số chức năng chiến lược
•Tạo khác biệt với các đối thủ cạnh tranh
•Định vị thông điệp của bạn trong suy nghĩ và cảm xúc của nhóm khách hàng mục
tiêu
•Vững vàng hơn với những nỗ lực khuyến thị
•Giúp chương trình dịch vụ phản ánh đúng tính chất của thương hiệu
•Truyền tải thông điệp một cách nhanh chóng và rõ ràng
•Xây dựng đề án với mức độ tin cậy cao
•Đánh đúng cảm xúc người tiêu dùng
•Tạo và giữ các khách hàng trung thành
Tạo dấu ấn riêng của thương hieu phù hợp với các đối tượng tạo uy tín khách
hàng
CHƯƠNG II: THỰC TRANG CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CUẢ TỔNG CÔNG
TY BIA SÀI GÒN TẠI TPHCM T0RONG NHỮNG NĂM QUA
2.Khái quát quá trình hình thành lịch sử phát triển chất lượng sản phẩm cùa tổng công ty
trong những năm qua
Tổng công ty Cổ phần Bia-Rượu-Nước giải khát Sài Gòn là một tổng công ty cổ phần có
trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Giai đoạn trước năm 1975:Là một nhà máy bia của Tư Bản Pháp được xây dựng từ năm
1875.
Đến tháng 6/1977, Nhà máy được đổi tên thành Nhà máy Bia Sài Gòn.
Năm 1993 Nhà máy được đổi tên thành Công ty Bia Sai Gòn và trở thành một trong
những Công ty có trang thiết bị hiện đại nhất trong ngành bia Việt Nam. Lịch sử phát
4
triển của Sabeco gắn liền với quá trình phát triển mạnh mẽ và bền vững của thương hiệu
bia Sài Gòn, thương hiệu dẫn đầu của Việt Nam.
Với truyền thống lâu đời trên 100 năm trong ngành sản xuất bia, chất lượng sản phẩm của
Công ty Bia Sài Gòn không ngừng được nâng cao nhờ sự kết hợp đồng bộ giữa công
nghệ truyền thống, thiết bị hiện đại, nguyên liệu ngoại nhập từ những nước có nguồn
nguyên liệu nổi tiếng trên thế giới với việc đổi mới phương thức quản lý. Một trong
những yếu tố quan trọng góp phần ổn định chất lượng sản phẩm là hệ thống phương tiện
kỹ thuật kiểm tra tiên tiến được đánh giá đạt đẳng cấp quốc gia và hệ thống đảm bảo chất
lượng cho sản phẩm bia chai và bia lon phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9001:2000.
Từ năm 1992, với uy tín trong nước, sản phẩm của Công ty Bia Sài Gòn đã vươn ra có
mặt trên thị trường khó tính nhất như: Nhật, Úc, Mỹ, EU, Singapore, Hongkong,...
Năm 2000, Công ty Bia Sài Gòn là doanh nghiệp sản xuất bia đầu tiên của Việt Nam đạt
và vượt mốc sản lượng 200 triệu lít/năm
Giai đoạn 1999 - 2002:
2000 Hệ thống Quản lý Chất lượng của BVQI - ISO 9002:1994
2001 Hệ thống Quản lý Chất lượng của BVQI - ISO 9001:2000
Thành lập các công ty liên kết sản xuất bia
- 2001 Công ty Bia Sóc Trăng
- Nhà máy Bia Henninger
- Nhà máy Bia Hương Sen
- 2002 Công Ty Liên doanh Bia Cần Thơ
- Nhà máy Bia Hà Tĩnh
Thành lập Tổng kho tại Nha Trang, Cần Thơ và Đà Nẵng
2002 - hiện nay:
Tháng 7/2003, Công ty Bia Sài Gòn phát triển lớn mạnh thành Tổng Công ty Bia rượu
Nước giải khát Sài Gòn và trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong ngành sản xuất bia
Việt Nam. Chúng tôi đã tạo cho mình một nền tảng vững chắc, đạt trình độ của một nhà
quản lý hiện đại, cùng cả nước tiến những bước phát triển vững chắc vào thiên niên kỷ
mới.
2004 Thành lập Tổng công ty Bia - Rượu - NGK Sài Gòn SABECO chuyển sang tổ
chức và hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con theo quyết định số
37/2004/QĐ-BCN của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp.
2006 Hoàn chỉnh hệ thống phân phối trên toàn quốc với 8 Công ty CPTM SABECO khu
vực
2007 Tổng công ty Bia - Rượu - NGK Sài Gòn SABECO liên tục phát triển lớn mạnh
với chủ đạo là sản xuất, kinh doanh các sản phẩm Bia Sài Gòn và đầu tư mới trên nhiều
lĩnh vực, sản phẩm khác.
5
2008 Tổng Công ty Bia - Rượu - NGK Sài Gòn chuyển đổi thành Công ty Cổ Phần Bia
- Rượu - NGK Sài Gòn và chính thức đưa vào hoạt động Nhà máy bia Sài Gòn Củ Chi,
đây là nhà máy bia lớn nhất Đông Nam Á.
Hiện nay Tổng công ty Bia - Rượu - NGK Sài Gòn SABECO có tổng cộng 28 thành viên.
Lĩnh vực hoạt động:Sản xuất, kinh doanh các loại bia, rượu, nước giải khát, cồn, bao bì
Xuất nhập khẩu các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát, các vật tư, nguyên liệu có liên
quan đến ngành sản xuất bia
2.1. VỊ trí dịa
Cơ cấu tổ chức bô máy hành chính
TỔNG GIÁM ĐỐC
TÀI
CHÍNHKẾ TOÁN
MARKETING
DỰ ÁN ĐẦU
TƯ VÀ PHÁT
TRIỂN
BAN KỶ
THUẬT
BAM
CUNG
ỨNG
NHÀ
MÁY
BIA
Nằm ngay trong khu trung tâm thành có tiền năng về phát triển kinh tế quốc dân từ lâu
đời thuận lợi cho việt buôn bán có tiềm năng về sản phẩm từ lâu đời
2.1.1Cơ cấu tổ chức bộ máy chi nhánh
6
T ỔNG C ÔNG TY BIA S ÀI GÒN
CÁC CHI NHÁNH
Sabeco
miền
Bắc
Công ty
CPTM
SABECO
Miền Bắc
Chi
nhánh
Hải
Phòng
Chi
Chi
nhánh
nhánh
Hải
Nam
Phòng
Định
Chi
nhánh
Quảng
Ninh
Sabeco
Sabeco
miền Bắc miền
Trung
Trung
Bô
Công ty
CPTM
SABECO
Bắc Trung
Bộ
Chi
nhánh
Quảng
Trị
Chi
nhánh
Thanh
Hóa
Tổng
đại lý
Quảng
Bình
Sabeco
miền
Tây
Nguyên
Công ty
Công ty
CPTM
CPTM
SABECO
SABECO
Bắc Trung
Tây
Bộ Công ty Nguyên
CPTM
Chi
nhánh
SABECO
nhánh
Chi Gia
Miền
Đà Trung Lai
Nẵng
Chi
nhánh
Bình
Định
Chi
nhánh
Kon
Tum
Chi
nhánh
Lâm
Đồng
Sabeco
miền
Nam
Trung
Bộ
Công ty
CPTM
CPTM
SABECO
Nam
Trung Bộ
Chi
nhánh
Ninh
Thuận
Chi
nhánh
Bình
Thuận
Tổng
đại lý
Thừa
Thiên
Huế
Sabeco
miền
Đông
Sabeco
Trung
Tâm
Sabeco
miền
Sông
Tiền
Sabeco
miền
Sông
Hậu
Công ty
CPTM
SABECO
Sông Hậu
Công ty
SABECO
Miền
Đông
Chi
nhánh
Thủ
Đức
Công ty
CPTM
SABECO
Sông Tiền
Chi
nhánh
Bình
Phước
Chi
nhánh
Bia
Thành
Phố
Chi
nhánh
Long An
Chi
nhánh
Củ Chi
Chi
nhánh
Trà Vinh
Chi
nhánh
Bạc Liêu
Chi
nhánh
Bến Tre
Chi
nhánh
Cà Mau
Chi
nhánh
Đồng
Tháp
Chi
nhánh
Tiền
Giang
Chi
nhánh
Kiên
Giang
Chi
nhánh
Đồng
Nai
Chi
nhánh
Vũng
Tàu
2.2. Chất lưọng đạt đuợc trong những năm qua
7
Chi
nhánh
Sóc
Trăng
Chi
nhánh
An
Giang
BIA SÀI GÒN 30 NĂM KHẲNG ĐỊNH THƯƠNG
HIỆU
Bia Sài Gòn xanh, bia Sài Gòn đỏ, bia 333, bia Sài
Gòn Special đã và đang trở thành thức uống thông
dụng cho mọi người, mọi nhà.
