Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bài tập tình huống hình sự 1 tội trộm cắp tài sản....

Tài liệu Bài tập tình huống hình sự 1 tội trộm cắp tài sản.

.DOC
11
153
147

Mô tả:

ĐỀ BÀI Bài 3: Vương Ngọc Trinh chơi thân với chị Âu ở thị trấn C. Trong một lần ngủ tại nhà bạn, Trinh phát hiện mẹ chị Âu giấu vàng trong sọt đựng khăn để trên giường. Tối 4/11/2011, Trinh tiếp tục đến nhà chị Âu chơi và xin ngủ lại. Nửa đêm, khi mẹ của bạn thức dậy đi chợ buôn bán, Trinh lén đến giường ngủ của bà, tìm được trong sọt đựng khăn 01 chiếc vòng vàng 5 chỉ (trị giá 23 triệu đồng). Trinh giấu chiếc vòng vàng trong người, quay về giường tiếp tục ngủ. Hôm sau, Trinh đem vòng tới tiệm vàng bán được 20 triệu đồng. Tội phạm mà Trinh thực hiện được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS. Hỏi: 1. Căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội trộm cắp tài sản. 2. Khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong tình huống nêu trên là gì? Hãy giải thích. 3. Phát biểu sau đây về vụ án là đúng hay sai? Tại sao: Vì Trinh đã chiếm đoạt được tài sản, nên tội trộm cắp tài sản mà Trinh đã thực hiện có cấu thành tội phạm vật chất. 4. Giả sử toà án căn cứ vào khoản 1 Điều 138 BLHS xử phạt Trinh 42 tháng tù thì toà án vi phạm nguyên tắc cơ bản nào của luật hình sự? 1 BÀI LÀM 1. Phân loại tội phạm đối với tội trộm cắp tài sản Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Tội phạm tuy có chung một số dấu hiệu nhưng những hành vi phạm tội cụ thể không những có sự khác nhau về nguyên nhân và điều kiện phát sinh, về tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại mà còn có sự khác nhau ngay ở tính chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác. Chính do sự khác nhau này mà vấn đề phân loại tội phạm đã được đặt ra và được coi là nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Trong thực tiễn, việc phân biệt các nhóm tội phạm với nhau có ý nghĩa trước hết đối với việc áp dụng nhiều quy định của BLHS. Ngoài ra, việc phân biệt cũng còn có ý nghĩa đối với cả việc áp dụng một số quy định của ngành luật có liên quan đến vấn đề TNHS như luật tố tụng hình sự… Theo Điều 8 BLHS, các nhóm tội phạm được định nghĩa như sau: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Từ đó, ta có thể thấy, tội phạm được chia làm bốn loại phù hợp với bốn mức độ gây nguy hại cho xã hội, tương ứng với bốn mức cao nhất của khung hình phạt: tội phạm ít ngiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Và khung hình phạt là dấu 2 hiệu có tính độc lập tương đối để phân biệt các nhóm tội phạm với nhau. Như vậy, để biết một tội phạm là thuộc loại tội gì ta phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt được quy định trong BLHS đối với tội đó. Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS: Khoản 1 Điều 138 quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Theo đó, mức cao nhất của khung hình phạt được quy định tại khoản này là đến ba năm tù. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù…”, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS là tội ít nghiêm trọng. Khoản 2 Điều 138 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:…”. Theo đó, mức cao nhất của khung hình phạt được quy định tại khoản này là đến bảy năm tù. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS: “…; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù;…”, tội phạm được quy định tại khoản 2 Điều 138 BLHS là tội nghiêm trọng. Khoản 3 Điều 138 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:…”. Theo đó, mức cao nhất của khung hình phạt được quy định tại khoản này là đến mười lăm năm tù. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS: “…; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;…”, tội phạm được quy định tại khoản 3 Điều 138 BLHS là tội rất nghiêm trọng. 3 Khoản 4 Điều 138 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:…”. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS: “…; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”, tội phạm được quy định tại khoản 4 Điều 138 BLHS là tội đặc biệt nghiêm trọng. Khoản 5 Điều 138 quy định các hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với người phạm tội do đó ta không phân loại tội phạm đối với khoản này. 2. Khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong tình huống nêu trên: 2.1. Khách thể của trình huống trên là quan hệ sở hữu Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố CTTP có vị trí đặc biệt. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được xác định trong Điều 8 BLHS. Hành vi bị coi là tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam, là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một trong những quan hệ xã hội đã được xác định đó. Như vậy, không phải mọi quan hệ xã hội đều là khách thể của tội phạm, mà chỉ quan hệ xã hội được cụ thể hóa trong những quy phạm pháp luật hình sự và bị hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội xâm phạm mới bị coi là khách thể của tội phạm. Tội trộm cắp tài sản (được quy định tại Điều 138 BLHS) thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu, khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ sở hữu tài sản. Quan hệ sở hữu tài sản là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Pháp luật dân sự Việt Nam quy định một người được coi là chủ sở hữu tài sản khi người đó có đủ ba quyền năng: quyền chiếm hữu là quyền quản lý, chi phối tài sản; quyền 4 sử dụng là quyền khai thác các lợi ích vật chất và tinh thần từ tài sản; quyền định đoạt là quyền quyết định số phận của tài sản như bán, cho thuê… Khi có hành vi trộm cắp tài sản (hành vi chiếm đoạt tài sản) làm cho chủ sở hữu tài sản không có khả năng thực hiện được các quyền năng đó của mình trên thực tế, nghĩa là quyền sở hữu tài sản của họ bị xâm phạm. Tuy nhiên, hành vi trộm cắp tài sản cũng có thể sẽ không xâm phạm tới quan hệ sở hữu nếu mức độ gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là không lớn và sau khi đã đạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích, hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Như vây, sẽ trực tiếp xâm phạm đến quan hệ nhân nhân, biến nó thành khách thể của tội phạm. Ở đây, trong trường hợp phạm tội của Trinh: “Nửa đêm, khi mẹ của bạn thức dậy đi chợ buôn bán, Trinh lén đến giường ngủ của bà, tìm được trong sọt đựng khăn 01 chiếc vòng vàng 5 chỉ (trị giá 23 triệu đồng). Trinh giấu chiếc vòng vàng trong người, quay về giường tiếp tục ngủ. Hôm sau, Trinh đem vòng tới tiệm vàng bán được 20 triệu đồng”. Có thể thấy, việc Trinh trộm cắp tài sản của mẹ chị Âu là hành vi trộm cắp thông thường, với biểu hiện là lén lút, không bị phát hiện ngay lúc đó, cũng như không phát sinh thêm tình tiết nào khác. Sau đó, Trinh quay về giường tiếp tục ngủ, hôm sau đem vòng tới tiệm vàng bán được 20 triệu đồng. Do đó, Trinh đã chiếm đoạt và sử dụng bất hợp pháp đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mẹ chị Âu, làm mẹ chị Âu không có khả năng sử dụng cũng như định đoạt đối với chiếc vòng vàng của mình, nghĩa là quyền sở hữu tài sản của mẹ chị Âu đã bị xâm phạm. Như vậy, khách thể trực tiếp của tội phạm trong tình huống trên là quan hệ sở hữu tài sản. 5 2.2. Đối tượng tác động của tội phạm trong tình huống trên là đối tượng vật chất của quan hệ tài sản (chiếc vòng vàng) Mỗi tội phạm đều xâm hại tới khách thể nhất định thông qua việc tác động đến một đối tượng cụ thể. Là quan hệ xa hội nên khách thể của tội phạm được cấu thành bởi ba bộ phận: chủ thể của các quan hệ xã hội; nội dung của các quan hệ xã hội: là hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội; đối tượng của các quan hệ xã hội: là các sự vật khác nhau của thế giới bên ngoài cũng như các lợi ích mà qua đó các quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại. Khách thể của tội phạm không tách rời các bộ phận cấu thành, vì vậy khi xâm hại tới khách thể thì hành vi phạm tội phải tác