BÀI TẬP THÁNG THỨ NHẤT
Vấn đề 1: Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
Câu 1: Thế nào là được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật?
Trong Bộ luật Dân sự (BLDS) hiện hành không có quy định hay định nghĩa
cụ thể về “Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật” tuy nhiên có một số quy
định liên quan đến vấn đề này để suy ra khái niệm.
Tại khoản 8 Điều 13 BLDS năm 2005 quy định quyền, nghĩa vụ dân sự
được xác lập từ các căn cứ: “8. Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật”.
Điều 256 BLDS năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền
chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó”.
Khoản 4 Điều 281 BLDS năm 2005 quy định căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân
sự: “4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật”.
Khoản 2 Điều 599 BLDS năm 2005: “2. Người được lợi về tài sản mà
không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản
lợi đó cho người bị thiệt hại, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ
luật này”.
Điều 601 BLDS năm 2005 quy định về việc hoàn trả hoa lợi, lợi tức từ được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật: “ 1. Người chiếm hữu, người sử dụng tài
sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật và không ngay tình
thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản,
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. 2. Nếu người chiếm hữu, người sử
dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật nhưng ngay
tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm người đó biết hoặc
phải biết việc chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này”.
Từ các Điều khoản trên của BLDS năm 2005 ta có thể hiểu được lợi về tài
sản không có căn cứ pháp luật:
- Là sự gia tăng tài sản hoặc phát sinh việc chiếm hữu, sử dụng của một chủ
thể đối với tài sản nhưng không dựa trên căn cứ do pháp luật quy định.
- Là việc tránh được những khoản chi phí để bảo quản, giữ nguyên tài sản
mà lẽ ra tài sản phải giảm sút1.
Câu 2: Vì sao được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ phát
sinh nghĩa vụ dân sự?
Căn cứ phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong thực
tế, được pháp luật dân sự dự liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh
quan hệ nghĩa vụ dân sự.
Căn cứ khoản 4 Điều 281 BLDS năm 2005, theo đó căn cứ phát sinh nghĩa
vụ dân sự: “Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật”. Như vậy, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật được phát luật
dân sự dự liệu là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự.
Đồng thời, trong thực tế có những trường hợp tài sản của người này chuyển
sang người khác không dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định, ví dụ: nhận
tiền do người khác giao nhầm, ngân hàng nhầm lẫn khi chuyển quá số tiền tài
khoản khách hàng… Đây là trường hợp một người đã thu nhận (được lợi) về tài
sản nhưng không có căn cứ pháp lý. Như vậy, được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật đã làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự.
1Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức
2013, tr.41-44.
Do đó, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ phát sinh
nghĩa vụ dân sự.
Câu 3: Trong điều kiện nào người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật có trách nhiệm hoàn trả?
Theo khoản 4 Điều 600 BLDS năm 2005 quy định: “"Người được lợi về tài
sản mà không có căn cứ pháp luật phải hoàn trả cho người bị thiệt hại khoản lợi
về tài sản đó bằng hiện vật hoặc bằng tiền.”
Như vậy, điều kiện phát sinh nghĩa vụ hoàn trả bao gồm:
Thứ nhất, một người được lợi về tài sản. Theo quy định trên, để có nghĩa vụ
hoàn trả được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật thì phải có người "được lợi
về tài sản". Đây là một khái niệm rất khó hiểu và không được Bộ luật dân sự làm
rõ (một người được lợi về tình cảm nhưng đây không thuộc phạm vi của nghĩa vụ
hoàn trả vì quy định này chỉ đề cập đến "được lợi về tài sản").
Được lợi về tài sản cũng có thể là trường hợp một người không bị mất một cái
gì đó về tài sản mà đáng ra họ phải mất [...].2
Hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật được hiểu:
- Là sự gia tăng tài sản hoặc phát sinh việc chiếm hữu, sử dụng của một chủ
thể đối với tài sản nhưng không dựa trên căn cứ do pháp luật quy định.
- Là việc tránh được những khoản chi phí để bảo quản, giữ nguyên tài sản mà
lẽ ra tài sản phải giảm sút.3
Thứ hai, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. [...] Về được lợi về tài
sản không có căn cứ pháp luật, Bộ luật dân sự lại không có định nghĩa. Theo chúng
tôi, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là trường hợp được lợi về tài sản
mà người được lợi không có căn cứ pháp lý để được hưởng khoản lợi đó.