Nhà máy bia Sài Gòn (nay là Tổng Công ty BiaRượu – NGK Sài Gòn) đến nay vừa tròn ba thập
kỷ xây dựng và phấn đấu- cột mốc thời gian quý
báu để ta cùng nhìn lại hành trình xuyên suốt những tháng năm nỗ lực hết mình vươn lên,
khẳng định một thương hiệu bia của Sài Gòn, bia của Việt Nam: 30 năm với những kỷ
niệm “lần đầu tiên” đầy ghi nhớ.
Nhìn vào lực lượng công nhân hùng hậu gần 4000 người có quy mô bề thế của Sabeco
hiện nay, hẳn không ít người sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi biết rằng trước khi được khai
sinh với tên Nhà máy Bia Sài Gòn (1-6-1977), công ty đã có bề dày lịch sử tồn tại. Năm
1875, một người đàn ông có tên là Victor Lauren đã xây dựng tại Việt Nam một phân
xưởng nhỏ, cơ sở vật chất thô sơ nhà gạch lợp ngói, nhà hơi đốt bằng củi, sử dụng công
nghệ thủ cơng của miền Nam nước Pháp. 5 năm sau đi vào hoạt động chính thức, sản
xuất bia, nước ngọt và nước đá, rồi chính thức sáp nhập vào hệ thống hãng BGI của Pháp
(1927). Thời đó, với đội ngũ kỹ thuật giỏi và quá trình đổi mới, nâng cấp công nghệ, nhà
máy này đã khép kín quy trình sản xuất từ nguyên liệu đầu vào đến tiêu thụ sản phẩm
trên toàn phạm vi miền Nam. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đại diện
hng BGI đã ký kết biên bản bàn giao lại cơ sở lúc này đã xập xệ, xuống cấp cho công ty
Bia Rượu Miền Nam quản lý (22-9/1977) và được đổi tên thành Nhà máy Bia Sài Gòn,
chuyển sang thời ký mới – hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung của nền kinh tế
XHCN.
Ngay trong năm đầu tiếp quản, tập thể cán bộ công nhân viên nhà máy đã phải nỗ lực
duy trì sản xuất, khắc phục khó khăn, thách thức: hệ thống thiết bị xuống cấp, nguyên
liệu tồn kho cạn dần trong khi nguồn bổ sung không được bao nhiêu, nhiên liệu cung cấp
thiếu thốn và nhỏ giọt; phụ tùng tồn kho để sửa chữa đã cạn; sức mua của người dân suy
giảm, nhiều đơn vị thương nghiệp giảm chi tiêu nhập hàng, đời sống người lao động lao
đao. Mặc dầu lãnh đạo công ty lúc bấy giờ hết sức tích cực chủ động xoay sở tìm cách
tháo gỡ nhưng cũng chỉ đủ để sản xuất cầm chừng thậm chí có lúc sản xuất để giữ men.
Trong bối cảnh sóng gió đó, tập thể nhà máy đã một lòng phát huy sức mạnh, phát động,
thực thi hiệu quả hàng loạt các phong trào thi đua,cải tiến hợp lý hoá giữ vững sản xuất.
Năm 1985, kỳ tích cuối cùng đã xuất hiện: Nhà máy sản xuất được 760 tấn Malt từ lúa
mì, nhờ đó mà có đủ nguyên liệu để sản xuất liên tục. Cũng năm đó, hệ thống chiết bia
lon được lắp đặt hoàn chỉnh, sản phẩm bia lon đầu tiên do Việt Nam ra đời, tạo nên kỳ
tích “đúp (double) cho nhà máy.
Để đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, nhà máy còn thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu,
ứng dụng khoa học như dùng Exim để giảm tiêu hao nguyên liệu nhập, dùng Matures để
rút ngắn chu kỳ lên men tăng sản lượng. Bằng vào tinh thần sáng tạo, nhà máy đã tạo
được cú “lội ngược dòng” ngoạn mục. Tháng 2-1992, thị trường biaViệt Nam lần đầu
8
tiên biết đến bia Sài Gòn dán nhãn với kiểu dáng đẹp, ưu thế hơn hẳn so với các loại chai
500ml trước. Các sản phẩm bia lon 333, Bino, Gấu Trắng cũng được đưa vào thăm dò
trên thị trường, trong đó bia lon 333 được cả thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng từ
đó đến nay. Các sản phẩm của nhà máy được người tiêu dùng tín nhiệm, không đủ hàng
cung cấp cho các dịp lễ tết. Quy mô tổ chức của nhà máy ngày càng lớn mạnh do có sự
sáp nhập của nhà máy nước đá Sài Gòn. Nhà máy cơ khí Rượu bia, Nhà máy nước
Khoáng ĐaKai, cùng với việc thành lập 2 liên doanh với nước ngoài sản xuất lon nhôm
(công ty Carnaud Metalbox Sài Gòn) và bao bì thuỷ tinh (Công ty Thuỷ tinh Malaya –
Việt Nam)
Giữa năm 1997, cơn bảo khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới và khu vực nổ ra,
gây ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế Việt Nam nói chung và công ty bia Sài Gòn nói
riêng. Cùng thời điểm, công ty cũng gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các loại bia địa
phương, bia liên doanh và nước ngoài: Sản xuất bia lon có lc đ tồn kho trên 800.000
thùng. Trước tình hình đó, Công ty Bia Sài Gòn vẫn tiếp tục kiên trì thực hiện chương
trình đầu tư cải tạo cơ sở, nâng cao sản lượng, chất lượng, góp phần tăng sức cạnh tranh
của sản phẩm, giữ vững tốc độ tăng trưởng. Hàng loạt thiết bị được khẩn trương đầu tư,
lắp đặt 28 tank TBF (1994), đưa hai máy phát điện 1.500KV/máy vào hoạt động, hoàn
toàn dây chuyền sản xuất nút chất lượng cao với miếng lót bằn nhựa PVC đảm bảo cung
cấp đủ nút; hoàn thành dây chuyền chiết bia chai số 2 công suất 30.000 chai/giờvà đưa
vào hoạt động hệ thống lọc số 2 công suất 300hl/giờ. Đến cuối năm 1995, 80% thiết bị
sản xuất chính của công ty được đổi mới. Lần lượt trong các năm 1994, 1996 Công ty bia
Sài Gòn tung ra những sản phẩm mới; sản phẩm bia chai Sài Gòn được chụp giấy bạc ở
đầu chai tạo tính thẩm mỹ, tăng khả năng chống hàng giả và bia chai suất khẩu “Sài Gòn
Export” 355ml bước đầu được thị trường chấp nhận. Từ chỗ lao đao trên bờ vực phá sản,
công ty Bia Sài Gòn đã vươn mình trở thành một doanh nghiệp có tiềm năng, kinh doanh
hiệu quả và hơn thế nữa đã góp phần vực dậy một số doanh nghiệp đang lâm vào cảnh
khó khăn như Công ty Bia Sóc Trăng, Công ty Rượu Bình Tây.. tiến bước sang giai đoạn
phát triển vững vàng.
