NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
Câu hỏi: Đồng chí hãy phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam
Trả lời:
Để trả lời câu hỏi này tôi xin được phép đề cập đến một số điểm cơ
bản sau:
Trước hết phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản
phẩm sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp ở Việt Nam dưới ánh sáng của thời đại mới; Là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Phong trào công nhân và
Phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20 của thế kỷ XX. Tại Đại
hội VII năm 1991 đã chỉ rõ: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động..."
(Trích: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Đây là
kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử của Đảng ta và
cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng; Là sự vận dụng và phát triển
sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến và có truyền thống yêu nước từ ngàn năm.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta đã vận dụng
những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng của
nước ta. Cũng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII khẳng định "Cùng
với chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh". Thật
vậy, "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại".
1
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
"Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn còn nguyên giá trị. Khi vận
dụng một quan điểm lý luận cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh ra đời, phạm vi nhiệm vụ mà nguyên lý đó
phải giải quyết. Không thể chỉ dựa vào một câu nói, một luận điểm tư tưởng
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin hay Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khi
không rõ bối cảnh ra đời của nó lại bê nguyên xi vào tình hình thực tiễn bởi
những câu nói, bài viết của các nhà kinh điển luôn gắn liền với hoàn cảnh
thực tiễn của nó.
Cần nắm chắc đặc điểm, tình hình thực tiễn của nước ta cần xác định
rõ những yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn cần giải quyết.
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đất nước, tham khảo
có chọn lọc từ đó khái quát thành những bài học cho cách mạng nước ta
trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức
quan tâm coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Sự nghiệp đổi mới
ở nước ta hiện nay đang đi vào chiều sâu, nhiều vấn đề mới như kinh tế thị
trường, kinh tế tri thức, nhà nước pháp quyền, hội nhập... đều là những vấn
đề rất mới cần được nghiên cứu, giải đáp về lý luận và thực tiễn.
Muốn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cần phải nắm vững hệ thống các quan điểm và mục tiêu
yêu cầu của từng giai đoạn... chỉ có vậy chúng ta mới có thể phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đúng đắn và khoa học.
Bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải
bảo vệ các nguyên lý lý luận của nó; là bảo vệ tính hệ thống, toàn vẹn của
2
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
những nguyên lý cơ bản đó. Cần đấu tranh với những luận điểm phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời phải tiếp tục phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đưa
những tư tưởng, quan điểm đó vào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết
thực, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh". Đó chính là cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo
điều. Đấu tranh chống chiến lược "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng
- văn hóa với những hoạt động phủ nhận chủ nghãi Mác - Lênin, xuyên tạc,
bôi đen những thành quả của chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đấu tranh với các hành động xuyên tạc, đối lập với tư
tưởng Hồ Chí Minh... Đây là kết quả tất yếu của sự chuẩn bị công phu, gian
khổ với những bước đi phù hợp thể hiện năng lực tổ chức tài tình của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc; Là sự thắng thế của tư tưởng vô sản đối với đường lối
chính trị của giai cấp tư sản. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng này hơn ai hết
đảng viên phải là người đi đầu, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường
lối, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy, điều trước hết và chủ yếu là
đảng viên phải có lập trường tư tưởng vững vàng, không mơ hồ, dao động;
phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng
và pháp luật của Nhà nước; Kiên định những vấn đề và quan điểm có tính
nguyên tắc của Đảng./.
3
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
Câu 2: Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng theo tinh thần nghị quyết Đại hội X của Đảng?