Thứ ba, có người bị thiệt hại. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải xác định
được có thiệt hại và người bị thiệt hại. Theo một số tài liệu "thiệt hại trong trường
hợp này được hiểu là sự mất mát tài sản, thiếu hụt trong khối tài sản" hay "tài sản
của chủ thể sở hữu không gia tăng hoặc chủ sở hữu không thu được hoa lợi từ việc
khai thác công dụng của tài sản". Ở đây "thiệt hại có thể là làm giảm đi tài sản hoặc
2 Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và Bình luận bản án, Nxb.
CTQG 2012, bản án 9-11.
3Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức
2013, tr 41-44.
làm cho tài sản của người khác không gia tăng".
Thứ tư, trừ trường hợp của Điều 247 bởi vì khi một người được lợi về tài sản
thỏa mãn các điều kiện tại khoản 1 Điều 247 BLDS năm 2005 thì họ có quyền sở
hữu đối với khoản được lợi này và như vậy họ không có nghĩa vụ hoàn trả phần
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Câu 4: Trong vụ việc được bình luận, nếu ông Hiếu không chứng minh được
thóc là của ông mua và thuê bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến Nhà máy thì ông
Hiếu có là người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, nếu ông Hiếu không chứng minh được thóc là của ông
mua và thuê bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến Nhà máy, thì ông Hiếu là người được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Vì:
Thứ nhất, nếu ông Hiếu không chứng minh được thóc là của ông mà ông lại
nhận khoản tiền tương đương với số thóc trên do Nhà máy thanh toán thì theo căn
cứ tại Điều 183, Điều 189 BLDS năm 2005, ông Hiếu là người chiếm hữu tài sản
không có căn cứ pháp luật.
Thứ hai, ông Hiếu không chứng minh được số thóc trên là của ông mua, hay
nói cách khác ông không chứng minh mình là chủ sở hữu của số thóc trên mà lại
nhận khoản tiền do nhà máy thanh toán đối với số thóc trên, như vậy ông đã được
lợi về tài sản, mặc dù tài sản không thuộc của ông.
Từ những phân tích trên cho thấy nếu ông Hiếu không chứng minh được
thóc là của ông mua và thuê bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến Nhà máy thì ông Hiếu
là người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Câu 5: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu ông Hiếu không chứng
minh được thóc là của ông mua và nhờ bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến Nhà
máy thì ông Hiếu phải trả tiền đã nhận cho ai?
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, trong Quyết đinh trên, nếu ông
Hiếu không chứng minh được thóc là của ông mua và nhờ bà Nguyệt, ông Ngoan
chở đến nhà máy, thì ông Hiếu phải trả tiền đã nhận cho ông Ngoan và bà Nguyệt.
Kể cả khi Nhà máy đã thanh toán tiền cho ông thì ông cũng phải trả lại cho ông
Ngoan, bà Nguyệt.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa dân sự trên cơ sở
chế định được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Theo nhóm em, chúng em đồng ý với hướng giải quyết của Tòa dân sự.
Trong vụ việc trên, việc xác định người phải hoàn trả rất phức tạp, quan hệ giữa ba
chủ thể là nhà máy xay lúa Trương Lâm, ông Ngoan bà Nguyệt và ông Hiếu chưa
được xác minh rõ ràng. Chúng ta có thể do dự giữa nhà máy xay lúa Trương Lâm
(thiệt hại là do không được nhận tiền đáng ra được nhận), ông Hiếu là người mua
và thuê bà Nguyệt ông Ngoan đã nhận tiền hay là người được ông Ngoan bà
Nguyệt thuê và chưa nhận được tiền. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của
ông Ngoan bà Nguyệt còn Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông
Ngoan bà Nguyệt và buộc bà Mộng là chủ Nhà máy xay lúa Trương lâm trả cho
ông Ngoan số tiền đó là chưa đủ căn cứ. Tòa dân sự đã hủy bản án dân sự phúc
thẩm và sơ thẩm trên là hoàn toàn hợp lý. Vụ việc trên có thể được giải quyết nếu
ta kết hợp hai giải pháp sau:
Thứ nhất, người đáng ra được nhận tài sản được quyền yêu cầu người đã
thực hiện nghĩa vụ không đúng đối tượng tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với mình.
Căn cứ để thực hiện ở đây không phải là các quy định về hoàn trả tài sản do được
lợi không có căn cứ pháp luật mà là các quy định thông thường áp dụng giữa họ.
Áp dụng giải pháp này vào vụ việc trên, chúng ta có kết quả: buộc nhà máy xay
Trương Lâm phải thanh toán cho ông Ngoan bà Nguyệt mua thóc và bồi thường lãi
phát sinh hoặc theo thỏa thuận khác trong hợp đồng.
Thứ hai, người đáng ra được nhận tài sản cũng được quyền yêu cầu người đã
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật hoàn trả cho mình những gì họ đáng
ra được nhận trên cơ sở các quy định về hoàn trả được lợi về tài sản mà chúng ta
đang nghiên cứu. Áp dụng giải pháp này chúng ta có kết quả, nhà máy xay Trương
Lâm được yêu cầu trực tiếp ông Hiếu hoàn trả phần được lợi không có căn cứ pháp
luật. Việc cho phép người đáng ra được nhận tài sản đòi người được lợi không có
căn cứ pháp luật hoàn trả sẽ rất có ích nếu như người đã thực hiện không có khả
năng tiếp tục thực hiện nghĩa vụ nhưng không có khả năng tài chính hay lâm vào
tình trạng phá sản.
Câu 7: Nếu sau khi nhận tiền, ông Hiếu gửi khoản tiền này vào Ngân hàng để
lấy lãi thì ông Hiếu có nghĩa vụ hoàn trả tiền lãi không? Vì sao?
Căn cứ pháp lý Điều 601 BLDS năm 2005. Nghĩa vụ hoàn trả hoa lợi, lợi tức:
“1. Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không
có căn cứ pháp luật và không ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được
từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật.
2. Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lời về tài sản mà không có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ
thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247
của Bộ luật này”.
Theo thông tin, ông Hiếu là người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật và ông không thuộc quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS năm 2005, theo
quy định tại Điều 601 BLDS năm 2005, dù ông Hiếu là người được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật có ngay tình hay không ngay tình, nếusau khi nhận tiền,
ông Hiếu gửi khoản tiền này vào Ngân hàng để lấy lãi thì ông Hiếu có nghĩa vụ
phải hoàn trả tiền lãi theo quy định tại Điều 601.
Câu 8: Nếu thóc của bà Nguyệt, ông Ngoan đem đến bán cho nhà máy, bà
Nguyệt, ông Ngoan (ngoài khả năng đòi ông Hiếu) có thể yêu cầu Nhà máy
thanh toán không? Vì sao?
Nếu thóc của bà Nguyệt, ông Ngoan đem đến bán cho nhà máy, bà Nguyệt,
ông Ngoan (ngoài khả năng đòi ông Hiếu) có thể yêu cầu nhà máy thanh toán.
Theo khoản 2 Điều 599 BLDS năm 2005 thì người được lợi về tài sản mà
không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản
lợi đó “cho người bị thiệt hại”. Việc xác định người bị thiệt hại (nên là người thụ
hưởng trong nghĩa vụ hoàn trả được lợi về tài sản) sẽ rất đơn giản nếu chúng ta chỉ
có hai chủ thể, nhưng lại rất phức tạp khi đó là quan hệ ba chủ thể như trong vụ
việc đã cho. Chúng ta có thể do dự giữa nhà máy (thiệt hại là do trả tiền không
đúng chủ thể) và bà Nguyệt, ông Ngoan (thiệt hại là do không nhận được tiền đáng
ra được nhận). Trên thực tế Tòa án đều có các bản án cụ thể xử lý theo cả hai
hướng trên, nên thiết nghĩ có thể kết hợp cả hai hướng trên hoặc lựa chọn tùy theo
vụ việc cụ thể. Ở đây người đáng ra được nhận tài sản được quyền yêu cầu người
đã thực hiện không đúng đối tượng tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với mình. Căn cứ để
thực hiện ở đây không phải là các quy định về hoàn trả tài sản do được lợi không
có căn cứ pháp luật mà là các quy định thông thường áp dụng giữa họ (dựa trên cơ
sở các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa họ, nói cách khác bên
mua chưa thanh toán đúng chủ thể thì phải thanh toán lại).