Chuẩn bị cho những bước tiến mạnh mẽ trong thế kỷ 21, công ty đã lập dự án đầu tư
thay thế toàn bộ các tank lên men thế hệ cũ bằng các tank outdoor, đồng thời lập luận
chứng kinh tế, kỹ thuật xây dựng nhà máy bia mới và hiện đại với công suất giai đoạn
đầu 100triệulít/năm bằng nguồn vốn tự có của công ty. Đồng thời, công ty đã nghiên cứu
và cho ra đời sản phẩm mới Bia chai Sài Gòn Special – loại bia cao cấp được sản xuất từ
100% malt hướng tới đối tượng người thu nhập cao. Dòng sản phẩm công ty sản xuất
được tín nhiệm của người tiêu dùng bình chọn vào “5 ngành hàng nước giải khát được
ưa thích nhất”, “Thương hiệu tín nhiệm” trong 22 năm (1977-1999), “Hàng Việt Nam
chất lượng cao” cùng rất nhiều giải thưởng, huy chương, bằng khen cao quý khác. Hệ
thống chi nhánh, các thành viên và các lĩnh vực hoạt động cũng được mở rộng hơn trước
rất nhiều trở thành Tổng Công ty Bia – Rượu – NGK Sài Gòn – một doanh nghiệp Việt
Nam lớn mạnh với tầm cỡ tập đoàn, đầu ngành đại diện cho Bia – Rượu – NGK Việt
Nam đủ sức đứng vững và đi lên mạnh mẽ khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới.
Một số ý kiến về phát triển Tập đoàn Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam
9
. Thực trang phát triển ngành Bia-Rượu-Nước giải khát của Việt
Nam. Thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Bia - Rượu - Nước giải khát Việt
Nam đến năm 2010, trong thời gian qua, ngành Bia - Rượu - Nước giải khát ở nước ta
nhìn chung đã đạt được những kết quả khả quan, không ngừng phát triển với tốc độ tăng
trưởng cao và đã hạn chế việc đầu tư phát triển tràn lan, kém hiệu quả. Các Bộ, ngành đã
phối hợp tốt trong công tác quản lý, hướng dẫn thực hiện quy hoạch. Việc sắp xếp lại
ngành đã có nhiều tiến triển tốt. Các doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành tích cực triển
khai công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, thực hiện cổ phần hoá và bước đầu đã thu
được những kết quả khả quan. Một số doanh nghiệp thuộc ngành hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao,
thương hiệu có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước, khả năng cạnh tranh
cao, tăng thu cho ngân sách nhà nước, tạo thêm việc làm, thu nhập ổn định cho
người lao động, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, tổng công ty Bia - Rượu Nước giải khát Hà Nội (Habeco) và Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn
(Sabeco) là những đơn vị đóng góp tích cực trong toàn Ngành bằng việc nâng cao chất
lượng sản phẩm, huy động tối đa công suất thiết bị hiện có, nâng cao hiệu quả đầu tư của
các doanh nghiệp quốc doanh địa phương và một số doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế khác trong toàn quốc.
Sản lượng sản xuất cụ thể của từng loại được mô tả trong bảng dưới đây:
Toàn Ngành có 50 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực với
tổng số vốn đầu tư đăng ký là 1.324,7 triệu USD. Trong đó có 25 dự án hoạt động theo
hình thức 100% vốn nước ngoài với số vốn đầu tư đăng ký 622 triệu USD, 24 dự án liên
doanh với số vốn đầu tư đăng ký 702,69 triệu USD và một dự án hợp doanh sản xuất
nước khoáng đóng chai.
Trong khi các ngành sản xuất rượu và nước giải khát chủ yếu vẫn duy trì các hoạt
động đầu tư đã có với những tên tuổi như: Công ty Cổ phần Cồn Rượu Hà Nội, Công ty
Cổ phần Rượu Bình Tây, Công ty Rượu Đồng Xuân, Công ty Cổ phần Vang Đà Lạt,
Công ty Coca-Cola Việt Nam và Công ty Nước giải khát quốc tế IBC (Pepsi) v.v... thì
sản xuất bia đạt mức tăng trưởng mạnh và thu hút được nhiều dự án đầu tư nhất.
Có thể kể các dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất bia như sau: Tổng công ty BiaRượu-Nước giải khát Hà Nội đã hoàn thiện dự án nâng công suất Nhà máy Bia Hà Nội
tại 183 Hoàng Hoa Thám lên 100 triệu lít/năm (năm 2004), đưa vào sử dụng đạt hiệu quả
cao, nâng sản lượng sản xuất từ 78 triệu lít bia năm 2003 lên 95 triệu lít bia năm 2004; và
đang triển khai Dự án đầu tư mới Nhà máy Bia tại Vĩnh Phúc công suất 100 triệu lít/năm.
Hoàn thành xong Dự án đầu tư chiều sâu, đổi mới, hiện đại hóa thiết bị công nghệ của
Công ty cổ phần Bia Thanh Hoá, nâng năng lực sản xuất từ 20 triệu lít lên 50 triệu lít năm
2004.
Tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải khát Sài Gòn đã đầu tư chiều sâu, nâng công
suất Công ty Bia Sài Gòn từ 160 triệu lít lên 210 triệu lít/năm; đầu tư Nhà máy Bia Sài
Gòn-Cần Thơ với công suất 15 triệu lít/năm và tiếp nhận Nhà máy Bia Sóc Trăng của địa
phương từ hoạt động thua lỗ, nợ đọng thuế nay đang phát triển hiệu quả, góp phần phát
10
triển công nghiệp tại địa bàn, thu nộp ngân sách cao. Ngoài ra, Tổng công ty đang tiến
hành thực hiện dự án đầu tư mở rộng công suất như: Dự án Nhà máy Bia Củ Chi, công
suất 200 triệu lít bia/năm.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng về bia và vươn lên giữ vai
trò chủ đạo, hai Tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải khát Hà Nội và Bia-Rượu-Nước giải
khát Sài Gòn đang gấp rút chuẩn bị các thủ tục, triển khai các giai đoạn trong các dự án
đầu tư chiều sâu, mở rộng, đầu tư mới theo Quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, một số không đầu tư mới, cố gắng huy
động hết công suất cho phép; một số doanh nghiệp sản xuất đã đạt công suất thiết kế và
có nhu cầu đầu tư mở rộng năng lực sản xuất và đầu tư mới.
Ngoài ra, cũng phải nói thêm rằng; một số doanh nghiệp không chuyên sản xuất bia
cũng đã đầu tư vào lĩnh vực này như: Vinamilk, Vinashin, Vinataba… đã làm cho lĩnh
vực đầu tư ngành bia trở nên sôi động và nóng bỏng.
Hiện nay, một số hãng bia nổi tiếng trên thế giới (Hoa Kỳ, Nam Phi, Đan Mạch,...)
đang xúc tiến tìm hiểu thị trường bia Việt Nam và có mong muốn được hợp tác liên
doanh với các doanh nghiệp sản xuất bia hàng đầu ở Việt Nam để góp vốn, áp dụng khoa
học, công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng bia nội, mở mang thị trường xuất
khẩu...
SABECO TIẾP TỤC ĐẠT DANH HIỆU HÀNG VIỆT NAM CHẤT LƯỢNG CAO
2009
Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn – SABECO tiếp tục đạt danh
hiệu Hàng VIệt nam Chất lượng cao 2009. Kết quả chính thức này dựa trên danh sách
các doanh nghiệp được người tiêu dùng bình chọn với cỡ mẫu điều tra 2/10.000 của báo
Sài Gòn Tiếp Thị.
Đây cũng là kết quả điều tra được tổ chức hàng năm của Báo Sài Gòn Tiếp Thị trên hành
loạt các doanh nghiệp sản xuất nhóm sản phẩm liên quan đến kinh tế xã hội, dời sông dân
sinh. Đây là lần thứ 13 liên tiếp sản phẩm của Sabeco đạt danh hiệu "Hàng VIệt nam
Chất lượng cao".Trong các doanh nghiệp liên quan đến sản phẩm đồ uống không cồn,
cùng với Sabeco có Công ty cổ phần Nước giải khát Chương Dương cũng đứng trong
danh sách được bình chọn.
Nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp với người tiêu dùng, năm nay, sau khi có
kết quả điều tra, báo Sài Gòn Tiếp Thị đã đăng tải công khai kết quả sơ bộ, trưng cầu ý
kiến thẩm định của người tiêu dùng về các lĩnh vực: chất lượng hàng hoá, giải quyết môi
trường, trách nhiệm với người lao động. Ban tổ chức cũng đã trưng cầu ý kiến thẩm định
liên quan đến các lĩnh vực tại các địa phương mà doanh nghiệp trú đóng.
Tiêu chí trên cũng nhận được công văn thẩm định của các cơ quan: Kế hoạch và đầu tư,
Công thương, Y tế, Tài nguyên và môi trường, Lao động thương binh và xã hội, Thuế
của các tỉnh thành và Trung ương. Ban tổ chức chỉ công nhận kết quả đối với các đơn vị
có hồ sơ thông tin doanh nghiệp minh bạch được gửi về ban tổ chức để thực hiện các
công đoạn thẩm định. Kết quả này là đợt công bố chính thức cuối cùng các doanh nghiệp
đã đáp ứng các yêu cầu trên
NHÀ MÁY BIA SÀI GÒN – NGUYỄN CHÍ THANH: HOÀN THÀNH SỚM KẾ
HOẠCH 2008
11
Vào lúc 17 giờ ngày 16.12.2008 Nhà máy Bia Sài Gòn – Nguyễn Chí Thanh đã hoàn
thành kế hoạch. Kế đo, ngày 28.12.2008, Nhà máy Bia Sài Gòn - Củ Chi cũng đã hoàn
thành kế hoạch
Với sản lượng 162 triệu lít bia các loại, Nhà máy Bia Sai Gòn – Nguyễn Chí Thành là
nhà máy sản xuất bia đầu tiên trong Tổng công ty hoàn thành kế hoạch năm 2008.
Ban Thường vụ CĐ TCT tặng hoa chúc mùng NM Bia NCT hòan thành kế hoạch
Ngay sau khi hoàn thành kế hoạch của Nhà máy, Ban Thường vụ Công đoàn Tổng công
ty xuống các phân xưởng để chúc mừng CB CNV đã có một năm phấn đấu, vượt qua khó
khăn để hoàn thành.
Nhân dịp này Chủ tịch Công đoàn Tổng công ty cũng đã ký Quyết định khen thưởng cho
toàn thể đoàn viên trong Tổng công ty (Khối Công ty mẹ) với mỗi đoàn viên 100.000
đồng.
* Sau một năm đưa vào sản xuất nhà máy hiện đại bậc nhất Đông nam Á. Đến ngày
28.12.2008 Nhà máy Bia Sài Gòn – Củ Chi cũng đã hoàn thành kế hoạch với sản lượng
180 triệu lít bia các loại
NGÀNH BIA RƯỢU-NGK VIỆT NAM: PHÁT TRIỂN BÊN VỮNG, ĐẢM BẢO VỆ
SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
Theo Viện Chiến lược và chính sách Công nghiệp, để thực hiện được mục tiêu và định
hướng phát triển ngành bia- rượu- NGK, cần có sự phát triển đồng bộ giữa các bộ ngành
trung ương trên cơ sở phân định rõ chức năng, trách nhiệm của từng cấp.
Bộ Công Thương vừa tổ chức nghiệm thu Quy hoạch phát triển ngành bia- rượu-NGK
Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2025 do Thứ trưởng Bộ Công Thương- Bùi Xuân Khu
chủ trì.
Theo Thứ trưởng Bùi Xuân Khu, việc quy hoạch phải đảm bảo sản lượng bia đáp ứng
người tiêu dùng, phát triển mạnh các thương hiệu hiện tăng cường hợp tác quốc tế để có
sản phẩm cao cấp phục vụ xuất khẩu, hạn chế tối đa các loại rượu có hàm lượng độc hại
cao, tìm sản phẩm thế mạnh để xây dựng thương hiệu “Quốc tửu”.
Mục tiêu của việc quy hoạch ngành bia- rượu- NGK, nhằm phát triển theo hướng bền
vững, chú trọng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) và môi trường sinh thái,
phát triển ngành dựa trên cơ sở huy động nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế, dưới
mọi hình thức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội; áp dụng công nghệ, thiết bị tiên
tiến, tập trung xây dựng một số thương hiệu mạnh quốc gia để cạnh tranh hiệu quả trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, xây dựng ngành bia- rượu- NGK thành
ngành kinh tế quan trọng, có thương hiệu hàng hoá cạnh tranh trên thị trường, các sản
phẩm có chất lượng cao, có uy tín, đa dạng hoá về chủng loại, bao bì, mẫu mã, có khả
năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất
khẩu.
Đối với công nghiệp sản xuất bia, tập trung cải tạo, mở rộng đồng bộ hóa thiết bị, nâng
công suất các nhà máy hiện có, đặc biệt là nhà máy gắn với các thương hiệu lớn để nâng
cao hiệu quả của ngành bia, rượu, NGK . Xây dựng các nhà máy có quy mô công xuất
50-100 triệu lít/năm trở lên gắn với các thương hiệu lớn. Dự kiến tổng công suất tăng
thêm trong giai đoạn 2008- 2010 là 954 triệu lít/năm, trong đó công xuất đầu tư mở rộng
534 lít, công xuất đầu tư mới 420 lít và từ 2011- 2015 là 1.715 triệu lít/năm, trong đó
công xuất đầu tư mở rộng 1.065 triệu lít/năm và đầu tư mới là 650 triệu lít/năm. Các nhà
máy quy mô vừa và nhỏ cần đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại, liên kết hoặc sáp
12
nhập với các DN lớn để phát triển trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt. Kiên quyết không
cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án quy mô quá nhỏ (bia với công suất dưới 20
triệu lít/năm; rượu với công suất dưới 5 triệu lít/năm) và các dự án áp dụng công nghệ,
thiết bị lạc hậu, không đảm bảo VSATTP hoặc các dự án không đầu tư hệ thống xử lý
nước thải công nghiệp.
Đối với rượu, khuyến khích phát triển sản xuất rượu quy mô công nghiệp chất lượng cao,
giảm dần rượu nấu thủ công quy mô gia đình. Kết hợp nấu rượu thủ công có cải tiến công
nghệ ở các làng nghề với thu gom xử lý theo quy mô công nghiệp ở các công ty, để xản
xuất rượu mang màu sắc truyền thống, không độc hại. chú trọng phát triển rượu vang từ
các loại hoa quả tươi gắn với phát triển các vùng nguyên liệu ở các địa phương. Đẩy
mạnh các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất NGK với quy mô lớn, thiết bị công nghệ
hiện đại, đảm bảo VSATTP, bảo vệ môi trường, sử dụng nguyên liệu trong nước kết hợp
với xây dựng vùng nguyên liệu, trong đó ưu tiên sản xuất NGK từ hoa quả và các NGK
bổ dưỡng.
Đối với ngành công nghiệp phụ trợ, xem xét đầu tư thêm hoặc mở rộng các nhà máy thủy
tinh đã có để có thể nâng công suất lên gấp 1,5 lần đạt 750 triệu chai vào năm 2010, đầu
tư mở rộng thêm 200 triệu vỏ lon và mỗi thời kỳ cần bổ sung thêm công xuất khoảng 1 tỷ
lon. Việc nhập khẩu malt cũng là vấn đề đang được các nhà sản xuất quan tâm, để giảm tỉ
lệ nhập khẩu malt và cần kêu gọi đầu tư sản xuất malt trong nước, nhằm chủ động
nguyên liệu sản xuất, đáp ứng 40-50% nhu cầu.
Theo Viện Chiến lược và chính sách Công nghiệp, để thực hiện được mục tiêu và định
hướng phát triển ngành bia- rượu- NGK, cần có sự phát triển đồng bộ giữa các bộ ngành
trung ương trên cơ sở phân định rõ chức năng, trách nhiệm của từng cấp. Cần đầu tư nâng
cấp, mở rộng công suất và đầu tư các nhà máy mới với tổng nhủ cầu vốn đầu tư giai đoạn
đến năm 2015 là 37.403 tỷ đồng, giai đoạn 10 năm tiếp theo cần 69.206 tỷ đồng.
Theo Báo Công Thương
2.2.1. Sản phẩm của công ty hiên nay đã và đang nhiểu người ưa chuộn
Tên thương hiệuSaigon Export
Thông điệp:“Saigon Export – Không bóng bẩy, không phải ồn ào, không cầu kỳ,
không cần phô trương, uống thì hiểu”Sản phẩm bia Saigon Export được sản xuất theo
phương pháp len men truyền thống dài ngày, tạo ra một hương vị đậm đà và quen thuộc.
Đây là nhãn hiệu sản phẩm dẫn đầu tại thị trường bia Việt Nam.
“Tôi uống bia Saigon Export vì đây là loại bia ngon có chất lượng rất tốt và ổn định, cảm
nhận khi uống rất phù hợp với gu bia của tôi”: đây chính là nhận xét chung của người tiêu
dùng hiện đang sử dụng bia Saigon Export.
Sản phẩm bia Saigon Export đã và đang được xuất khẩu đến hơn 18 nước trên thế giới
với những thị trường bia thật sự khó tính và lâu đời như: Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Đức,
Hà Lan, Nhật Bản, Úc, Singapore, Hàn Quốc, HongKong…
Bia Saigon không gây háo nước và nhức đầu sau khi uống
Tên thương hiệu: 333
Thông điệp:“333 – Thế giới ngày càng thêm ưa chuộng”
Tên thương hiệu: Saigon Lager
Thông điệp:“Saigon Lager – Bia của người Việt Nam”Có mặt trên thị trường từ năm
1992, bia Saigon Lager đã và đang nhận được nhiều sự tín nhiệm sử dụng của hàng triệu
người uống bia Việt Nam.
13
Sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại tiên tiến hàng đầu trên thế giới dưới sự điều
hành của đội ngũ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề, bia Saigon Lager đem đến cảm
nhận sảng khoái, tươi mát và đậm đà cho người sử dụng.
Bia Saigon không gây háo nước và nhức đầu sau khi uống
Thương hiệu: Saigon Special.
Thông điệp:
“Saigon Special – Chất men của thành công”
Sản phẩm bia Saigon Special với thành phần 100% malt (không có gạo), được sản xuất
trên dây chuyền công nghệ hiện đại tiên tiến bậc nhất khu vực và lên men theo công nghệ
truyền thống dài ngày tạo nên một hương vị ngon và độc đáo khác hẳn với các sản phẩm
bia khác trên thị trường.
Saigon Special là loại bia đặc biệt dành cho người tiêu dùng trẻ trung, năng động và
thành công trong cuộc sống.
Bia Saigon không gây háo nước và nhức đầu sau khi uống.
2.3. Mặt mạnh , mặt hạn chế của công ty.
.2.3.1. Mặt mạnh của công ty
Việt Nam gia nhập WTO, vừa mang lại những
cơ hội to lớn, vừa đem lại những thách thức gay gắt cho quá trình phát triển kinh tế đất
nước nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Đây là dịp tổng CÔNG TY BIA SAI
GON có cơ hội tiếp cận với thị trường lớn, có nhu cầu đa dạng và được hưởng quy chế
tối huệ quốc của các nước thành viên WTO. Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội
mở rộng xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng, nhờ được hưởng thành quả hơn 50 năm
đàm phán giảm thuế và hàng rào phí thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO. Gia
nhập WTO sẽ là một bước tiến lớn trong quá trình hội nhập của nước ta vào nền kinh tế
quốc tế. Thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ tiếp nhận được không chỉ các công nghệ cao trong sản xuất, mà cả những kinh
nghiệm quản lí hiện đại và công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân ông nghiệp lành
nghề. Khi thực hiện Hiệp Định về Các Biện Pháp Đầu Tư liên quan đến thương mại, Việt
Nam phải từng bước loại bỏ những hạn chế không hợp lí trong lĩnh vực đầu tư. Nhờ đó
môi trường đầu tư sẽ trở nên hấp dẫn hơn và thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài hơn.
Tham gia WTO, Việt nam còn có cơ hội tăng cường vị thế quốc tế và bảo vệ quyền lợi
14
của mình. Việt Nam sẽ có lợi trong việc giải quyết tranh chấp với các cường quốc thương
mại, do tiếp cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO,
tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Tuy
nhiên, do sức cạnh tranh của hang hóa và doanh nghiệp chưa cao, hơn nữa lại giảm thuế
và hàng rào phi công nghiệp Việt nam sẽ gặp không ít khó khăn. Hội nhập, một mặt thêm
rất nhiều cơ hội thâm nhập thị trường quốc tế, mặt khác cũng phải mở thị trường Việt
Nam cho các nước thâm nhập vào theo nguyên tắc có đi có về. Nếu không chuẩn bị tốt,
chủ yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, mặt tư dàn trải,
công nghệ lạc hậu hàng hóa nước ta không thể tránh được. Trong khi đó, sự bảo hộ của
nhà nước qua các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, các biện pháp đầu tư có liên quan
đến thương mại và các hạn chế quyền kinh doanh phân phối đối với một số doanh nghiệp
công nghiệp, thương mại nước ngoài sẽ giảm dần khi nhập WTO. Điếu này làm doanh
nghiệp Việt Nam gặp niều khó khăn nếu như họ không đủ các yếu tố về vơ bản như vốn,
công nghệ cao, cán bộ công nhân được đào tạo tốn…
Về cơ bản, các chính sách của nhà nước đối với các doanh ngiệp trong nước nói chung
các doanh nghiệp đồ uống nói riêng có gì thay đổi. Tuy nhiên, với chính sách thúc đẩy tự
do hóa thương mại, WTO chỉ cho phép bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan, với
mức thuế bình quân ngày càng giảm sau các vòng đàm phán chung về thương mại, và chỉ
trong những bối cảnh nhất định mới cho phép sử dụng một số biện pháp phi thuế với
những điều kiện cụ thể. Vì vậy, các hình thức bảo hộ của nhà nước đối với doanh nghiệp
thông qua các biện pháp phi thuế ( hạn ngạch, giấy phép, thủ tục hải quan, trợ cấp…) sẽ
bị bãi bỏ khi gia nhập WTO.
Đối vơi nhóm sản phẩm bia, rượu đều là những sản phẩm được bảo hộ với thuế xuất nhập
khẩu rất cao, do được xếp vào nhóm hàng tiêu thụ đặc biệt, không phục vụ nhu cầu thiết
yếu. Hơn nữa, hầu hết các nhãn sản phẩm nổi tiếng trên thế giới trong lĩnh vực bia, rượu,
nước giải khát đều đã đầu tư hoặc liên doanh với công ty trong nước sản xuất các sản
phẩm này ngay tại Việt Nam. Vì vậy, sẽ ít có sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường
ngành đồ uống. Nhóm sản phẩm sữa, nước giải khát cũng ít chịu tác động mạnh mẽ của
việc gia nhập WTO. Tuy nhiên, để có thể tận dụng mội cơ hội mang lại khi gia nhập
WTO, tham gia một cách chủ động, tích cực vào quá trình hội nhập, có thể cạnh tranh
ngay trên thị trường nội địa, và hướng tới tham gia thị trường quốc tế, ngành đồ uống
Việt Nam cần phát triển theo hướng lựa chọn, tập trung phát triển những nhóm sản phẩm
có khả năng cạnh tranh; đồng thời, huy động mạnh mẽ những năng lực còn tiềm ẩn, đẩy
mạnh đầu tư và đầu tư có trọng điểm, kết hợp đầu tư mới và đầu tư chiều sâu, đổi mới
công nghệ, áp dụng rộng rãi những phương pháp quản lí tiên tiến, nhằm tăng năng suất
lao động, giảm chi phí sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng cá quy định của
WTO về vệ sinh an tòan thực phẩm
2.3.2. Mặt hạn chế của công ty.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, ngành Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam
vẫn còn tồn tại một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Số lượng cơ sở sản xuất nhỏ tuy đã giảm nhưng vẫn còn nhiều, phân tán, thiết bị
công nghệ lạc hậu, chất lượng không ổn định, không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Không có hoặc có ít thị trường tiêu thụ, cạnh tranh không bình đẳng, nộp ngân sách Nhà
nước thấp, sản xuất kinh doanh thua lỗ, nợ đọng thuế;
- Chủng loại và danh mục sản phẩm còn ít, nhãn mác bao bì chưa phong phú, chưa
có nhiều sản phẩm cao cấp nên cạnh tranh kém, xuất khẩu chưa đáng kể;
15
- Hàng giả, nhái nhãn mác, hàng nhập lậu trốn thuế… vẫn chưa được ngăn chặn
triệt để, không kiểm tra được, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất nghiêm
chỉnh;
- Ngành rượu chưa phát triển, công nghệ thiết bị lạc hậu, thiếu vốn cho đầu tư, nâng
cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh kém. Rượu cao cấp tiêu thụ trên thị trường
chủ yếu là hàng nhập khẩu, nhập lậu. Rượu sản xuất công nghiệp không cạnh tranh được
với rượu dân tự nấu, rượu ngoại nhập lậu; Rượu nấu bằng phương pháp thủ công (tự nấu,
tự tiêu thụ) chủ yếu ở vùng nông thôn, miền núi cho đến nay vẫn chưa có biện pháp nào
để kiểm soát chất lượng cũng như quản lý để bảo đảm an toàn, sức khoẻ người tiêu dùng;
- Hoa quả Việt Nam rất phong phú và đa dạng, nhưng công nghiệp chế biến còn
nhỏ bé, chưa phát triển;
- Công tác quản lý nhà nước về kỹ thuật công nghệ, vệ sinh an toàn thực phẩm, biện
pháp chống hàng giả, kém chất lượng, hàng nhập lậu còn lỏng lẻo, chưa phát huy tác
dụng mạnh mẽ, nhất là quản lý rượu dân tự nấu.
Những tồn tại trên đây nếu không sớm khắc phục sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sức cạnh tranh của các ngành Rượu – Bia - Nước giải khát, thậm chí đe doạ đến sự
tồn tại của hàng loạt doanh nghiệp, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3.3. Các đối thủ cạnh tranh:
Tuy nhiên nhìn lại chặng đường trong 2008 vừa qua, hội Rượu bia và nước giải
khát Việt Nam sau khi gia nhập WTO 2006, nhiều doanh nghiệp sản xuất rượu, bia của
Việt Nam sẽ đối mặt sự cạnh tranh rất khốc liệt.
Theo số liệu của Bộ Công nghiệp, cả nước hiện có trên 300 cơ sở sản xuất bia với công
suất thiết kế 1,7 tỷ lít/năm. Trong số các nhà máy bia hiện đang hoạt động có 19 nhà máy
đạt sản lượng sản xuất thực tế trên 20 triệu lít, 15 nhà máy bia có công suất lớn hơn 15
triệu lít, còn lại phần lớn các cơ sở chỉ có năng lực sản xuất dưới 1 triệu lít/năm.
Nhận định của Hiệp hội Rượu bia và nước giải khát cho biết, hiện thuế tiêu thụ đặc biệt
với bia chai sản xuất trong nước và nhập khẩu là 75%, bia hơi và bia tươi năm 20062007 là 30% từ năm 2008 là 40%. Trường hợp áp dụng mức thuế suất mới theo lộ trình
gia nhập WTO, đa số các doanh nghiệp bia địa phương có khả năng lỗ và gặp nhiều khó
khăn trong sản xuất kinh doanh cũng như đầu tư phát triển.
Bộ Công nghiệp cho biết, hiện chỉ những nhà máy bia có công suất trên 100 triệu lít tại
Việt Nam mới có thiết bị hiện đại, tiên tiến, được nhập khẩu từ các nước có nền công
nghiệp phát triển mạnh như Đức, Mỹ, Ý... Các nhà máy bia có công suất trên 20 triệu lít
cho đến nay cũng đã được đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, tiếp thu trình độ công nghệ
tiên tiến vào sản xuất. Các cơ sở còn lại với công suất thấp vẫn đang trong tình trạng thiết
bị, công nghệ lạc hậu, yếu kém, không đạt yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm.
Việt Nam hơn 10 năm nay, các thương hiệu bia có tên tuổi trên thế giới như Heineken,
Carlsberg... đã đầu tư vào Việt Nam. Vì vậy ngành bia Việt Nam tuy chưa hội nhập,
nhưng cũng đã làm quen với cạnh tranh.
Thời gian qua nhiều doanh nghiệp sản xuất bia đã chuẩn bị cho hội nhập khá tốt, các
doanh nghiệp lớn như Bia Sài Gòn, Bia Hà Nội... đã liên tục đầu tư trang thiết bị mới, mở
16
rộng địa bàn hoạt động và nâng cao công suất. Đến nay các doanh nghiệp này đã có
những dây chuyền thiết bị hiện đại hàng đầu cả nước, không kém gì các doanh nghiệp
liên doanh, bên cạnh đó thương hiệu Bia Hà Nội hay Bia Sài Gòn cũng đã khá nổi tiếng,
chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm được đảm bảo, chính vì vậy sức cạnh tranh rất tốt.
Nhưng ngược lại các cơ sở sản xuất bia tại địa phương còn rất nhiều khó khăn. Phần lớn
các doanh nghiệp này có công suất thấp, trang thiết bị lạc hậu và thương hiệu kém nổi
tiếng, an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng sản phẩm thấp, công suất thấp. Trong thời
gian qua các doanh nghiệp này đầu tư cho sản xuất không nhiều, chuẩn bị cho hội nhập
kém.
Khi ngành bia, rượu hội nhập WTO, giữa các doanh nghiệp bình đẳng, có chung một
mức thuế như nhau, chắc chắn nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ, phải ngừng
sản xuất. Trên thực tế điều này đã diễn ra trong thời gian qua, số lượng các cơ sở sản xuất
bia đã giảm từ 469 cơ sở năm 1998 xuống 329 cơ sở năm 2004.
Tốc độ tăng trưởng của ngành bia được dự báo vẫn khá cao khoảng 15%/năm, vào 2010
nhu cầu về bia tại Việt Nam sẽ vào khoảng 2,5-2,7 tỷ lít. Năm 2006 mức tiêu thụ đạt
khoảng 1,7 tỷ lít. Nhưng không phải như vậy là tất cả các doanh nghiệp đều có phần.
Chỉ những doanh nghiệp có tiềm lực mạnh mới có tương lai. Những doanh nghiệp này sẽ
ngày càng phát triển do họ có vốn, không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất để chiếm thị
phần và điều đó sẽ làm cho thị phần của các doanh nghiệp nhỏ bị thu hẹp. Bên cạnh đó,
bia nhập khẩu cũng sẽ thâm nhập vào thị trường Việt Nam và sự cạnh tranh sẽ khốc liệt
hơn nhiều.
Trong thời gian quan nhiều doanh nghiệp bia lớn đã đẩy mạnh đầu tư nâng cao công
suất bia để đáp ứng nhu cầu thị trường. Tổng Công ty Bia rượu nước giải khát Hà Nội đã
khởi công xây dựng nhà máy bia đầu tư mới tại tỉnh Vĩnh Phúc với công suất 100 triệu
lít/năm, sau đó sẽ mở rộng lên 200 triệu lít/năm vào năm 2010. Vốn đầu tư khoảng 2.000
tỉ đồng.
Tổng Công ty Bia rượu nước giải khát Sài Gòn đang triển khai dự án đầu tư xây dựng
nhà máy bia Củ Chi công suất 100 triệu lít (giai đoạn 1) và sẽ mở rộng lên 200 triệu
lít/năm (giai đoạn 2). Tổng mức đầu tư gần 2.000 tỉ đồng, với thiết bị đồng bộ, hiện đại,
công nghệ tiên tiến.
Các doanh nghiệp sản xuất bia có vốn đầu tư nước ngoài, một số đã đạt công suất cho
phép (theo quy định tại giấy phép đầu tư) nay cũng đang xin phép tăng vốn đầu tư và
nâng công suất. Công ty bia Việt Nam (sản xuất các sản phẩm bia Heineken, Tiger...) đã
xin nâng công suất từ 150 triệu lít lên 230 triệu lít/năm...
2.4.Trước tình hình thực trạng công ty trong những năm trôi qua làm thế nào để tìm ra
lối thoát trong công ty, biên pháp như thế nào được coi là vấn đề cấp bách nhất, nếu có
đối thủ cạnh tranh chúng ta giải quyết như thế nào
17
-tìm ra lối thoát trong công ty
+khắc phục mặc hạn chế và khó khăn thu hồi hết sản phẫm kỉm tra loại bỏ nhân
viên có ý thức kém trong hoat đông công ty, làm công tac tư tưởng
- tìm ra đối thủ cạnh tranh lam tiền đề để khắc phuc sai lầm của công ty
- tổ chức nhân sự chặt chẽ
CHƯƠNG III :,MỘT SỐ GIẢI PHÁP, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁ TRỊ SẢN
PHẨM
3. Công ty có những phương hướng chiến lược trong thời gian săptới như thế nào,
liệu trong thời gian khắc phuc hạn chế và các phương hướng chiến lược có hoàn thành
trong thời gian đề ra hay không
- phát huy cái tiềm năng sẳn có của công ty, phát triển mở rộng thương hiệu
- mở rông thị trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài
3.1.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁ TRỊ SẢN PHẨM ĐỐI
VỚI TỔNG CÔNG TY BIA SÀI GÒN
Để nâng cao chất lượng sản phâm của doanh nghiêp cần phải thực hiện tốt những
biện pháp dưới đây
Kiểm tra nghiêm ngặt việt thực hiện quy tình công nghệ sản xuất của người lao động
Bảo đảm cung cấp nguyên liệu đúng quy cách, chủng loại chất lượng thời gian vận
chyuển và bảo quản
Áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến bảo đảm hệ thống máy móc hoạt động chính xác,
nhiệp nhàng và liên tục
Luôn cải thiện hoàn thiện các mặt tổ chức trong doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm
các bộ phận quản lý(phòng ban chức năng). Áp dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế,duy
trì đội ngũ nhân viên, cần tập trung nguồn nhân lực nhân viên tài gỏi, đông viên khen
thưởng các nhân viên có tinh thần làm việt tốt và đạt thành tích đối với sản phẩm đạt
chất lượng cao, và kỉ luật các nhân viên có ý thức kém trong công việt được giao, hoặc
làm sai quy trình sản xuất các loại sản phẩm..
Tăng cường và đổi mới quản lý nhà nước đối với việc đổi mới công nghệ trong các
doanh nghiệp
Bất kỳ hoạt động kinh tế nào củng tồn tại trong một môi trường nhất định và tất yếu chịu
sự tác động của các cơ chế kinh tế và cơ chế chịu sự tác động của các cơ chế kinh tế là cơ
chế quan lý của nhà nước. Hoạt động của việt đổi mới công nghệ phụ thuộc vào vai trò
quàn lý nhà nước. Trong lỉnh vực này, vai trò của nhà nước còn được thể hiện ở các lỉnh
vực sau
-Tạo môi trường thuận lợi cho các nhà doanh nghiêp thực hiện đổi mới công nghệ. Như
chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách mở cửa, chính sách ngoại thương và chính
sách thếu.với tính chất chiến lược lâu dài
-Xác định chỉ tiêu, những giới hạn đổi mới công nghệ được chuyển giao để đào tạo cơ sỏ
cho việt thực hành, giám định kiểm tra.
-Tổ chức quan hệ quốc tế nhằm phát triển công nghệ tiên tiến tổ chức mạng lưới thông
tin và tư vấn về công nghệ mới chuyển giao công nghệ.
-Tổ chức công tác đào tạo nhằm tăng năng lực và trình độ kỷ thuật, trình độ lực lượng
lao động, kể cả lao động kỷ thuật, cán bộ nghiên cứu và cán bộ kỷ thuật,
-Đẩy mạnh quá trình công nghiêp hóa hiên đại hóa đất nước.
18
-Việt triển khai các lỉnh vực trên sẽ tạo điều kiên cho môi trường đầu tư đổi mới lành
mạnh và hiêu quả là yếu tố quang trọng cho việt triển khai đổi mới công nghệ và đang
thật sự tác động mang tính cách mạng đối với việt đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
-Quản lý khao học công nghệ là chức năng quan trọng của quản lý nhà nước. Nhà nước
cần có chiếm lược quốc gia, có danh mục định hướng công nghệ và những công nghệ nào
đượcc ưu tiên phát triển trong từng thời kỳ:
+ cần tăng tỷ lệ đầu tư vốn cho nghiên cứu, triển khai và đổi mới cơ chế cấp phát vốn
cho ngân sát cho loại hoạt động này
+ cần chú trọng công tác tác thẩm đỉnh đối với chuyển giao công nghệ
+cần coi trọng phát triển công tác thông tin khoa học và dịch vụ, công nghệ, tư vấn về
khoa học, công nghệ phục vụ đổi mới công nghệ của doanh nghiêp.
-Tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm trên cơ sở nhờ vào sự tham gia nhiệt tình
của mọi người trong doanh nghiệp.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thõa đáng nghiên cứu tiến bộ khoa học công
nghệ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp
3.1.1. Các nguyên tắc cơ bản để nâng cao chất lượng sản phẩm theo em
Muốn tác động đồng bộ đến các yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng sản Phẩm nhằm
thực hiện mục tiêu đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm thì cần phải hoạt động
quản lý chất lượng sản phải thực hiện các nguyên tắc sau
+Phát huy vai trò lảnh đạo của doanh nghiệp, tạo môi trường lao động đáp ứng người
lao động.
Giám đốc của doanh nghiêp cần xác định rõ vai trò, vị trí trách nhiệm của ban giám
đốc đồi với việt đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, phải phân công một thành
viên của mình chỉ đạo quyết tâm thực hiện yêu cầu ‘ trách nhiệm và phòng ngừa sai
sót”. Ngăn chặn sai sót trong sản xuất sẽ khắc phục được những chi tiêu hao phí do
phải chế tái lại sản phẩm hoặc sa thải sản phẩm kém chất lượng hoặc bị hư hỏng bởi
vì tổn thất do sai sót phải tái chế lại loại thưởng 15-40% doanh số.
Chú trong trong việt đào tạo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực phát huy tính sáng
tạo của đội ngũ nguồn nhân lực cán Bộ công nhân viên môt cách đầy dủ tạo cho họ
tích lủy kiến thức và kinh nghiệm phục vụ tốt lợi ích tốt của doanh nghiệp.
+định hướng chiến lược sản phẩm và mục tiêu chất lượng.
Doanh nghiệp có tồn tại và phát triển phụ thuộc vào khách hàng, bởi vậy phải biết
nhu cầu hiện tại và tương lai của họ, đáp ứng yêu cầu thực hiện quá mức mong dợi
thực hiện của họ. Trên cơ sở hoạch định chiến lược phát triển và sản xuất và mục tiêu
chất lượng sản phẩm do áp dụng công nghệ mới bắt đầu từ tự động hóa và kết thúc
bằng tự động hóa đo lường để đánh giá trong quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm.
19
+ những quyết định về hoạt động quản lý chất lượng phải dựa vào thông tin phân tích
dữ liệu
Phải thu thập quản lý thông tin và phân tích dữ liệu, so sánh ưu thế cạnh tranh, trên cơ
sở đó có những quyết định và hành động chính xác có hiêu lực
+xây dựng hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với điêu kiện của chất lượng
Việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sẻ giúp cho doanh nghiêp kiểm soát được
chất lượng của sản phẩm, cài tiến chất lượng, kiểm soát thông tin, quản lý tốt các tài
liêu,hồ sơ, đánh giá được hiêu quả của công việt không những chỉ giảm lãng phí trong
sản xuât mả còn đối quá trình nghiên cứu thiết kế…
+ cải tiến liên tục nhằm thảo mản nhu cầu khách hàng và xã hội. Là mục tiêu chiến
lược của mọi doanh nghiêp, có như vậy doanhnghiêp tồn tại và phát triển, bởi vì mục
tiêu của chất lượng nhằm vào việt đáp ứng nhu của người tiêu dùng chứ không phải
nhu cầu của nhà sản xuất
3.2.CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM BIA SÀI GÒN VÀ
CÁC CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
. Hình thành Tập đoàn Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam là giải pháp quan
trọng để nâng cao sức cạnh tranh của ngành và của các doanh nghiệp
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX đã khẳng định-, nền kinh tế nước ta đang
bước vào một thời kỳ mới của quá trình đổi mới và phát triển. Bước chuyển này gắn với
sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, của sự gia tăng nhanh áp lực cạnh tranh
và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình này tạo ra cho nền kinh tế những cơ hội phát triển
mới, nhưng cũng đặt ra những nhiệm vụ khó khăn và thách thức to lớn mới, nhất là khi
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới ( WTO).
Trên quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế, có thể nhận thấy một trong những vấn đề
cấp bách nhất đặt ra hiện nay cho các nền kinh tế mỗi quốc gia và cho các yếu tố cấu
thành của nó (ngành, vùng, doanh nghiệp, sản phẩm, v.v…) là nâng cao sức cạnh tranh.
Tuy nhiên, sức cạnh tranh chỉ được nâng cao trên cơ sở tiếp tục đổi mới cơ chế kinh
tế, đổi mới hình thức tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình đổi mới khu vực
doanh nghiệp nhà nước bằng nhiều hình thức như: tăng quyền tự chủ, xây dựng và phát
triển các tổng công ty, đẩy mạnh cổ phần hoá, v.v..; khuyến khích phát triển khu vực
doanh nghiệp tư nhân thông qua việc ban hành Luật Doanh nghiệp và các luật thuế mới,
v.v.. tạo ra những thúc đẩy mạnh mẽ năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.
Các tổng công ty đang thử nghiệm mô hình, hình thức tổ chức kinh doanh mới như
mô hình công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế mạnh. Những mô hình này được đưa
ra thảo luận sôi nổi trong phạm vi các giới hoạch định chính sách, giới kinh doanh và
những nhà khoa học. Trong tổng thể các vấn đề đó, việc hình thành và phát triển các tập
đoàn kinh tế mạnh nổi lên là một vấn đề có sức thu hút đặc biệt mạnh mẽ.
Trước hết, phải khẳng định rằng, tập đoàn kinh tế là vấn đề thực sự mới mẻ đối với
nước ta, cả trên bình diện lý luận và thực tiễn. Nhưng sức thu hút của mô hình tập đoàn
không chỉ bắt nguồn từ tên gọi, mà quan trọng hơn, nó xuất phát từ chính đòi hỏi của
20
- Xem thêm -