BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
♦
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT
DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
Buổi thảo luận thứ nhất
CHỦ THỂ CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ
LỚP CLC QTKD 42
DANH SÁCH NHÓM 4
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Phạm Văn Chương
Trần Thị Ngọc Đan
Nguyễn Thị Thùy Linh
Nông Trúc Linh
Bùi Thị Minh Ngọc
Phan Ngọc Phương Quỳnh
Dương Thị Bích Tuyền
1753401010005
1753401010006
1753401010040
1753401010042
1753401010059
1753401010076
1753401010117
1
PHẦN 1:
Năng lực hành vi dân sự cá nhân
Câu 1: Hoàn cảnh của ông P như trong Quyết định được bình luận có thuộc
trường hợp mất năng lực hành vi dân sự không? Vì sao?
Hoàn cảnh của ông P trong Quyết định không thuộc trường hợp mất năng lực hành vi
dân sự. Vì theo Khoản 1 Điều 22 quy định về Mất năng lực hành vi dân sự: “1. Khi
một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng
lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”. Theo kết luận
giám định pháp y tâm thần hiện tại ông P mắc bệnh “Rối loạn cảm xúc lưỡng cực,
hiện tại thuyên giảm”, xét thấy ông không bị mắc bệnh tâm thần hay các bệnh khác
mà không thể nhận thức,làm chủ được hành vi, trên cơ sở kết luận giám định ông P
thuộc trường hợp người có tình trạng thể chất hoặc tinh thần không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự theo Khoản 1
Điều 23 BLDS 2015: “1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà
không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực
hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa
án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.”
Câu 2: Nêu những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực
hành vi dân sự và mất năng lực hành vi dân sự.
Tiêu chí
Hạn chế năng lực hành vi dân
sự
Mất năng lực hành vi dân sự
Giống nhau
Căn cứ
chứng
minh
Một người bị xem là mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự khi và chỉ khi có Quyết định của Tòa án tuyên bố
người đó mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Khả
năng
Cá nhân không thể tự mình tham gia các giao dịch, giao dịch phải do
thực
hiện giao
dịch
người đại diện theo pháp luật thực hiện.
Khác nhau
Đối
tượng
Cơ sở để
Tòa án
ra quyết
định
Hệ quả
pháp lý
Người
đại diện
Người nghiện ma túy, nghiện
các chất kích thích khác dẫn đến
phá tán tài sản của gia đình.
Người bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi.
Theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan.
Theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu
quan.
Kết luận giám định pháp y
tâm thần.
Giao dịch do người hạn chế
năng lực hành vi dân sự thực
hiện, xác lập là không có hiệu
lực pháp luật (bị vô hiệu), trừ
trường hợp được sự đồng ý của
người đại diện hoặc giao dịch
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày.
Giao dịch do người mất
năng lực hành vi dân sự
thực hiện, xác lập là không
có hiệu lực pháp luật (bị vô
hiệu)
Giao dịch phải do người đại
diện theo pháp luật thực
hiện
Người đại diện của người hạn
chế năng lực hành vi dân sự do
Tòa án chỉ định.
Người đại diện cho người
mất năng lực hành vi dân
sự có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân và được gọi là
người
giám hộ
Người đại diện có thể được
2
chỉ định hoặc đương nhiên
trở thành người đại diện
theo quy định của pháp luật.
Câu 3: Trong Quyết định được bình luận, ông P có thuộc trường hợp người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không? Vì sao?
Trong Quyết định, ông P không thuộc trường hợp người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự. Vì theo Khoản 1 Điều 24 có nêu: “1. Người nghiện ma túy, nghiện các
chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có
thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.”.
Trường hợp của ông P theo kết luận giám định pháp y tâm thần là mắc bệnh “Rối
loạn cảm xúc lưỡng cực” người có khó khăn trong nhận thức,làm chủ được hành vi
chứ không thuộc trường hợp người bị nghiện ma túy hay các chất kích thích dẫn
đến không làm chủ được hành vi của mình.
Câu 4: Điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự và người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
- Khoản 1 Điều 23 BLDS 2015 về Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi: “1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả
năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân
sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra
quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.” và
khoản 1 Điều 24 BLDS 2015 về Hạn chế năng lực hành vi dân sự: “1. Người nghiện
ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.”
- Điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là về đặc điểm nhận dạng giữa hai
chủ thể này; và người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có quyền yêu
cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố nhưng người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
thì không có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố; và về người đại diện thì
3
người đại diện của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người
giám hộ do Tòa án chỉ định và người đại diện của người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự là người đại diện theo pháp luật do Tòa án quyết định.
Câu 5: Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi có thuyết phục không? Vì sao?
- Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi là có thuyết phục.
- Giải thích: Trường hợp của ông P đã đủ các yếu tố quy định theo khoản 1 Điều 23
BLDS 2015 về Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: “1. Người
thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức,
làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu
của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên
bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định
người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.” và Tòa án đã kết luận
dựa trên bản giám định pháp y của Trung tâm Giám định pháp y Miền Trung: về
mặt y học thì ông P rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại thuyên giảm và về mặt
pháp luật thì ông P có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi chứ chưa đến
mức bị tâm thần và mất luôn năng lực hành vi dân sự. Hơn nữa, bản giám định
pháp y của Trung tâm Giám định pháp y Miền Trung là văn bản Kết luận có giá trị
pháp lý đối với những người bị tâm thần, hạn chế năng lực… Do đó, Tòa án xác
định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
là vô cùng thuyết phục.
Câu 6: Việc Tòa án không để bà H là người giám hộ cho ông P có thuyết phục
không? Vì sao?
- Việc Tòa án không để bà H là người giám hộ cho ông P là thuyết phục.
- Giải thích: Sau khi bà H bỏ đi thì bà T là người nuôi dưỡng ông P từ nhỏ đến tuổi
trưởng thành. Mặt khác, bà H đã bỏ đi hơn 20 năm nay, và không về địa phương
lần nào, hiện nay không biết bà H đang ở đâu, làm gì, còn sống hay đã chết. Nên
không có cơ sở để chỉ định bà H là người giám hộ cho ông P. Vì vậy, Tòa án không
để bà H là người giám hộ cho ông P là vô cùng thuyết phục.
Câu 7: Việc Toà án để bà T là người giám hộ cho ông P có thuyết phục
không? Vì sao?
-Tòa án để bà T là người giám hộ cho ông P là thuyết phục, vì:
4
Bố của ông P đã mất, mẹ của ông cũng đã bỏ đi hơn 20 năm (Không có cơ sở
để để chỉ định bà là người giám hộ cho ông P)
Vợ của ông P, bà H không đủ điều kiện là người giám hộ của ông P theo
quyết định của tòa án
Bà T là người nuôi dưỡng ông P từ nhỏ đến lúc trưởng thành và chính ông P
yêu cầu Tòa án chỉ định bà Huỳnh Thị T làm người giám hộ cho mình căn cứ
vào khoản 2 điều 46 Bộ luật Dân sự 2015
“Trường hợp người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể
hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu”.
Và bà T cũng có đủ điều kiện của cá nhân làm người giám hộ quy định tại
điều 49 Bộ luật Dân sự 2015.
Theo đó, việc Tòa án để bà T làm người giám hộ là thuyết phục.
Câu 8: Với vai trò của người giám hộ, bà T được đại diện cho ông P trong
những giao dịch nào? Vì sao?
Căn cứ vào điểm b, khoản 1 điều 57 và điểm c, khoản 1 điều 58, thì theo
quyết định của tòa án, bà T có thể thực hiện một số giao dịch sau:
Chăm sóc, bảo đảm việc điều bệnh cho người được giám hộ.
Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự.
Quản lý tài sản của người được giám hộ.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người giám hộ.
Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc chi dùng cho những
nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ.
Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được
giám hộ.
Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ
Câu 9: Suy nghĩ của anh/chị về chế định người có khó khan trong nhận thức, làm
chủ hành vi mới được bổ sung trong BLDS 2015?
-
Chúng ta đều biết pháp luật được ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội trong đời sống hằng ngày. Các điều luật mới liên tục được bổ sung kịp thời
để điều chỉnh phù hợp với diễn biến của các tình huống trong cuộc sống. Gần
đây nhất là việc sửa đổi Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) đã bổ sung thêm các điều
khoản mới. Trong đó nổi bật là Điều 23 với nội dung: “Người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
5
-
Và “Để tham gia vào các quan hệ dân sự, cá nhân phải có khả năng nhận thức
rồi thì phải có khả năng làm chủ được hành vi của mình. Vì lẽ này mà BLDS
quy định rằng, để có thể tuyên bố cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, phải
có căn cứ vào căn bệnh của cá nhân đó để biết nó có ảnh hưởng tới “Nhận
thức” và khả năng “Làm chủ được hành vi” của họ hay không”1
-
Quay ngươc lại khái niệm của BLDS 2015 quy định về hai trường hợp của
năng lực hành vi, đó là mất năng lực hành vì và hạn chế năng lực hành vi:
Người mất năng lực hành vi là người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết
luận giám định pháp y tâm thần.
Người bị hạn chế năng lực hành vi là người nghiện ma túy, nghiện các chất
kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người
có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể
ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
-
Sau khi xem xét hai chủ thể của mất năng lực hành vi và hạn chế năng lực hành
vì ta sẽ thấy rất nhiều trường hợp thực tế trong cuộc sống không phải là chủ thể
của hai điều luật này.
-
Cụ thể hơn đó là các trường hợp người cao tuổi, rối loạn tâm thần nhẹ, người
mắc một số bệnh như Parkinson,...
è Các trường hợp này chưa đến mức mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng
lực hành vì, vì triệu chứng bệnh lý của họ chỉ xảy ra trong một khoảng thời
gian ngắn và sau đó họ có thề sinh hoạt trở lại bình thường nên việc bổ sung
điều luật: khó khăn trong nhận thức hành vi là hoàn toàn hợp lý. Nhằm mục
đích rất rõ là bảo vệ và đảm bảo yếu tố công bằng về quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong các quan hệ dân sự, đặc biệt là các vấn đề về xác lập,
thực hiện các hợp đồng giao dịch.
Tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý
Câu 1: Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là pháp nhân? Nêu rõ điều
kiện?
Theo Bộ Luật dân sự hiện hành 2015, tổ chức được thừa nhận là pháp nhân khi
có những điều kiện sau (Theo khoản 1 Điều 74) :
Trang 11 – Tạp chí khoa học pháp lý số 5/2011 – “Vấn đề bảo hộ người mất năng lực hành vi dân sự” – Đỗ
Văn Đại và Nguyễn thanh Thư.
1
6
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Thứ nhất, pháp nhân được thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và
các luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp 2014, Luật đầu tư 2014,….
Thứ hai, phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ theo quy định: Theo đó, pháp nhân
phải có cơ quan điều hành, tổ chức và nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan điều hành của
pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập
pháp nhân.
Thứ ba: Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình.
Để một tổ chức tham gia vào quan hệ tài sản với tư cách là chủ thể độc lập thì phải có
tài sản riêng, tài sản của pháp nhân là tài sản thuộc quyền sở hữu của pháp nhân hoặc
do nhà nước giao cho quản lý.
Tính độc lập trong tài sản của pháp nhân được thể hiện ở sự độc lập với tài sản của cá
nhân là thành viên của pháp nhân, với cơ quan cấp trên và các tổ chức khác.
Trên cơ sở tài sản độc lập của pháp nhân, pháp nhân mới có thể chịu trác nhiệm bằng
tài sản của mình.
Thứ tư: pháp nhân nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc
lập: Pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập, được hưởng
quyền và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và điều lệ. Pháp nhân có thể
đóng vai trò nguyên đơn hoặc bị đơn trước Tòa khi mà quyền lợi bị xâm phạm.
Câu 2: Trong bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, cơ quan đại
diện của Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không? Đoạn
nào trong bản án đó có trả lời.
-
Trong bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, cơ quan đại diện
của bộ tài nguyên và môi trường là một tổ chức có tư cách pháp nhân nhưng
là tư cách pháp nhân không đầy đủ.
7
-
Đoạn cho thấy: “Như vậy, cơ quan đại diện Bộ tài nguyên và môi trường có
tư cách pháp nhân thành phố Hồ Chí Minh…nhưng là tư cách pháp nhân
không đầy đủ”.
Câu 3: Trong bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ
tài nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân?
-
Hướng giải quyết trên là hoàn toàn hợp lí, đúng với quy định của pháp luật.
Vì căn cứ vào khoản 1, 3, 5 của điều 84 BLDS 2015 có quy định “ 2. Văn
phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện theo
ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực hiện việc bảo vệ các lợi ích đó.”
“4. Văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của
pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền”. Vì vậy, cơ quan đại
diện của Bộ tài nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân thì không
thể xác lập giao dịch với tư cách pháp nhân, chỉ có thể nhân danh pháp nhân
để thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ và thời hạn được giao.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của tòa án.
-
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hoàn toàn đúng đắn, vì cơ quan đại diện
của Bộ tài nguyên và môi trường chưa đủ điều kiện trở thành một pháp
nhân vì chưa đáp ứng được điều kiện tài sản độc lập phải thu chi ngân sách
theo quyết định của nhà nước và Bộ, chưa có cơ cấu tổ chức chặt chẽ vì chỉ
là bộ phận của Bộ, hành động theo ý chí, sự hướng dẫn của Bộ tài nguyên và
môi trường và phải phối hợp với các cơ quan tổ chức khác vì cơ quan đại
diện này không có sự độc lập.
Câu 5: Pháp nhân và cá nhân có khác gì nhau về năng lực pháp luật dân sự? Nêu
cơ sở khi trả lời (nhất là trên cơ sở BLDS 2005 và BLDS 2015)?
Thứ nhất: Về khái niệm
Trong BLDS 2005, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân bị thu hẹp so với năng
lực pháp luật dân sự của cá nhân, tại Điều 14 BLDS 2005 quy định:
“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự”.
Trong khi đó, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được quy định tại khoản 1
Điều 86 BLDS 2005 đã thêm cụm từ “phù hợp với hoạt động mục đích của pháp
nhân”.
Khoản 1 Điều 86 BLDS 2015:
“1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các
quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình.”
8
Song, có thể thấy, việc thu hẹp phạm vi năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân gây
ra khá nhiều khó khăn trong thực tiễn, có những giao dịch pháp nhân xác lập nhưng
khó xác định có phù hợp với mục đích của pháp nhân hay không.
Vì thế, BLDS 2015 đã loại bỏ cụm từ “phù hợp với hoạt động mục đích của pháp
nhân”, theo hướng:
“Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền,
nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Chính vì vậy, theo BLDS 2015 thì khái niệm về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
và pháp nhân là giống nhau.
Thứ hai: Năng lực dân sự liên quan đến giới tính, huyết thống
Trong BLDS 2015 quy định về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, cá nhân có
quyền và nghĩa vụ liên quan đến giới tính và huyết thống:
Ví dụ: cá nhân có quyền xác định lại giới tính (Điều 36), chuyển đổi giới tính ( Điều
37). Song, pháp nhân không có quyền và nghĩa vụ liên quan đến giới tính và huyết
thống vì đó là những đặc thù riêng của con người. Điều 36, 37 trong BLDS 2015 cũng
chính là điểm mới, khắc phục những khiếm khuyết của BLDS 2005, khi BLDS 2005
vẫn chưa có quy định về việc xác định lại giới tính, chuyển đổi giới tính.
Thứ ba: Thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự
Trong BLDS 2005, thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và pháp
nhân là cơ bản giống nhau. Ngoài ra, thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân có thêm một số ngoại lệ mà pháp nhân không có như: Khoản 2 Điều 612 ,
Điều 635.
Đối với BLDS 2015, đã có sự bổ sung về thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân tại khoản 2 Điều 86 BLDS 2015:
"Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký
hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào
sổ đăng ký”.
Thứ tư: Thời điểm chấm dứt năng lực pháp luật dân sự
Trong BLDS 2005, thời điểm chấm dứt năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và pháp
nhân là giống nhau. Đối với cá nhân, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chấm dứt
khi người đó chết (Khoản 3 Điều 14 BLDS 2005) và đối với pháp nhân chấm dứt từ
thời điểm chấm dứt pháp nhân (Khoản 2 Điều 86 BLDS 2005).
Bên cạnh đó, trong BLDS 2015, có xu hướng thêm quy định để bảo vệ quyền lợi cho
người chết, người chết vẫn được pháp luật ghi nhận.
9
Ví dụ: Theo trách nhiệm bồi thường của nhà nước, trong trường hợp cá nhân đã chết
thì người thân của họ có quyền yêu cầu cơ quan chức trách liên quan khôi phục danh
dự của người đã chết.
Câu 6: Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân
có ràng buộc pháp nhân không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Theo khoản 2, Điều 137 thì:
“2. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại
diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ
luật này.”
Điều đó có nghĩa rằng pháp nhân không bị phụ thuộc vào người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân. Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật bị bắt giam, bị bỏ
tù, bị chết hoặc không còn đủ khả năng đại diện nữa thì pháp nhân đó có quyền bầu ra
người đại diện theo pháp luật mới để tiếp tục hoạt động (có nghĩa là pháp nhân không
bị phụ thuộc vào bất cứ một cá nhân nào).
Nhưng khi bắt đầu xác lập giao dịch mà là giao dịch do người đại diện của pháp nhân
xác lập nhân danh pháp nhân thì làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại
diện
Theo khoản 1 Điều 139 BLDS 2015:
1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp
với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.
Khi ấy, pháp nhân bị ràng buộc bởi người đại diện của pháp nhân. Tại khoản 2 điều
141 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện
theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập,
thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác”. Tức là pháp nhân hoàn toàn phụ thuộc vào người đại diện khi
xác lập giao dịch, vì pháp nhân tự chịu trách nhiệm về tài sản của mình mà đã ủy
quyền cho người đại diện.
Câu 7: Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có ràng
buộc công ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
-
Trong tình huống trên, hợp đồng với công ty Nam Hà có ràng buộc công ty
Bắc Sơn.
Căn cứ vào khoản 1,2,6 Điều 84 Bộ Luật Dân Sự 2015:
“1. Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không phải là
pháp nhân.
2. Chi nhánh có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp
nhân.
10
6. Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do chi nhánh,
văn phòng đại diện xác lập, thực hiện.”
=> Như vậy, việc trong quy chế công ty Bắc Sơn có quy định chi nhánh công ty Bắc
Sơn tại Thành phố Hồ Chí Minh là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân là trái
với quy định tại khoản 1 Điều 84 BLDS 2015. Chi nhánh công ty Bắc Sơn tại Thành
phố Hồ Chí Minh không có tư cách pháp nhân mà chỉ được nhân danh pháp nhântức công ty Bắc Sơn để xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi và trong thời
hạn được ủy quyền. Vì vậy, giao dịch do chi nhánh công ty Bắc Sơn tại Thành phố
Hồ Chí Minh xác lập với công ty Nam Hà vẫn sẽ có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
dân sự đối với công ty Bắc Sơn và tất nhiên khi hợp đồng giữa chi nhánh Công ty
Bắc Sơn tại Thành phố Hồ Chí Minh và công ty Nam Hà xảy ra tranh chấp thì công
ty Bắc Sơn đương nhiên phát sinh nghĩa vụ dân sự giải quyết tranh chấp này (dựa
theo Khoản 6 Điều 84 BLDS 2015).
11
PHẦN 2:
Trách nhiệm dân sự của pháp nhân
Câu 1: Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của thành viên và trách
nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân.
-
Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của thành viên:
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 87 BLDS 2015, pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự
trong các trường hợp sau:
Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc
đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp
nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
-Bên cạnh đó, còn có căn cứ vào Khoản 2 Điều 87 BLDS 2015, pháp nhân không
chịu trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người
của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật
có quy định khác.
-
Trách nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân:
Dựa vào Khoản 3 Điều 87 BLDS 2015: “Người của pháp nhân không chịu
trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp
nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác.”
Câu 2: Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công ty
Xuyên Á không? Vì sao?
-
Trong Bản án được bình luận, thì bà Hiền có là thành viên của công ty Xuyên
Á. Vì thực tế bà Hiền đã có góp 26,05% vào tổng vốn của công ty này. Luật
không hề có quy định về việc góp bao nhiêu phần trăm mới tính là thành viên
của pháp nhân cho nên chỉ cần bà Hiền có góp vốn vào tổng vốn của công ty
Xuyên Á thì bà chính là thành viên của công ty Xuyên Á.
12
Câu 3: Nghĩa vụ của Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á hay
của bà Hiền? Vì sao?
-
Nghĩa vụ của Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á.
Vì: khi kí hợp đồng mua gạch của Công ty Ngọc Bích, người đại diện đã nhân
dân Công ty Xuyên Á để ký hợp đồng. Căn cứ Khoản 3 Điều 87 BLDS2015 quy
định “Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường
hợp luật có quy định khác.”
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa cấp sơ thẩm và
Tòa cấp phúc thẩm liên quan đến nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích.
-
Bản án Tòa cấp sơ thẩm là chưa thỏa đáng bởi vì bà Hiền chỉ góp 26,05% về
vốn vào Công ty mà buộc bà Hiền phải liên đới trả nợ là không đúng.
Câu 5: Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty
Xuyên Á đã bị giải thể
-
Cần thu thập đầy đủ chứng cứ làm rõ lí giải lý do giải thể, tài sản của công ty
giải thể và nghĩa vụ về tải sản của công ty sau khi bị giải thể…. Để giải quyết
theo đúng pháp luật, từ đó mới có thể đảm bảo quyền lợi cho Công ty Ngọc
Bích.
13
- Xem thêm -