Trả lời:
Sự lãnh đạo của Đảng từ khi mới ra đời cho dù còn non trẻ qua các kỳ
Đại hội nhưng vẫn giữ vững được những truyền thống quý báu của Đảng
Cộng sản Việt Nam đó là giữ vững Cương lĩnh, đường lối đúng đắn, bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng. Tinh thần độc
lập tự chủ, vận dụng sáng tạo và vấn đề đoàn kết, tạo sự thống nhất trong
toàn Đảng luôn được đặt lên hàng đầu điều đó được thể hiện qua các cuộc
Hội nghị Ban chấp hành TW; Thể hiện trên con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với
mọi thử thách dù hiểm nghèo tưởng không thể vượt qua Đảng đã kịp thời có
những quyết sách sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn nhưng
dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng đã đưa con thuyền cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đại hội X đã khẳng định: "Hai mươi năm qua với sự nỗ lực phấn đấu
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử". Nước ta đã có sự thay đổi
cơ bản và toàn diện như:
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Kinh tế tăng trưởng
khá nhanh, sự nghiệp CNH - HĐH phát triển kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường; Chính trị xã hội ổn định; Quốc phòng - an ninh được giữ vững; Vị thế nước ta trên
4
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
trường quốc tế không ngừng được nâng cao; Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên nhiều, tạo thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
nhiều triển vọng tốt đẹp.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ngày càng sáng tỏ hơn; Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới,
về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã hình thành trên những đặc trưng chủ yếu của xã hội mà chúng ta đang xây
dựng là:
- Xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Từ
ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. đặc biệt từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng ta về
đại đoàn kết toàn dân tộc có những phát triển mới. Quán triệt tư tưởng "Lấy
dân làm gốc"; "xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động". Thực hiện Nghị quyết đại hội VI, ngày 27/3/1990 Hội nghị TW 8 đã
ra Nghị quyết 8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nhấn mạnh quan điểm: Cách mạng là sự
nghiệp của dân, do dân, vì dân. đến đại hội VIII khẳng định: "Chính những ý
kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân và nguồn gốc hình thành
đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi
mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua bao khó khăn, thủ thách mà công cuộc
đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay".
Tư duy mới về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân tộc trong thời kỳ
mới, Đảng ta đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược,
là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Tiếp tục
đường lối được xác định trong các kỳ Đại hội trước, Đại hội X đã nhấn
mạnh vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xem đó là một trong bốn
thành tố của chủ đề Đại hội;
5
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
Hiện nay, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, Đảng
xác định điểm tương đồng là "Giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc, vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Điểm tương
đồng ngày nay tổng quát hơn, dễ đạt được sự nhất trí hơn cả với đồng bào ở
trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài. Đây thực sự là một quan
điểm rất mới, thành quả của quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta:
thay thuật ngữ "đại đoàn kết toàn dân" bằng thuật ngữ "đại đoàn kết bằng
dân tộc" với nội dung đầy đủ hơn, toàn diện hơn.
Đại hội X chỉ rõ:
- Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để
gắn bó với đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong
và ngoài nước.
- Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần
giai cấp.
- Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc.
- Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi
mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
- Do nhân dân làm chủ (Cương lĩnh 1991 nói: Do nhân dân lao động làm
chủ). Đây chính là nét mới tiến bộ hơn so với Cương lĩnh 1991. Thực chất
nhân dân ở đây là nhân dân lao động, chiếm đại bộ phận dân cư. Nói nhân
dân là phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nước ta là của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, nói nhân dân làm chủ có lợi hơn cho đại đoàn kết
toàn dân.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
6
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
sản xuất; Việc bỏ cụm từ: "dựa trên sự công hữu về tư liệu sản xuất" xuất
phát từ thực tế ở nước ta tồn tại 3 chế độ sở hữu cơ bản và nhiều hình thức
sở hữu khác nhau. Hơn nữa, vấn đề sở hữu là một trong những vấn đề lý
luận phức tạp. Công hữu hay không sẽ do trình độ phát triển lực lượng sản
xuất quy định, chứ không phải do ý muốn chủ quan áp đặt.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Đại hội X xác
định những lĩnh vực đó là: "Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và
năng lực làm chủ của nhân dân trong đời sống văn hóa. Đa dạng hóa các
hình thức hoạt động của phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa". Phát huy tiềm năng khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật,
tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Xây dựng và
nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, chú trọng công trình văn hóa
lớn, tiêu biểu. Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm
chủ của nhân dân trong đời sống văn hóa. đây là động lực lớn nhất, đồng
thời cũng là nguyên nhân có tính chất quyết định tạo nên tính bền vững và
chất lượng, hiệu quả của phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa" môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú cho mỗi người
và cả cộng đồng.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; Việc bỏ đoạn: "con người
thoát khỏi bóc lột" xuất phát từ thực tế bản chất chế độ chúng ta xây dựng
không phải chế độ bóc lột nhưng hiện tượng bóc lột thì vẫn còn trong thời
kỳ quá độ, do trình độ sản xuất quy định và còn có ý nghĩa thúc đẩy kinh tế
phát triển.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; So với Cương lĩnh 1991 đặc
trưng này được bổ sung thêm từ tương trợ. Đại đoàn kết là sự nghiệp của
7
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
toàn dân tộc, là công việc của mỗi người dân. Để nâng cao trách nhiệm của
toàn dân, Đảng ta đặt vấn đề phải xây dựng sự đồng thuận xã hội. Nhà nước
phát huy vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc không chỉ
bằng việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách,
pháp luật mà còn phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện các chính sách, pháp
luật đó một cách có hiệu quả, thông qua bộ máy công quyền trong sạch, tận
tụy, công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân.
- Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; Nhà nước
pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước riêng gắn liền với một giai cấp
như nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã
hội chủ nghĩa mà là một hình thức tổ chức nhà nước, một trình độ phát triển
của nhà nước về phương diện tổ chức - thiết kế, hoạt động trong đó có sự
phân công và tổ chức quyền lực để bảo đảm Hiến pháp và pháp luật giữ địa
vị tối cao. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Xây dựng cơ chế vận hành của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp".
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới. Đại hội X đã xác định: Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững
môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, CNH - HĐH đất nước, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội./.
8
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
Câu 3: Trình bày quan điểm, chủ trương và giải pháp của Đại hội X
về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển. Liên hệ trách nhiệm bản thân ?
Trả lời:
Tiến bộ và công bằng xã hội là thể hiện bản chất xã hội chủ nghĩa của
chế độ ta. Quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn luôn xác định phát huy sức mạnh toàn
dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc của Đại hội X được thể
hiện qua các nội dung sau:
Một là, đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội gũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
lấy đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước có ý nghãi quan trọng hàng đầu.
9
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
Ba là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúng vị trí
của yếu tố lợi ích, theo quan điểm được xác định từ Nghị quyết Trung ương
8B khóa VI là: "Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích
thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi
và nghĩa vụ của công dân".
Bốn là, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những
yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước luôn luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá
trình lịch sử. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Trong 5 năm tới Đảng ta chủ trương tập trung giải quyết những vấn đề
xã hội bức xúc như sau:
Một là, khuyến khích mọi người làm giàu theo luật pháp, thực hiện tốt
các chính sách xóa đói giảm nghèo. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình
đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn
lên thoát đói nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư
nghèo.
Khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại.
Hai là, xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ
công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo,
chăm sóc sức khỏe, văn hóa - thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm...
Xây dựng hệ thống an ninh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc làm, đẩy mạnh xuất
khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao...
Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu
nhập.
10
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm cho
sức khỏe mọi người dân được chăm sóc và bảo vệ.
Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để nâng cấp các cơ sở y tế, y tế dự
phòng, xây dựng và hoàn thiện chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho
người hưởng chính sách xã hội và người nghèo trong khám, chữa bệnh.
Phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao ngoài công lập.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế.
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc
con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi.
Phát triển mạnh thể dục thể thao, kết hợp tốt thể thao phong trào và
thể thao thành tích cao, dân tộc và hiện đại.
Thúc đẩy phong trào toàn xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em,
tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh,
phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ và đạo đức; giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng. Phòng chống HIV/AIDS bằng các biện pháp mạnh mẽ, kiên trì
và có hiệu quả.
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Giảm tốc độ tăng dân số.
Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh và giữ mức sinh thay thế bảo đảm
quy mô và cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số.
Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam
thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tổ
ấm của mỗi người, alf tees bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan
trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và
phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
11
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
Sáu là, chú trọng các chính sách, ưu đãi xã hội.
Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống
nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với
nước, người hưởng chính sách xã hội.
Chăm sóc đời sống vật chất tinh thần của người già, nhất là những
người già cô đơn, không nơi nương tựa.
Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang
thang.
Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ
công cộng.
Phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công
cộng, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của các
đơn vị công lập và huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã hội.
Công khai mức phí tại các cơ sở công lập và ngoài công lập, chấm dứt
các khoản thu, chi không minh bạch và sai quy định, bảo đảm người làm
dịch vụ có chế độ thu nhập hợp lý, có lương tâm nghề nghiệp.
Thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập về dịch vụ công cộng
phát triển cả về quy mô và chất lượng xây dựng các cơ sở dịch vụ đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực.
*** Liên hệ bản thân:
Đại hội X của Đảng đã đưa ra những định hướng lớn và thể hiện quyết
tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục công cuộc đổi mới toàn
diện, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, do vậy mỗi người
dân cần phải học tập, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, các chỉ tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp do Đại hội X nêu ra để từ đó nâng cao bản lĩnh chính trị,
xác định lòng tin và ý chí phấn đấu tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội,
quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Với bản thân
12
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
tôi là một nhà báo, một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trên tinh thần
đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật nhận thấy cần tham gia tích cực các sinh
hoạt chính trị, đóng góp vào việc thể chế hóa và xây dựng chương trình hành
động, kế hoạch công tác của các cấp ủy cơ quan, chính quyền địa phương
nơi tôi cư trú thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội X vào cuộc sống; đồng thời
tích cực tham dự các buổi sinh hoạt góp ý xây dựng Đảng, có ý kiến kịp thời
giúp tổ chức đảng khắc phục khó khăn, gắn bó với quần chúng lao động để
tổ chức đảng nơi mình sinh hoạt thực sự trong sạch và vững mạnh trở thành
chỗ dựa tin cậy của nhân dân.
Trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" Nguyễn Đình Chiểu có viết "Chở
bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng tà"
là một nhà báo trong lĩnh vực truyền thông việc đưa thông tin chính thống,
tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; nhận thức rõ cần có thái độ ủng hộ cái tốt, cái đúng, những nhân tố
điển hình tiên tiến; cần đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực như cửa
quyền, tham những, lãng phí, cục bộ... Kiên quyết phản bác các quan điểm
tư tưởng sai trái, thù địch làm cản trở công cuộc đổi mới của đất nước, bảo
vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính
quyền nhân dân. Hơn nữa, bản thân cần không ngừng trau dồi lý tưởng cách
mạng, ra sức rèn luyện về chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ để thực sự trở thành một nhà báo giỏi, một công dân gương
mẫu về mọi mặt. Tích cực lao động sáng tạo với ý chí vươn lên đóng góp
thật nhiều công sức, trí tuệ cho sự nghiệp đổi mới đất nước; đồng thời là
người tuyên truyền, giáo dục, vận động người thân, người cùng cơ quan,
cùng nơi cư trú và bạn bè nhận thức đầy đủ quyền lợi và trách nhiệm của
mình trong việc thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách,
13
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
pháp luật của Nhà nước đó chính là việc làm có ý nghĩa nhất thực hiện thành
công Nghị quyết Đại hội X của Đảng./.
Câu 4: Phân tích tính tất yếu khách quan và cơ hội thách thức của hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay ?
Trả lời:
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước
ta đã chủ trương tham gia các thể chế kinh tế quốc tế. Trong "Lời kêu gọi
Liên Hợp quốc" tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đối với các
nước dân chủ nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp
tác trong mọi lĩnh vực". Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có chiến
tranh kéo dài và cục diện đối đầu hai cực trên thế giới, nước ta bị bao vây
cấm vận nhiều năm, quan hệ kinh tế quốc tế của nước ta chủ yếu với các
nước xã hội chủ nghĩa, có tham gia liên kết, hợp tác trong khuôn khổ của
SEV từ năm 1978.
Từ Đại hội VI, khi tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta chủ
trương "tham gia sự phân công lao động quốc tế...; tranh thủ mở mang quan
hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công
nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi". Đến đại hội VII của Đảng chủ trương: "Mở rộng, đa
dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ
quyền, bình đẳng, cùng có lợi". Đại hội VIII, đặc biệt là NGhị quyết Hội
nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành TW khóa VIII về kinh ế đối ngoại đã
nhấn mạnh: "Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp
và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội
nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành khẩn trương vững
14
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và
WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn
khổ AFTA". Đại hội IX của Đảng đưa ra chủ trương "chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực". Sau Đại hội IX, Nghị quyết TW 9 khóa IX nhấn
mạnh: "Chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương nwocs ta đã kỹ và
chuẩn bị tốt điều kiện để sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Có thể thấy rằng, sau 20 năm đổi mới, từ nhận thức đúng đắn tính tất
yếu khách quan và những vấn đề của toàn cầu hóa, Đảng ta đã xác định rõ
chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
*. Về cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế không đơn giản là lập quan hệ thương mại với một
số nước hoặc thành viên của một thể chế kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế
quốc tế cần được hiểu là quá trình chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế trong
nước theo hướng hiện đại, xây dựng nền kinh tế có chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh cao; giải phóng mọi sức sản xuất; từng bước tự do hóa các
hoạt động kinh tế, tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động
sản xuất kinh doanh; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; mở cửa thị trường; đẩy
mạnh các hoạt động kinh tế - thương mại - tài chính giữa nước ta với các
quốc gia trên thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để phát triển nhanh, hệu quả và bền
vững. Hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng thị trường xuất khẩu hàng háo và
dịch vụ; thu hút nguồn vốn bên ngoài; tiếp nhận những thành tựu và kinh
nghiệm về quản lý sản xuất, kinh doanh; về điều hành các mặt của đời sống
xã hội... Qua hội nhập kinh tế quốc tế các doanh nghiệp trong nước buộc
phải tham gia cuộc cạnh tranh quốc tế gay gắt ngay trong thị trường trong
nước, tự vươn lên để tồn tại và phát triển.
15
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt cho nhân dân ta nhiều thách thức và
có những tác động bất lợi. Sự chi phối quá trình toàn cầu hóa của các nước
tư bản phát triển mang lại nhiều thách thức, thua thiệt cho các nước kém
phát triển, trong đó có nước ta. Các nước phát triển giành nhiều lợi thế trong
cạnh tranh, gây sức ép mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, đồng thời tạo
nên những rào cản để bảo hộ sản xuất trong nước họ...
Hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với những biến động của tình hình
thế giới, như khủng hoảng kinh tế, chính trị, năng lượng, môi trường, chiến
tranh, xung đột cục bộ... tác động vào kinh tế thế giới trong đó có nước ta.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng gặp những khó khăn, thách thức từ
trong nước, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, ảnh hưởng của tư duy cũ,
bao cấp còn nặng nề, có sự do dự, chần chừ, trông đợi ỷa lại vào Nhà nước...
Nghị quyết Đại hội X của Đảng về chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế:
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi mà nhân dân, dân tộc ta đánh đổi
bằng cả xương máu của các lớp thế hệ con Lạc cháu Hồng.
Đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập
Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Đây là kết quả tổng hợp của các
phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập
Đảng, từ cao trào cách mạng 1930 – 1931. Đặc biệt là phong trào Xô viết
16
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 đến phong trào giải phóng
dân tộc 1939 – 1945. Như ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ
đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo
và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa
Cách mạng tháng Tám thành công trọn vẹn, đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa
phong kiến ở nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh và trong những năm đầu
sau khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi khảo nghiệm sáng kiến
của nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
bối cảnh quốc tế mới.
Với sự cố gắng của các tổ chức Đảng ở trong nước và của các đồng
chí hoạt động ở nước ngoài Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất
(3/1935) đề ra chủ trương đường lối và tổ chức hoạt động của Đảng. Đại hội
đã đánh dấu sự khôi phục của tổ chức Đảng từ Trung ương đến đại phương,
thống nhất phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung
ương mới, đem lại niềm tin cho đảng viên và quần chúng.
Những năm 1936 – 1939, tình hình trong nước và thế giới có nhiều
thay đổi, các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 1936, 1937 và
17
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
1939 đã có những quyết định kịp thời về chuyển hướng hình thức tổ chức và
sử dụng những hình thức đấu tranh phù hợp, dấy lên cuộc vận động dân chủ
rộng lớn – một hiện tượng hiếm có xảy ra ở một nước thuộc địa. Chiến tranh
thế giới thứ hai bùng nổ (1/9/1939), thực dân Pháp tăng cường đàn áp phong
trào cách mạng, phát xít Nhật đánh chiếm Việt Nam và Đông Dương, Nhật –
Pháp câu kết thống trị dân tộc ta, loàm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp và phát xít Nhật phát triển gay gắt. Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng (11/1939) đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (11/1940) tiếp tục chủ trương đó.
Tháng 1/1941, sau gần 30 năm hoạt động ở nước ngoài lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc. Trong lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, hoạt động bí
mật không có điều kiện họp Đại hội đại biểu toàn quốc định kỳ, các Hội nghị
Trung ương, Hội nghị Ban thường vụ Trung ương và Hội nghị cán bộ Đảng
có vai trò quan trọng. Cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 5/1941. Hội nghị
Ban Thường vụ Trung ương mở rộng 3/1945 và bản Chỉ thị “Nhật Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trên cương vị là Người đứng đầu
Đảng và Chính phủ, Hồ Chí Minh đã cùng Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng chiến thắng giặc đói, giặc dốt và
giặc ngoại xâm. Sau tháng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 Đảng đã
nắm chính quyền toàn quốc nhưng do hoàn cảnh lịch sử khó khăn, phức tạp
Đảng phải rút vào bí mật để thực hiện sự lãnh đạo kín đáo và khôn khéo.
Các Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã trực tiếp quyết định
những vấn đề về chiến lược và sách lược của Đảng và Nhà nước cách mạng
về xây dựng chế độ mới và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hội
nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng 11/1945 với bản chỉ thị “Kháng
chiến kiến quốc”; Hội nghị BCH TW Đảng mở rộng 3/1946 với chủ trương
18
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
“Hoà để tiến”; Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng
12/1946 với bản chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”.
Trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá III đã có nhiều Hội nghị với những Nghị quyết
quan trọng, cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc; Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (1961) bàn về phát triển nông
nghiệp. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy (1962) bàn về
phương hướng, xây dựng và phát triển công nghiệp. Hội nghị lần thứ Tám
(1963) bàn về phát triển kinh tế quốc dân. Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ Mười (1964) tập trung bàn về thương nghiệp và giá cả.
Các Hội nghị Trung ương lần thứ mười chín (1971), lần thứ Hai mươi
(1972) và lần thứ Hai mươi hai (1973) về phát triển kinh tế quốc dân ở miền
Bắc.
Đối với sự nghiệp cách mạng miền Nam và chống Mĩ cứu nước, Bộ
Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đã giành nhiều Hội nghị với những
nghị quyết quan trọng để lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời. Hội nghị Bộ Chính trị
(1/1961) ra Chỉ thị “Về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt
của cách mạng miền Nam”. Tháng 2/1962 Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về
công tác cách mạng miền Nam”. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ chín (12/1963) bàn về “Phương hướng và nhiệm vụ cách
mạng miền Nam và đường lối quốc tế của Đảng trong tình hình mới”.
Các Hội nghị Trung ương lần thứ mười một (3/1965) và lần thứ mười hai
(12/1965); Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1967) về đẩy mạnh đấu tranh
công tác ngoại giao. Chủ trương mở cuộc tấn công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1968 được đề ra tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14; Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 18 (1970) với chủ trương “Đánh bại chiến
lược Việt Nam hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ”. Nghị quyết Hội nghị lần
19
NguyÔn ThÞ L©m H¶i-Chi bé THCS Yªn Thêng
thứ 19 (1971) là “Kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước”. Sau khi ký Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai vẫn
ngoan cố tiếp tục chiến tranh, vi phạm Hiệp định. Trước tình hình đó Hội ghị
Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ 21 (1973) đã có Nghị quyết quan
trọng khẳng định “Con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường
bạo lực cách mạng”, phát triển lực lượng về mọi mặt để giành thắng lợi
hoàn toàn. Những quyết định về phương án giải phóng miền Nam đã được
Hội nghị Bộ Chính trị họp ngày 30/9 đến 8/10/1974 và từ 18/12/1974 đến
8/1/1975 thông qua trực tiếp đưa đến thắng lợi hoàn toàn của Đại thắng mùa
Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đất nước
thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng đã họp tháng 12/1976 tại Hà Nội. Đại hội đã tổng kết thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Việt Nam. Đại hội đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và
đường lối xây dựng phát triển kinh tế trên cả nước. Đại hội quyết định đổi
tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân cả
nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải tiến hành chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đó là khó khăn và cũng
là thách thức mới. Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra
những chủ trương, biện pháp để kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương đã cụ thể hoá đường lối của Đại hội IV thực hiện công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Nam, xác lập quan hệ sản xuất mới, đẩy mạnh xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo những chỉ tiêu chủ yếu mà Đại hội đã đề ra. Tình
hình kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân có nhiều khó khăn do hậu quả
20
- Xem thêm -