động đến các bộ phận cấu thành nên khách thể, làm biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận đó. Các bộ phận cấu thành nên khách thể bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là đối tượng tác động của tội phạm. Đối với tội trộm cắp tài sản, hành vi phạm tội là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút, đó là sự dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình làm biến đổi tình trạng bình thưởng của tài sản. Cụ thể là làm dịch chuyển các quyền chiếm hữu, sử dụng cũng như định đoạt đối với tài sản từ chủ tài sản sang người phạm tội một cách bất hợp pháp, trái pháp luật. Vì vậy, đối tượng của tội trộm cắp tài sản là tài sản (đối tượng vật chất của quan hệ tài sản). Tuy nhiên, để trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản thì tài sản đó phải là tài sản của người khác, đang có sự quản lý, tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể có giá trị và giá trị sử dụng. Hành vi lấy đi tài sản không còn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản như tài sản bỏ quên, đánh rơi, tài sản vô chủ hoặc tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu thì không phải là hành vi trộm cắp tài sản mà có thể cấu thành tội khác như tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141 BLHS). 6 Trong trường hợp phạm tội của đề bài, Trinh đã lén lút trộm chiếc vòng vàng thuộc sở hữu và có sự quản lý của mẹ chị Âu. Với hành vi của mình, Trinh đã tác động tới vật chất (chiếc vòng vàng) làm biến đổi tình trạng bình thường của nó, làm dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản của bà thành tài sản của mình và sử dụng một cách bất hợp pháp. Hành vi đó đã xâm hại trực tiếp quan hệ sở hữu, hậu quả là làm mẹ chị Âu mất khả năng thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với chiếc vòng vàng (ở đây, chiếc vòng vàng trị giá 23 triệu đồng là tài sản có giá trị cao). Như vậy, đối tượng tác động của tội phạm trong tình huống trên là đối tượng vật chất của quan hệ tài sản - cụ thể là chiếc vòng vàng. 3. Phát biểu: “Vì Trinh đã chiếm đoạt được tài sản, nên tội trộm cắp tài sản mà Trinh đã thực hiện có cấu thành tội phạm vật chất”, là sai. Ta có thể thấy, đề được nói đến trong phát biểu trên là về cấu thành tội phạm, các dấu hiệu được mô tả trong CTTP là những dấu hiệu phản ánh nội dung các yếu tố của tội phạm. Trong khoa học hình sự, khái niệm CTTP được hiểu là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Cũng theo đó, CTTP được coi là khái niệm pháp lý của loại tội phạm cụ thể, là sự mô tả khái quát loại tội phạm nhất định trong luật hình sự. Có thể nói CTTP có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định tội phạm, vừa là căn cứ pháp lí để định tội, định khung hình phạt cũng vừa là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự. Có hai cách phân loại CTTP khác nhau, đó là phân loại theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được CTTP phản ánh và phân loại theo đặc điểm cấu trúc của CTTP. Gắn liền với phát biểu phía trên thì tội phạm mà Vương Ngọc Trinh phạm phải, ta sẽ tiếp cận cách phân loại thứ hai, có liên quan đến CTTP vật chất và CTTP hình thức. 7 CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. CTTP vật chất khác với CTTP hình thức ở chỗ là cấu thành tội phạm hình thức chỉ có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có ý kiến cho rằng CTTP hình thức hoàn thành ngay khi đang thực hiện hành vi phạm tội, còn CTTP vật chất hoàn thành khi hậu quả thiệt hại đã diễn ra trên thực tế. Trong vụ án nêu trên, tổng trị giá tài sản mà Trinh chiếm đoạt được là 23 triệu đồng, tức là đã có thể coi là gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng không phát biểu rằng tội trộm cắp tài sản mà Trinh đã thực hiện và đã hoàn thành tội phạm (tức là hậu quả đã xảy ra trên thực tế - Trinh đã chiếm đoạt được chiếc vòng vàng) là có CTTP vật chất. Bởi lẽ, khi xác định tội phạm có CTTP vật chất hay hình thức thì không được