Vấn đề 2: Giao kết hợp đồng có điều kiện
Câu 1: BLDS có cho biết thế nào là hợp đồng giao kết có điều kiện không?
Thông thường hoạt động được coi là giao kết (tồn tại) khi các bên thống nhất
với nhau về nội dung. Tuy nhiên, trong một số trường hợp sự thống nhất giữa các
bên về nội dung của hợp đồng chưa đủ để hoàn thành hợp đồng vì việc giao kết
hợp đồng còn phụ thuộc vào một điều kiện nào đó. BLDS 2005 quy định về giao
dịch dân sự có điều kiện phát sinh nhưng không cho biết đó là loại giao dịch như
thế nào. Thực ra, để là giao dịch dân sự có điều kiện phát sinh thì đây phải là
trường hợp các bên đã thống nhất với nhau về giao dịch (hợp đồng) còn phụ thuộc
vào một điều kiện có thể xảy ra trong tương lai. Thuật ngữ “điều kiện” tương đối
trừu tượng và có nghĩa tương đối khác nhau tùy theo hoàn cảnh. Ở đây BLDS sử
dụng thuật ngữ “điều kiện” nhưng đây là điều kiện cần để hợp đồng có hiệu lực
chứ không phải là “điều kiện” để hợp đồng được giao kết mà chúng ta đang nghiên
cứu. “Điều kiện” BLDS không nêu chi tiết nhưng với nội hàm của các quy định
trên, điều kiện phải là một yếu tố nào đó trong tương lai “nhưng không chắc xảy ra
trong tương lai” và có ảnh hưởng tới sự hình thành của hợp đồng. BLDS chỉ quy
định về điều kiện để làm phát sinh giao dịch (hợp đồng) do các bên “thỏa thuận”
chứ không có quy định về cách thức thể hiện thỏa thuận này.
Câu 2: Trong trường hợp bên chuyển nhượng tài sản chưa có quyền sở hữu
tại thời điểm giao kết nhưng đang làm thủ tục hợp thức hóa quyền sở hữu, có
quy định nào của BLDS coi đây là hợp đồng giao kết có điều kiện không?
Căn cứ pháp lý: khoản 6 Điều 406 BLDS năm 2005, theo đó “Hợp đồng có
điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định.”
Trong trường hợp bên chuyển nhượng tài sản chưa có quyền sở hữu tại thời
điểm giao kết nhưng đang làm thủ tục hợp thức hóa quyền sở hữu, đây là một “sự
kiện”, nếu sự kiện này phát sinh, bên chuyển nhượng có quyền sở hữu thì hợp
đồng hình thành. Như vậy, đối chiếu với quy định tại khoản 6 Điều 406 BLDS
năm 2005, đây được xem như là một hợp đồng giao kết có điều kiện.
Câu 3: Trong quyết định số 14, Tòa án nhân dân tối cao có coi hợp đồng trên
là hợp đồng giao kết có điều kiện không?
Trong Quyếtđịnh số 14/2015/DS-GĐT ngày 18/5/2015 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao coi hợp đồng trên là hợp đồng giao kết có điều kiện.
Trang thứ 10 của quyết định có ghi nhận: “Tuy nhiên, hợp đồng mua bán nhà giữa
bà Tao với vợ chồng ông Phương là hợp đồng có điều kiện, thực tế ông Phương đã
thanh toán cho bà Tao 800 lượng vàng tiền mua nhà và tiền mua hóa giá, thuế sử
dụng đất, chi phí trước bạ tương đương với 248,16 lượng vàng SJC. Theo Điều 6
của hợp đồng ngày 27/8/2000, hai bên thỏa thuận “Nếu sau khi bà Tao đã nhận
tiền của vợ chồng ông Phương mà bà Tao đổi ý không bán thì bà Tao phải đền bù
gấp đôi số vàng đã nhận của vợ chồng ông Phương”.
Câu 4: Ngoài bản án này có quyết định nào khác đề cập đến vấn đề này
không?
- Quyết định số 403/2011/DS-GĐT ngày 25/5/2011 của Tòa án dân sự Tòa
án nhân dân tối cao. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thấy ngày
18/5/2007 tại Phòng công chứng số 3, Thành phố Hồ Chí Minh, bà Thu và bà
Ngọc có ký hợp đồng đặt cọc để bảo đảm cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng
138m2 đất tại ấp Bình Đường 2. Theo nội dung hợp đồng thì bên A (bà Ngọc) hứa
sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất nêu trên sẽ
chuyển nhượng cho bên B (bà Thu) với giá 400.000.000đ. Bên B nhận chuyển
nhượng đất sau khi bên A làm xong thủ tục chuyển nhượng. Như vậy, đây là hợp
đồng có điều kiện là khi nào hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ
chuyển nhượng.
- Quyết định số 192/2006/DS-GĐT ngày 18/8/2006 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
Căn nhà số 259 (nay là số 149) đường 3/2 đến ngày 6/11/2000 là nhà thuộc
sở hữu nhà nước, nhưng ông Dũng và bà Huyền là người quản lý , sử dụng hợp
pháp theo Quyết định số 240/QĐ ngày 6/9/1993 của Sở Lao động – Thương binh
và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh và ông Dũng, bà Huyền cũng thuộc diện được
mua hóa giá nhà theo quy định.
Ngày 6/11/2000, ông Dũng , bà Huyền lập “Hợp đồng mua bán hoặc sang
nhượng” căn nhà trên cho ông Hùng với điều kiện: Bên mua phải đặt 50 lượng
vàng SJC, sau đó giao tiếp từ 50 đến 150 lượng vàng SJC cho bên bán; bên bán
giao giấy tờ xe liên quan đến căn nhà cho bên mua, để bên mua liên hệ với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục hợp thức hóa cho bên bán; khi bên bán đứng
tên chủ quyền nhà thì bên mua phải giao đủ vàng, bên bán sẽ giao giấy tờ nhà và
ký các giấy tờ để sang tên nhà cho bên mua.
Như vậy, với nội dung thỏa thuận trên thì điều kiện hai bên đã thỏa thuận
“khi bên bán đứng tên chủ quyền nhà” thì hai bên mới chính thức thực hiện các
quyền và nghĩa vụ về mua bán nhà theo quy định. Ngoài ra, tại hợp đồng nêu trên
hai bên còn thỏa thuận số tiền 160 lượng vàng mà ông Hùng giao cho ông Dũng,
bà Huyền là tiền giao ước đến khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì
hai bên ký kết và thực hiện hợp đồng, lúc đó số vàng này được khấu trừ vào nghĩa
vụ của ông Hùng.4
Câu 5: Cho đến khi Ủy ban nhân dân bán hóa giá nhà và cấp giấy chứng nhận
cho bà Tao, hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp đã tồn tại chưa? Vì sao?
Cho đến khi Ủy ban nhân dân bán hóa giá nhà và cấp giấy chứng nhận cho
bà Tao, hợp đồng chyển nhượng có tranh chấp chưa tồn tại. Vì theo cơ sở pháp lý
tại Điều 134 BLDS 1995 về Giao dịch dân sự có điều kiện thì “Trong trường hợp
các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự, thì khi
điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc bị hủy bỏ.” Như vậy, sau khi
Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bán hóa giá nhà và cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở thì lúc này điều kiện đã xảy ra, tức là lúc
này hợp đồng chyển nhượng có tranh chấp đã phát sinh. Vì vậy, cho đến khi Ủy
ban nhân dân bán hóa giá nhà và cấp giấy chứng nhận cho bà Tao, hợp đồng
chuyển nhượng chưa tồn tại.
4Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Viêt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. CTQG 2013 (tái bản lần thứ tư), Bản án
số 18-20.
Câu 6: Hệ quả pháp lý khi bà Tao có chủ quyền sở hữu nhà có tranh chấp?
Theo Quyết định 14/2015/DS-GĐT ngày 18/5/2015 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng mua bán ngôi nhà 36 Nguyễn Thị Diệu
giữa bà Tao với vợ chồng ông Phương bà Thanh là hợp đồng có điều kiện ( điều
kiện là sau khi bà Tao hoàn thành thủ tục mua hóa giá nhà và được cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà số 36 Nguyễn Thị Diệu, thì hai bên sẽ làm thủ tục mua bán
nhà). Vì vậy sau khi Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bán hóa giá nhà và
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở (điều kiện đã xảy
ra), thì bà Tao phải thực hiện hợp đồng mua bán nhà với ông Phương.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về việc vận dụng các quy định liên quan đến giao
kết hợp đồng có điều kiện.
Trong một số trường hợp sự thống nhất giữa các bên chưa đủ để hình thành
hợp đồng vì việc giao kết hợp đồng còn phụ thuộc vào một điều kiện nào đó. Pháp
luật nước ta (trong BLDS năm 1995 Điều 134 và khoản 1 Điều 125 BLDS năm
2005) cũng như pháp luật nhiều nước đều chấp nhận việc giao kết hợp đồng có
điều kiện. Trong thực tiễn xét xử. Tòa án đã có nhiều bản án công nhận giao kết
hợp đồng có điều kiện. Chẳng hạn trong Quyết định số 14/2015/DS-GĐT ngày
18/5/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì các bên đều thống
nhất với nhau về hợp đồng mua bán nhà nhưng hợp đồng mua bán nhà vẫn chưa
tồn tại vì còn phụ thuộc vào một yếu tố trong tương lai (điều kiện). Ở giai đoạn này
các bên chưa có quan hệ hợp đồng mua bán nhà mà chỉ là các chủ thể trong “dự
án” mua bán nhà. Điều kiện có thể do các bên thỏa thuận minh thị hay ngầm định,
và ở Quyết định đang xem xét thì điều kiện phát sinh giao dịch là ngầm định và
được Tòa án chấp nhận. Thực ra việc phát hiện các bên có thỏa thuận về điều kiện
phát sinh giao dịch (hợp đồng) như trên không mâu thuẫn ý chí các bên: các bên
ngầm hiểu là khi có quyền sở hữu thì việc chuyển nhượng mới thực sự tồn tại.
Hướng giải quyết này là thuyết phục và cần được duy trì cũng như phát triển trong
các vụ án tương tự trong tương lai.
Phần trên cho thấy khi điều kiện xảy ra thì giao dịch dân sự có điều kiện phát
sinh. Tuy nhiên giao dịch này chỉ mới phát sinh mà thôi. Ở giai đoạn này giao dịch
mới hình thành, bắt đầu tồn tại còn việc giao dịch có giá trị pháp lý hay không còn
phụ thuộc vào việc giao dịch này có thỏa mãn những điều kiện về nội dung và hình
thức để có hiệu lực hay không. Đối với việc chuyển nhượng trong vụ việc đã cho,
để có giá trị pháp lý hợp đồng chuyển nhượng này cần phải thỏa mãn những điều
kiện có hiệu lực thông thường áp dụng cho hợp đồng này. Hội đồng thẩm phán
cũng theo hướng này và chúng em cho rằng là khá thuyết phục. Tức là khi điều
kiện xảy ra, bà Tao không thực hiện (không đi công chứng, chứng thực theo thỏa
thuận) nên đã làm hợp đồng bị vô hiệu về hình thức. Có thể thấy hướng hiểu và áp
dụng chế định này vào thực tiễn của Tòa án là phù hợp và cần được áp dụng rộng
rãi cho các vụ việc tương tự trong giao kết hợp đồng có điều kiện.
Vấn đề 3: Hình thức hợp đồng
Câu 1: Hợp đồng trong tình huống trên có phải công chứng, chứng thực
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Hợp đồng trên phải công chứng, chứng thực. Vì theo khoản 1, 2 Điều 122
Luật Nhà ở năm 2014 quy định về Công chứng, chứng thực hợp đồng và thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở:
“ 1. Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển
nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng,
chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Đối với các giao dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng.
2. Đối với trường hợp tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương; mua
bán, cho thuê mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán, cho thuê mua nhà ở xã
hội, nhà ở phục vụ tái định cư; góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ chức; cho
thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở thì không bắt buộc phải công
chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp các bên có nhu cầu.
Đối với các giao dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng là do các bên thỏa thuận; trường hợp các bên không có thỏa thuận thì
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm ký kết hợp đồng”.
Câu 2: Nếu nay một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức, Tòa
án sẽ giải quyết như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, ta cần đi từ mặt lý luận. Hiện nay có trường hợp yêu
cầu về hình thức của hợp đồng là để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng nhưng có
trường hợp yêu cầu về hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng như trương
hợp trong Luật trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên BLDS thông thường là
yêu cầu về chứng cứ. Theo tư duy này nếu hợp đồng không tuân thủ quy định về
hình thức nhưng có thể chứng minh được bằng các phương pháp khác thì hợp đồng
vẫn có giá trị pháp lý. Tuy vậy hiện nay số lượng hợp đồng bị Tòa án tuyên vô
hiệu vì vi phạm về mặt hình thức vẫn chiếm số lượng rất lớn, đây có chăng là một
bất cập cần thay đổi? Theo chúng em, hợp đồng sinh ra không để bị tuyên bố vô
hiệu mà để thực hiện nhằm đem lại cho các bên hợi ích hợp pháp mà các bên mong
muốn.
Quay lại vấn đề, khi một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình
thức, Tòa án trước hết cần áp dụng khoản 2 Điều 401 BLDS năm 2005 là: “…
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác”. Tức là, Tòa án cần xét xem hợp đồng này có
thuộc trường hợp hình thức là điều kiện có hiệu lực hay chỉ là yêu cầu để chứng
minh sự tồn tại? Nếu pháp luật quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực thì Tòa
sẽ tuyên hợp đồng vô hiệu về hình thức hoặc có thể cho các bên thời gian thỏa
thuận thu xếp việc đi chỉnh sửa lại cho đúng hình thức theo quy định, còn nếu là
hướng chỉ là yêu cầu chứng minh sự tồn tại thì Tòa chỉ cần yêu cầu các bên đi
chỉnh sửa lại hình thức mà không đương nhiên tuyên hợp đồng vô hiệu do hình
thức từ một phía yêu cầu.
Câu 3: Theo quan điểm cá nhân của anh/chị, có nên công nhận hợp đồng trên
không? Vì sao?
Theo quan điểm cá nhân, nhóm em nghĩ nên theo hướng công nhận hợp đồng
trên. Vì:
Thứ nhất, trên thực tế, các bên đã được thực hiện được phần lớn nội dung
trong hợp đồng. Đồng thời vi phạm hình thức trên không thuộc trường hợp pháp
luật quy định rõ vi phạm hình thức bắt buộc kéo theo hệ quả là giao dịch vô hiệu.
Thứ hai, xét nếu hợp đồng trên vô hiệu về mặt hình thức, thì với sự vi phạm
này phạm vi vô hiệu là toàn bộ hay một phần. Nếu vi phạm trên tới mức hợp đồng
vô hiệu toàn bộ thì hợp đồng vô hiệu, tuy nhiên nếu vi phạm trên chỉ làm cho hợp
đồng vô hiệu một phần, thì khi đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc sử dụng tài
sản của mỗi bên, trong trường hợp chúng ta nên theo hướng công nhận hợp đồng.
Câu 4: Việc Tòa án xác nhận hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về hình thức
và hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong bản án số 41
có thuyết phục không? Vì sao?
Xét cơ sở pháp lý tại khoản 2 Điều 401 BLDS 2005 về Hình thức hợp đồng
dân sự thì “Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì
phải tuân theo các quy định đó”. Cụ thể tại khoản 2 Điều 689 BLDS 2005 quy
định về Hình thức chyển quyền sử dụng đất thì “Hợp đồng chyển quyền sử dụng
đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của
pháp luật” vì vậy việc Tòa án xác nhận hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về hình
thức là hoàn toàn có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 136 BLDS 2005 thì “Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch dân sư vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134
của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập”. Do đó,
thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức đã hết.
Vì vậy hợp đồng trên không bị vô hiệu về hình thức. Có thể thấy quyết định của
Tòa án ở đây thuyết phục và đúng quy định của pháp luật.
Câu 5: Hệ quả pháp lý, theo văn bản hiện hành của việc hết thời hiệu yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức.
Theo BLDS năm 2005 có quy định về việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức. Căn cứ pháp lý tại Điều 134 BLDS năm
2005 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình
thức: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của
một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc
các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn, quá thời
hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
Tại khoản 1 Điều 136 BLDS năm 2005 quy định: “1. Thời hiệu yêu cầu
Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130
đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác
lập”.
Câu 6: Việc Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng sau khi xác định có
vi phạm hình thức và hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
có thuyết phục không? Vì sao?
Khi hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức,
thì trên góc độ văn bản Tòa án không thụ lý vụ án. Tuy nhiên thực tiễn xét xử khi
hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức, mặc dù Tòa
án không còn thẩm quyền giải quyết nhưng Tòa án vẫn công nhận hợp đồng khi
hợp đồng vô hiệu về hình thức.Theo nhóm, việc Tòa án công nhận hợp đồng
chuyển nhượng sau khi xác định có vi phạm hình thức và hết thời hiệu yêu cầu Tòa
án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là thuyết phục, là hợp lý, vì bản chất của hợp đồng là
sự thỏa thuận giữa các bên tạo ra sự ràng buộc pháp lý, hình thức hợp đồng không
là điều kiện đương nhiên của hợp đồng, hình thức hợp đồng là biểu hiện ra bên
ngoài nội dung của hợp đồng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 122, khoản 2 Điều
124, khoản 2 Điều 401 BLDS năm 2005, hình thức của hợp đồng không phải là
một điều kiện đương nhiên, mang tính bắt buộc của hợp đồng. Hình thức của hợp
đồng chỉ là yêu cầu bắt buộc của hợp đồng, nếu pháp luật có quy định. Đồng thời,
hợp đồng sinh ra không để bị tuyên bố vô hiệu mà là để được thực hiện nhằm đem
lại cho các bên lợi ích mà các bên mong muốn khi xác lập. Do đó khi hết hạn yêu
cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức mà Tòa án vẫn công nhận hợp
đồng là thuyết phục, vì như vậy sẽ đảm bảo lợi ích của các bên trong hợp đồng, vì
cũng có những hợp đồng vi phạm hình thức nhưng đã được các bên thực hiện một
phần hay phần lớn các nội dung trong hợp đồng.
Vấn đề 4: Hợp đồng chính/phụ vô hiệu
Câu 1: Thế nào là hợp đồng chính và hợp đồng phụ? Cho ví dụ minh họa đối
với mỗi loại hợp đồng.
Căn cứ pháp lý: Khoản 3 Điều 406 BLDS năm 2005: “Hợp đồng chính là
hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ”.
Căn cứ pháp lý: Khoản 4 Điều 406 BLDS năm 2005: “Hợp đồng phụ là hợp
đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính”.
Ví dụ : Ngân hàng A cho B vay 100.000.000 triệu đồng, C đứng ra bảo lãnh
cho B. Theo đó hợp đồng vay là hợp đồng chính và hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng
phụ.
Câu 2: Các quy định về hợp đồng chính/phụ vô hiệu có tồn tại trong BLDS
1995 không?
Các quy định về hợp đồng chính/phụ vô hiệu có tồn tại trong BLDS 1995 tuy
nhiên còn khá sơ sài, cụ thể ở khoản 3, khoản 4 Điều 405 BLDS năm 1995 thì:
“Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng khác;
“Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính”;
BLDS năm 1995 không quy định rõ hợp đồng chính/phụ vô hiệu thế nào như
BLDS năm 2005. Tuy vậy, xét trên trích dẫn điều luật ở trên ta thấy hợp đồng
chính có hiệu lực độc lập với hợp đồng phụ, còn hợp đồng phụ có hiệu lực phụ
thuộc vào hợp đồng chính. Điều này có nghĩa khi hợp đồng chính vô hiệu sẽ kéo
theohợp đồng phụ đương nhiên vô hiệu, nhưng khi hợp đồng phụ vô hiệu thì hợp
đồng chính không.
Câu 3: Trong vụ việc trên, ai là người (chủ thể) có nghĩa vụ trả tiền Ngân
hàng?
Trong vụ việc trên, Công ty Thiên Minh là chủ thể có nghĩa vụ trả tiền Ngân
hàng. Theo quy định tại Điều 471 BLDS năm 2005 “Hợp đồng vay tài sản là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến
- Xem thêm -