dựa vào hậu quả xảy ra trên thực tế mà phải dựa vào CTTP cơ bản của điều luật có chứa dấu hiệu hậu quả được BLHS quy định. Cụ thể, để xác định tội trộm cắp tài sản mà Trinh đã thực hiện có CTTP vật chất hay không thì phải căn cứ vào khoản 1 Điều 138 BLHS, để từ đó xác định tội của Trinh bao gồm những dấu hiệu nào của mặt khách quan của tội phạm. Tóm lại, phát biểu “Vì Trinh đã chiếm đoạt được tài sản, nên tội trộm cắp tài sản mà Trinh đã thực hiện có CTTP vật chất” là hoàn toàn sai. 4. Giả sử toà án căn cứ vào khoản 1 Điều 138 BLHS xử phạt Trinh 42 tháng tù thì toà án đã vi phạm nguyên tắc pháp chế của luật hình sự. Trong trường hợp trên, Vương Ngọc Trinh đã phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS và được quy định như sau: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam dữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba 8 năm”. Hình phạt với hành vi phạm tội được nêu trong khoản trên là “bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Ta có thể thấy được mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản mà Trinh thực hiện là ba năm tù (tức là 36 tháng tù), kết hợp với tình huống trên không có dấu hiệu của tình tiết tăng nặng định khung nên khi tòa án phạt Trinh 42 tháng tù (quá 6 tháng tù) là sai mức khung hình phạt cho nên đã vi phạm nguyên tắc pháp chế của luật hình sự. Nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc chung của cả hệ thống pháp luật Việt Nam, được tuân thủ trong tất cả các ngành luật cụ thể. Trong ngành luật hình sự, nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các vấn đề về tội phạm và hình phạt đều phải được quy định cụ thể, rõ ràng trong văn bản luật (hiện nay là BLHS); việc xác định tội phạm và hình phạt trong áp dụng luật đều phải dựa trên các điều luật cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi phải được tuân thủ trong cả hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật. Cụ thể: - Những hành vi bị coi là tội phạm phải được quy định thành các tội danh cụ thể, rõ ràng bởi các quy phạm pháp luật hình sự; - Những loại hình phạt có thể được áp dụng cho người phạm tội phải được quy định bởi các quy phạm pháp luật hình sự và phải được xác định cho từng tội danh đã được quy định; - Các căn cứ của việc quyết định hình phạt cụ thể cho người phạm tội phải được quy định thống nhất bởi quy phạm pháp luật hình sự; - Việc truy cứu TNHS người phạm tội phải tuân thủ các quy định của ngành luật hình sự: chỉ được kết tội họ về tội danh đã được quy phạm pháp luật hình sự quy định cũng như chỉ được tuyên hình phạt trong phạm vi mức độ cho phép của quy phạm pháp luật hình sự. Như vậy, ta có thể kết luận rằng, tòa án đã tuyên án không đúng cho Trinh, tuyên hình phạt vượt quá mức độ cho phép của quy phạm pháp luật hình sự (cụ thể là vượt quá khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS) cho nên đã vi phạm nguyên tắc pháp chế của luật hình sự. 9 MỤC LỤC Trang Đề bài Bài làm 1. Phân loại tội phạm đối với tội trộm cắp tài sản 2. Khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong tình huống nêu trên: 2.1. Khách thể của trình huống trên là quan hệ sở hữu 2.2. Đối tượng tác động của tội phạm trong tình huống trên là đối tượng vật chất của quan hệ tài sản (chiếc vòng vàng) 4. Giả sử toà án căn cứ vào khoản 1 Điều 138 BLHS xử phạt Trinh 42 tháng tù thì toà án đã vi phạm nguyên tắc pháp chế của luật hình sự Danh mục tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo 10 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, GIÁO TRÌNH LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – TẬP 1, Nbx Công an nhân dân, năm 2012. 2. BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 – ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2009, Nbx Chính trị quốc gia, năm 2012. 3. Viện nhà nước và pháp luật, BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI BỔ SUNG 2009, Nxb Lao động, năm 2012. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan