Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bài hoàn chỉnh môn qlnn...

Tài liệu Bài hoàn chỉnh môn qlnn

.DOC
22
213
69

Mô tả:

hoc phan quan ly nha nuoc
Trường Đại Học Thương Mại BÀI THẢO LUẬN NHÓM. Học phần: Quản lý Nhà nước về kinh tế Chủ đề: Các công cụ của quản lý nhà nước về kinh tế ? Vận dụng các công cụ đó vào trong lĩnh vực đầu tư Lớp: CH 19A TCNH Người hướng dẫn: TS Chu Thị Thủy Nhóm 3: Nguyễn Thu Hoài. Nguyễn Việt Hùng. Trần Xuân Huy. Phạm Thị Thu Huyền. Ngô Thị Liên. Bùi Thùy Linh. Nguyễn Thùy Linh. Nguyễn Thị Kim Loan. Hoàng Long. Lương Thị Hoài. Hà Nội, 2013. BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Họ và tên Nguyễn Thị Kim Loan Nguyễn Thùy Linh Nguyễn Thu Hoài Nguyễn Việt Hùng Trần Xuân Huy Phạm Thị Thu Huyền Ngô Thị Liên Bùi Thùy Linh Hoàng Long Lương Thị Hoài Chữ ký nhóm trưởng /thư ký: Chức trách Nhóm Trưởng Thư ký Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Tự đánh giá Nhóm đánh giá Kết luận MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ...............................................................................................1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CỤ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ.................................................................................................2 1.1.Một số khái niệm cơ bản.........................................................................2 1.1.1 Quản lý nhà nước về kinh tế...................................................................2 1.1.2.Công cụ quản lý của nhà nước về kinh tế...............................................2 1.1.3. Hệ thống công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế..............................3 1.2. Vai trò của hệ thống công cụ quản lý nhà nước về kinh tế.................7 CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ VÀO ĐẦU TƯ................................................................................................9 2.1. SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ VÀO THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN....................................................................................................10 2.1.1. Công cụ luật pháp..................................................................................11 2.1.2. Công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất............................................12 2.1. 3. Công cụ tài chính bất đô ̣ng sản............................................................13 2.1.4. Công cụ quản lý hành chính..................................................................14 2.3. SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ VÀO THỊ TRƯỜNG VÀNG 15 2.3.1 Chính sách của Nhà nước nhằm ổn định giá vàng ...............................16 2.3.2 Mục tiêu ( kế hoạch) xây dựng khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng: ............................................................................................17 2.3.3. Hành lang pháp lý nhằm ổn định giá vàng............................................17 KẾT LUẬN....................................................................................................19 LỜI MỞ ĐẦU Thực hiện của quản lý kinh tế vĩ mô là quá trình thiết kế mục tiêu quản lý và căn cứ vào đó mà sử dụng công cụ quản lý hữu hiệu và phương pháp quản lý thích hợp để điểu tiết sự vận động của nền kinh tế quốc dân theo quỹ đạo mục tiêu đã định Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề ra. Công cụ quản lý Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện hữu hình và vô hình mà Nhà nước sử dụng để tác động lên mọi chủ thể kinh tế trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân. Chính nhờ công cụ quản lý với tính cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải ý định và ý chí của mình tới tổ chức và cá nhân đang sinh sống và hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể ở bên ngoài Để việc quản lý các mục tiêu kinh tế vĩ mô cần một hệ thống các công cụ tương ứng và thích hợp .Hệ thống công cụ có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Chính nhờ có các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân sinh sống và hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể ở bên ngoài. Nếu các công cụ quản lý tạo lập được môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi thì nền kinh tế phát triển tốt.Ngược lại có thể gây rối loạn các hoạt động kinh tế,cản trở việc khai thác một cách hiệu quả tốt nhất các nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế. Nội dung đề tài gồm hai phần: Phần I: Cơ sở lý luận về công cụ quản lý Nhà nước về kinh tế Phần II: Đánh giá việc sử dụng các công cụ kinh tế vào đầu tư 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CỤ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ 1.1 Một số khái niệm cơ bản 1.1.1 Quản lý nhà nước về kinh tế Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội. QLNN về kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của Nhà nước. Như vậy, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan, nội tại và nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường; còn việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế theo phương hướng và mục tiêu nào lại lệ thuộc vào bản chất của các hình thức nhà nước và con đường phát triển mà nước đó lựa chọn. Nhà nước Việt nam tiến hành việc QLKT xã hội theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm chủ động hội nhập quốc tế. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là: Nhà nước với chức năng quản lý của mình sẽ sử dụng những công cụ nào để quản lý nền kinh tế? 1.1.2.Công cụ quản lý của nhà nước về kinh tế Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề ra. Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà Nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể, các thành viên tham gia hoạt động trong nền kinh tế. 2 Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế trả lời câu hỏi: Nhà nước quản lý sự vận hành của nền kinh tế quốc dân bằng cái gì? Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều loại, trong đó có công cụ quản lý thể hiện mục tiêu, ý đồ của Nhà nước, có công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể kinh tế, có công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, có công cụ vật chất thuần túy…. 1.1.3. Hệ thống công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế a. Nhóm công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu quản lý của Nhà nước (Kế hoạch hoá). Xác định mục tiêu quản lý là việc khởi đầu quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế. Các mục tiêu chỉ ra phương hướng và các yêu cầu về số lượng, chất lượng cho các hoạt động quản lý của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Các công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu của quản lý có thể bao gồm: - Đường lối phát triển kinh tế - xã hội: Đường lối phát triển kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh của đất nước, nó được coi là công cụ hàng đầu của Nhà nước trong sự nghiệp quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đường lối đúng sẽ đưa đất nước đến phát triển, ổn định, giàu mạnh công bằng và văn minh. Đường lối sai sẽ đưa đất nước đi lầm đường lạc lối, là tổn thất, là đổ vỡ, là suy thoái, là hậu quả khôn lường về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Ở nước ta, đường lối phát triển kinh tế đất nước gắn liền với phát triển xã hội và do Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ đại hội. - Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn nhằm đạt được một bước đường lối phát triển kinh tế đất nước trong một chặng thời gian đủ dài. Thực chất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là sự cụ thể hóa đường lối phát triển doanh nghiệp trong mỗi chặng đường lịch sử của đất nước (thường là 10 năm, 15 năm, hoặc 20 năm) và cũng do Đảng cầm quyền chỉ đạo và xây dựng. Ở nước ta, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đảng Cộng Sản Việt Nam xây dựng trong 3 các Đại hội Đảng toàn quốc, như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, đến năm 2020. - Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Là việc định hướng phát triển kinh tế dài hạn. Trong đó, xác định rõ qui mô và giới hạn cho sự phát triển. Thực chất quy hoạch là xác định khung vĩ mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ quan quản lý Nhà nước để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình, dự án đầu tư bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững và có hiệu quả. - Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Kế hoạch là cụ thể hóa chiến lược dài hạn, gồm có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng năm. Thực chất, kế hoạch là một hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản được xác định như: tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế, các cân đối lớn… các chỉ tiêu kế hoạch này bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và thành phần kinh tế. Ở Việt Nam, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được xem là công cụ quan trọng trong quản lý nền kinh tế của Nhà nước. - Chương trình phát triển kinh tế - xã hội: Là tổ hợp các mục tiêu, các nhiệm vụ, các thủ tục, các bước phải tiến hành, các nguồn lực và các yếu tố cần thiết để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định đã được xác định trong một thời kỳ nhất định. Chương trình là cơ sở quan trọng để tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào việc giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch Nhà nước trong từng thời kỳ và cho phép khắc phục tình trạng tách rời giữa các nhiệm vụ của kế hoạch đã được xác định để thực hiện kế hoạch Nhà nước một cách có hiệu quả nhất. b. Nhóm công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế (Hệ thống pháp luật). Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật. Điều 12, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. 4 Pháp luật về kinh tế được hiểu là hệ thống văn bản có tính quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để thể hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế. Hệ thống văn bản pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế có hai loại văn bản: văn bản qui phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật gồm: - (1) Văn bản do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh. - (2) Văn bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác ở Trung ương ban hành để thi hành Việt Nam quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: lệnh, quyết định, chỉ thị, nghị quyết, thông tư. - (3) Văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành để thi hành Việt Nam quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Việt Nam của cơ quan Nhà nước cấp trên. Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế là những Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể đối với đối tượng cụ thể như các quyết định bổ, miễn nhiệm, đề bạt, nâng lương, khen thưởng, kỉ luật, điều động công tác đối với cán bộ công chức Nhà nước… c. Nhóm công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế (Các chính sách kinh tế). Công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế, đó là chính sách kinh tế. Đây là những công cụ chủ yếu của Quản lý kinh tế vĩ mô trong nền KTTT bởi lẽ KTTT thực chất là kinh tế tiền tệ. Vì vậy, NN cần phải nắm các công cụ này, sử dụng linh hoạt các hình thức biện pháp tài chính, tiền tệ, giá cả để điều tiết thị trường, tác động vào các giai đoạn và thời kỳ phát triển của nền kinh tế, nhằm đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Một số chính sách quan trọng mà nhà nước sử dụng để quản lý điều tiết nền KTTT bao gồm: - Chính sách cơ cấu kinh tế: Phát triển các thành phần kinh tế Phát triển các thành phần kinh tế là chủ trương lớn của Nhà nước nhằm từng bước và liên tục nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội, nâng cao năng suất 5 lao động, năng suất các yếu tố tổng hợp và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang kết hợp hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu. Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô một cách vững chắc, với lạm phát thấp và các nền tảng vi mô vững mạnh; góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Thiết lập phát triển cân đối hợp lý giữa các địa phương, vùng miền trên cơ sở phát huy lợi thế của từng địa phương, từng vùng. - Chính sách tài chính với các công cụ chủ yếu: chi tiêu của Chính phủ (G) và thuế (T) Thay đổi chi tiêu của chính phủ có tác động trực tiếp đến tổng cầu, qua đó ảnh hưởng đến sản lượng và công ăn việc làm. Thuế làm thay đổi thu nhập khả dụng và tiêu dùng. Chính sách này trước hết nhằm mục tiêu tăng trưởng sau đó là các mục tiêu cán cân thanh toán, việc làm, lạm phát… Nhà nước có thể sử dụng hai công cụ này để kiềm chế những biến động kinh tế ngắn hạn. Khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, có tăng trưởng thấp và thất nghiệp cao. Chính phủ có thể tăng chi tiêu và/ hoặc giảm thuế (chấp nhận thâm hụt ngân sách) để “kích cầu”, nhằm sử dụng tốt hơn các nguồn lực hiện có, cho phép giảm thất nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển quá “nóng” và lạm phát đang dâng cao gây mất ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ có thể chủ động kìm hãm tình trạng đó lại bằng cách cắt giảm chi tiêu hoặc tăng thuế. - Chính sách tiền tệ với các công cụ chủ yếu: kiểm soát mức cung tiền (Ms) và lãi suất (r). Công cụ của chính sách tiền tệ là dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu (tái chiết khấu), nghiệp vụ thị trường mở và một số công cụ khác như tỷ giá, lãi suất quy định, hạn ngạch tín dụng… chính sách tiền tệ được sử dụng vừa để điều tiết khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, vừa đáp ứng nhu cầu tiền tệ cho các hoạt động kinh tế, góp phần ổn định lãi suất thị trường, giữ sức mua của đồng tiền, kích thích đầu tư phát triển kinh tế. - Chính sách thu nhập với các công cụ chủ yếu: giá cả (P) và tiền lương (W). Quản lý giá cả của thị trường bằng chính sách “giá” là một trong những nội dung chủ yếu về sự can thiệp của Nhà nước đối với nền KTTT. Sự can thiệp này nhằm các 6 mục tiêu: điều tiết quan hệ cung - cầu, điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa các DN, các ngành kinh tế, điều tiết quan hệ cạnh tranh, bảo hộ các hoạt động SX-KD Chính sách thu nhập bao gồm các công cụ như: Luật thuế thu nhập, quy định mức lương tối thiểu, chính sách khuyến khích tạo việc làm, chính sách phân phối lại thu nhập, chỉ số hoá tiền lương, thuế thu nhập, cho đến các khoản trợ cấp xã hội, chính sách giá… các công cụ và chính sách nhóm này tác động chủ yếu đến lĩnh vực đời sống, thu nhập, việc làm của dân cư. - Chính sách ngoại thương với công cụ chủ yếu: thuế nhập khẩu (Tn), hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, tỉ giá hối đoái, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế… Nhóm công cụ, chính sách này tác động chủ yếu đến các quan hệ kinh tế đối ngoại, đến cán cân thanh toán quốc tế, nhưng đồng thời góp phần vào tăng trưởng và tạo việc làm. d. Nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào đối tượng quản lý. Công cụ vật chất được dùng làm áp lực, hoặc động lực tác động vào đối tượng quản lý của Nhà nước có thể bao gồm: - Đất đai, rừng, núi, sông hồ, các nguồn nước, thềm lục địa… - Tài nguyên trong lòng đất. - Dự trữ quốc gia, bảo hiểm quốc gia. - Vốn và tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp. - Các loại quỹ chuyên dùng vào công tác quản lý của Nhà nước. e. Nhóm công cụ để sử dụng các công cụ nói trên. Chủ thể sử dụng các công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế đã trình bày ở trên là các cơ quan quản lý của Nhà nước về kinh tế. Đó là các cơ quan hành chính Nhà nước, các công sở và các phương tiện kinh tế - kỹ thuật được sử dụng trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước. 1.2. Vai trò của hệ thống công cụ quản lý nhà nước về kinh tế Để việc quản lý các mục tiêu kinh tế vĩ mô cần một hệ thống các công cụ tương ứng và thích hợp Hệ thống công cụ có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Chính nhờ có các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động 7 quản lý của nhà nước mà Nhà Nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân sinh sống và hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể ở bên ngoài. Nếu các công cụ quản lý tạo lập được môi trường vĩ mô ồn định, thuận lợi thì nền kinh tế phát triển tốt. Ngược lại có thể gây rối loạn các hoạt động kinh tế, cản trở việc khai thác một cách hiệu quả nhất các nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế. 8 CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ VÀO ĐẦU TƯ 2.1. SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ VÀO THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN Thị trường bất đô ̣ng sản ngày càng trở thành mô ̣t thị trường quan trọng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân. Vì vâ ̣y, nghiên cứu và hoàn thiê ̣n hê ̣ thống công cụ quản lý nhà nước để điều tiết hiê ̣u quả thị trường này là mô ̣t yêu cầu cấp bách. Thực tế cho thấy, đất đai và các bất động sản khác luôn là nguồn lực quan trọng bậc nhất trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Sự hình thành, vận động của thị trường bất đô ̣ng sản Viê ̣t Nam những năm qua còn cho thấy, nó rất “nhạy cảm” có ảnh hưởng liên thông, sâu rộng đến các thị trường khác, cũng như các mặt của đời sống kinh tế - xã hội; đồng thời, tự thân nó cũng rất dễ bị “tổn thương”, “méo mó” trong quá trình vận động. Thị trường bất đô ̣ng sản ở nước ta trong hơn 10 năm phát triển trở lại đây đã biến động, lên “cơn sốt” giá 3 lần, cụ thể: Lần thứ nhất, xảy ra khi nước ta chuyển từ cơ chế “đất không có giá cả” sang cơ chế “đất có giá do Nhà nước quy định”. Đây là giai đoạn sốt giá xung quanh các năm 1992, 1993 và khi Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành. Lần thứ hai, xảy ra khi luật quy định chuyển từ cơ chế “giá đất do Nhà nước quy định” sang “Nhà nước quy định giá đất phù hợp với giá thị trường trong điều kiện bình thường”. Thời kỳ này, Nhà nước cũng đã giảm thuế chuyển quyền sử dụng đất từ 20% xuống 5%. Đây là giai đoạn những năm 2003, 2004 khi chúng ta thực hiện Luật Đất đai năm 2003, nhằm đổi mới việc định giá cả đất đai đã có nhiều lạc hậu, nên Nhà nước phải chuyển sang quy định “khung giá đất”, tuy nhiên đến khi thực hiện thì nó vẫn chưa sát hợp với thị trường vì vẫn chỉ là “giá khung”. Lần thứ ba, xảy ra từ giữa năm 2007 đến khoảng tháng 3, 4 năm 2008. Lúc này, thị trường bất đô ̣ng sản chịu sức ép tăng giá rất lớn khi thị trường chứng khoán tập trung và phi tập trung phát triển bùng nổ (lên cơn sốt) kiểu “bong bóng”, và do vậy, đã có dòng vốn lớn chuyển dịch từ chứng khoán sang bất đô ̣ng sản. Thêm nữa, với chính sách tài chính tín dụng mở rộng, các ngân hàng, tổ chức tài chính, nhà đầu tư 9 nước ngoài đã tài trợ, rót vốn rất lớn cho thị trường bất đô ̣ng sản (đơn cử 1 ví dụ: đến tháng 3 - 2008 ở Thành phố Hồ Chí Minh, tổng dư nợ cho vay bất đô ̣ng sản đạt 34.500 tỷ đồng, chiếm 10% tổng dư nợ của các ngân hàng). Trong mỗi lần biến động như vậy, Nhà nước đều đưa ra các công cụ, biện pháp điều chỉnh “mạnh tay” và nó giống như “cây gậy như ý” đủ hiệu lực dập đi những cơn “lồng lộn” của “chú ngựa ô non trẻ” bất đô ̣ng sản. Tuy vậy, do “dư chấn” của các công cụ điều tiết có đôi lúc thị trường bất đô ̣ng sản lại rơi vào trạng thái “ngủ mê”, “đóng băng” ngay tức thì. Nhưng ở góc độ vĩ mô, chúng ta dễ dàng nhận thấy Nhà nước và các công cụ quản lý của mình đã đóng vai trò bình ổn và dẫn dắt vô cùng quan trọng. Như vậy, thị trường bất đô ̣ng sản rất cần sự can thiệp sâu sát của Nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay, Nhà nước không thể chỉ can thiệp bằng những mệnh lệnh, quyết định hành chính cứng nhắc, mà cần có những biện pháp điều tiết được tiến hành thông qua các công cụ quản lý kinh tế mềm mại, linh hoạt và dân chủ. Do đó, cần nghiên cứu, sử dụng hiệu quả, hiệu lực hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô để điều tiết tốt thị trường bất đô ̣ng sản. Ở nước ta, Nhà nước vừa là “người chủ” đại diện cho sở hữu toàn dân về đất đai, vừa là người tiêu dùng đất rất lớn để phục vụ cho sự phát triển của đất nước, trong đó có các dự án công cộng. Nhà nước vừa là chủ thể sở hữu, sử dụng đất, vừa là người cung ứng đất (qua việc giao đất, cho thuê đất), nhưng lại là trọng tài xử lý các tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai, bất đô ̣ng sản. Nhà nước còn quản lý đô thị, bảo vệ môi trường nhưng cũng phải sử dụng hiệu quả quỹ đất để bảo đảm quyền có nơi ở, nhà ở hợp pháp cho nhân dân theo Hiến pháp và Luật Nhà ở. Rõ ràng, Nhà nước có rất nhiều chức năng, vai trò trong viê ̣c điều tiết sử dụng đất đai, bất đô ̣ng sản, thị trường bất đô ̣ng sản. Vì vâ ̣y, viê ̣c sử dụng hiệu quả, hiệu lực các công cụ quản lý vĩ mô là điều càng cần thiết nhằm điều tiết tốt thị trường bất đô ̣ng sản. Hệ thống công cụ quản lý vĩ mô đối với thị trường bất đô ̣ng sản là một chỉnh thể thống nhất của các quan điểm, chiến lược, giải pháp, phương tiện cụ thể được Nhà nước sử dụng trong quá trình hiện thực hoá các mục tiêu đã đặt ra. Hiện nay, Nhà nước quản lý thị trường bất đô ̣ng sản dựa trên những loại công cụ chính sau: các công 10 cụ pháp luật về đất đai, bất đô ̣ng sản; các công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; các công cụ tài chính bất đô ̣ng sản; các công cụ quản lý hành chính. Các công cụ này có mục tiêu, đối tượng tác động cụ thể khác nhau, nhưng đều hướng vào mục đích chung lớn hơn cả là tạo ra và duy trì sự ổn định, phát triển lành mạnh, bền vững về mọi mặt kinh tế - chính trị - xã hội - môi trường cho thị trường bất đô ̣ng sản. Chúng có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của thị trường bất đô ̣ng sản, mà còn đối với toàn bộ các loại thị trường trong nền kinh tế nước ta, vì thị trường đất đai, nhà ở là nền tảng, là môi trường tồn tại cho các hoạt động khác của con người. Nói cách khác, chúng có tác dụng tạo ra môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi và như là “bà đỡ” để giúp thị trường bất đô ̣ng sản phát triển hiệu quả, bền vững. 2.1.1. Công cụ luật pháp Công cụ luâ ̣t pháp bao gồm những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hàng hoá bất đô ̣ng sản, các giao dịch và dịch vụ liên quan đến thị trường bất đô ̣ng sản. Nó điều chỉnh từ giai đoạn giao đất, tạo thành bất đô ̣ng sản giao dịch trên thị trường. Cụ thể, các văn bản pháp luâ ̣t trong lĩnh vực này gồm Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất đô ̣ng sản, Luật Thuế chuyển quyền sử dụng đất, Luật Hợp đồng kinh tế... Sau 8 năm triển khai thực hiện Luật Nhà ở và 7 năm thực hiện Luật Kinh doanh bất động sản đã có những chuyển biến mạnh mẽ tạo hành lang pháp lý quan trọng cho lĩnh vực này. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại những bất cập rất đáng kể. cả 2 Luật hiện hành chưa có quy định để điều tiết khiến thị phát triển chưa ổn định, đầu tư dự án dàn trải, năng lực chủ đầu tư yếu, nhiều dự án chậm tiến độ, để đất hoang hóa…. Cung cầu BĐS mất cân đối, thiếu nguồn cung quy mô vừa và nhỏ, giá thấp để phục vụ nhu cầu của số đông người dân, trong khi lại thừa, tồn kho căn hộ cao cấp… Hiện Luật Kinh doanh BĐS còn nhiều quy định quá chặt chẽ, chưa thật tạo điều kiện khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư kinh doanh BĐS tại Việt Nam. Tuy nhiên lại cũng có một số quy định quá cởi mở, quá “lỏng” dẫn đến việc đăng ký kinh doanh BĐS quá dễ dãi, tràn lan và hiệu quả kinh doanh, sử dụng các nguồn lực không hiệu quả, không tiết kiệm, để lãng phí, nhất là nguồn lực về đất đai. 11 2.1.2. Công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất Việc thị trường bất động sản trầm lắng trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết của thị trường. Một trong những khiếm khuyết lớn nhất là tình trạng phát triển đô thị, phát triển dự án nhà ở, khu đô thị mới một cách tự phát, thiếu quy hoạch và kế hoạch không căn cứ vào nhu cầu thực của thị trường. Từ đó dẫn đến việc phát triển không đồng bộ, thiếu kết nối hạ tầng, cơ cấu nhà ở không phù hợp với nhu cầu của thị trường, cung vượt quá cầu gây lãng phí tài nguyên đất đai và vốn đầu tư của xã hội. Một trong những khiếm khuyết lớn nhất là tình trạng phát triển đô thị, phát triển dự án nhà ở, khu đô thị mới một cách tự phát, thiếu quy hoạch và kế hoạch, không căn cứ vào nhu cầu thực của thị trường. Thời gian vừa qua, có tình trạng cứ có đất trống là có doanh nghiệp xin lập quy hoạch và triển khai dự án. Tại nhiều thành phố, từ nội thành đến ngoại thành, khắp nơi đều có dự án phát triển đô thị, nhà ở, nhưng lại thiếu vắng “nhạc trưởng” để điều tiết dẫn đến việc phát triển các khu đô thị mới, không đồng bộ, thiếu kết nối hạ tầng trong dự án với hạ tầng chung đô thị. Đặc biệt là thiếu kế hoạch tổng thể để cân đối khả năng huy động vốn đầu tư cũng như khả năng hấp thụ của xã hội. Sản phẩm thị trường nhà ở mất cân đối, dư thừa nhiều sản phẩm cao cấp, không phù hợp với khả năng thanh toán của người dân. Nhiều công trình làm ra mà không sử dụng được vì không có dịch vụ đô thị, thiếu đồng bộ. Đây cũng là nguyên nhân làm cho thị trường bất động sản trở nên trầm lắng. Như vậy không phải chúng ta chưa có quy hoạch, kế hoạch cho thị trường bất động sản, mà là có nhưng lại “thiếu” và “yếu”. Với nghị định 11/2013/NĐ-CP Chính phủ và cả thị trường bất động sản đang hy vọng nghị định này sẽ giải quyết được khiếm khuyết của thị trường, mở ra một trang sáng sủa cho thị trường bất động sản. Bởi vì theo nghị định 11/2013/NĐ-CP, một Đô thị muốn phát triển buộc phải hình thành các khu vực phát triển đô thị, sau đó phải lập kế hoạch để thực hiện, trong đó xác định rõ những dự án ưu tiên. Trong những dự án ưu tiên đó cũng phải xác định rõ những gì cần làm trước, những gì làm sau để tập trung nguồn lực, kể cả nguồn lực của Nhà nước và nguồn lực ngoài Nhà nước để đầu tư phát triển đô thị một cách đồng bộ. Nếu như trước đây Dự án được hình thành trên nền Quy hoạch chung, thì nay sẽ phải tiến hành Quy hoạch phân khu trên nền Quy hoạch chung, trên nền Quy hoạch phân khu xác định các Dự án đầu tư phát triển đô thị, nghĩa là cụ thể hóa một bước Quy hoạch 12 chung. Như vậy, trên nền Quy hoạch chung sẽ phải có kế hoạch để thực hiện, phải lên được kế hoạch đó, trong đó tập trung vào kế hoạch giai đoạn đầu, kế hoạch 5 năm, hàng năm. Muốn thế thì phải xác định được khu vực phát triển tập trung vào đâu, có trọng tâm trọng điểm khi Xây dựng kế hoạch. Điều đó sẽ đảm bảo sự khớp nối về hạ tầng, không gian Đô thị theo một lộ trình rõ ràng. Chưa bao giờ Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành lại đồng loạt vào cuộc như trong thời gian này. Đây hy vọng là động thái tích cực cải thiện thị trường Bất động sản đã đóng băng trong thời gian qua 2.1. 3. Công cụ tài chính bất đông ̣ sản Các công cụ, chính sách tài chính luôn có vai trò cực kỳ quan trọng trong viê ̣c tạo vốn, nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường bất đô ̣ng sản cũng không là ngoại lệ. Các tài sản bất đô ̣ng sản thường có giá trị rất lớn nên việc tạo lập và giao dịch chúng qua thị trường sẽ cần nguồn vốn lớn. Điều này sẽ được giải quyết khi sử dụng các công cụ tài chính bất đô ̣ng sản như: vốn vay, trái phiếu đô thị và xây dựng, tín dụng uỷ thác xây dựng bất đô ̣ng sản, ngân sách đầu tư vào kết cấu hạ tầng, chính sách thuế và phí tài sản bất đô ̣ng sản… Những công cụ này vừa có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển, lại vừa có khả năng tàn phá lớn đối với thị trường bất đô ̣ng sản. Cuộc khủng hoảng tín dụng bất đô ̣ng sản ở Mỹ và chính sách tài chính, tín dụng nới lỏng cho thị trường bất đô ̣ng sản ở nước ta cuối năm 2007, đầu năm 2008 đã minh chứng rõ điều đó. Do đó, cần khéo léo sử dụng công cụ tài chính bất đô ̣ng sản để góp phần ổn định kinh tế - xã hô ̣i của đất nước. Nhà nước, chính phủ, quốc hội đang thực hiện nhóm giải pháp toàn diện bao gồm: hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước, bảo đảm thị trường phát triển ổn định theo quy hoạch, kế hoạch, đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội; thực hiện rà soát các dự án phát triển nhà ở, khu đô thị để phân loại các dự án cần tạm dừng, được tiếp tục triển khai và các dự án cần điều chỉnh cơ cấu, đảm bảo cấn đối cung – cầu; kết hợp giữa tái cơ cấu nợ cũ và giải quyết cho vay mới để hoàn thành các dự án giang dở đã có đầu ra; có gói tín dụng dành cho người mua nhà, theo đó các ngân hàng thương mại nhà nước dành tỷ lệ tối thiểu 3% tổng dư nợ tín dụng cho các đối tượng có thu nhập thấp, cán bộ công chức viên chức, lực lượng vũ trang vay mua, thuê mua nhà ở xã hội và nhà ở thương mại có diện tích nhỏ hơn 70m 2, giá bán dưới 15 triệu đồng/m2 với lãi 13 suất thấp, thời hạn từ 10-15 năm, phần chênh lệch lãi suất được giải quyết bằng cho vay tái cấp vốn; cho phép thực hiện giảm 50% thuế suất VAT đầu ra đối với đầu tư, kinh doanh nhà ở xã hội trong thời hạn 12 tháng; giảm 30% VAT đầu ra đối với đầu tư, kinh doanh nhà ở là căn dưới 70m 2 có giá bán dươ dưới 15 triệu đồng /m 2 trong thời hạn 12 tháng; áp dụng thuế suất 10% thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ đầu tư kinh doanh nhà ở xã hội... 2.1.4. Công cụ quản lý hành chính Đây là hệ thống văn bản hành chính quy định thủ tục tạo lập, giao dịch, chuyển nhượng quyền liên quan tới nhà đất, bất đô ̣ng sản. Nó là cơ sở tạo ra “chứng minh thư” cho các hàng hoá bất đô ̣ng sản giao dịch trên thị trường. Nếu thủ tục càng đơn giản, minh bạch, chi phí vừa phải thì nó sẽ làm tăng tính “thanh khoản” cho hàng hoá và thị trường. Do vậy, cần thống nhất về thủ tục đăng ký bất đô ̣ng sản theo hướng đơn giản, nhanh gọn, thuận tiện, chi phí thấp, chẳng hạn như thủ tục, chi phí trong giao dịch, chuyển nhượng, công chứng bất đô ̣ng sản... Tăng cường ứng dụng công nghê ̣ thông tin, công nghệ GIS để quản lý hiệu quả bất đô ̣ng sản và thị trường bất đô ̣ng sản. Thực tế ở nước ta, “chiếc gậy” hành chính cưỡng bức đã từng tạo ra được liệu pháp sốc làm dừng ngay những cơn sốt bất đô ̣ng sản, như Nghị định 18, 87 - CP những năm 1997, 1998 hay Nghị định 181/CP năm 2004. Trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục sử dụng khéo léo các “đòn bẩy” kinh tế, tài chính một cách mềm dẻo, cũng như những “cây gậy” hành chính cứng rắn để điều hành thị trường bất đô ̣ng sản trong những cơn “bạo bệnh”. Tuy nhiên, nên hiểu rõ rằng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay, Nhà nước cần điều tiết gián tiếp là chủ yếu để nâng cao hiệu quả nền kinh tế. Tức là, Nhà nước điều tiết thị trường; thị trường lại ra “tín hiệu” để dẫn dắt các doanh nghiệp (các lực lượng thị trường). Đây cũng chính là quan điểm của Đảng ta hiện nay: “Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế,… Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.”[2] Tóm lại, với vai trò quan trọng của hê ̣ thống công cụ quản lý nhà nước về bất động sản, chúng ta cần nghiên cứu thấu đáo, đồng bộ hệ thống này. Có như vâ ̣y mới nâng 14 cao được hiệu lực, hiệu quả sử dụng chúng trong quá trình quản lý thị trường bất đô ̣ng sản ở nước ta./ 2.3. SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ VÀO THỊ TRƯỜNG VÀNG Từ năm 2008 đến nay, chủ yếu do những bất ổn của tài chính tiền tệ thế giới, giá vàng thế giới có sự biến động tăng/ giảm với biên độ lớn. Ở Việt Nam có thêm nguyên nhân là tâm lý của người dân bị tác động quá mức; môi trường kinh tế vĩ mô chưa thật sự ổn định; tỉ lệ lạm phát còn cao. Giá vàng trong nước biến động với biên độ khá lớn, và có những biến động thất thường gây ra tâm lý bất ổn cho người dân, ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế làm người dân thiệt hại theo giá vàng. Vì vậy Nhà nước đã sử dụng các công cụ quản lý Nhà nước để nhằm ổn định thị trường vàng ở nước ta. 2.3.1 Chính sách của Nhà nước nhằm ổn định giá vàng Từ năm 2008, khi thị trường vàng có nhiều biến động, việc cho vay, huy động bằng vàng đã gây nhiều rủi ro cho các ngân hàng cũng như khách hàng, thậm chí có thể rủi ro đến cả hệ thống. Trong năm 2012, NHNN đã kiên quyết chỉ đạo chấm dứt hoạt động này với các biện pháp đồng bộ, chặt chẽ. Thêm nữa, trong gần hai năm qua, Việt Nam không có nhập khẩu vàng như trước kia. Trước đây mỗi năm chúng ta nhập 50-100 tấn, còn gần hai năm trở lại đây chỉ nhập 30 tấn. Mặt khác, trên thị trường không có chuyện đầu cơ làm giá nữa. Qua tìm hiểu thị trường, NHNN nhận thấy nhu cầu mua vàng đầu tư vẫn còn nhưng giảm rất mạnh. Ngoài việc điều tiết cung cầu, mục tiêu đặc biệt quan trọng của NHNN là chống “vàng hóa”. Vì vàng là mặt hàng mà pháp luật cho phép kinh doanh, mua bán nhưng không khuyến khích vì không mang lại giá trị gia tăng gì cho nền kinh tế cả. Cho nên về mặt dài hạn, để giảm lượng “vàng hóa” thì các chính sách phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao giá trị đồng nội tệ, củng cố lòng tin vào VND và các chính sách điều hành của NHNN sẽ hướng đến huy động nguồn vốn vàng để tập trung phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển đất nước. Trong tròn trịa 4 tháng (từ 28/3 đến 24/7/2013), Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức 46 phiên đấu thầu bán vàng miếng với tổng khối lượng trúng thầu là 1.245.400 lượng...Trong suốt thời gian đấu thầu 46 phiên kéo dài khoảng 4 tháng nay thị trường vàng thế giới và trong nước mặc dù có những biến động khá lớn nhưng thực tế đã 15 không xảy ra tình trạng hoảng loạn trên thị trường cũng như, việc tranh mua tranh bán ồ ạt, mất kiểm soát như những năm trước đó, mặc dù cũng đã có những thời điểm (gần nhất là ngày 23/7) có tình trạng một số người đổ xô đi mua hoặc bán vàng. Như vậy, 4 tháng diễn ra đấu thầu Ngân hàng Nhà nước vừa đóng vai người mua vào người bán đã cầm trịch và ổn định được thị trường trong nước. Đặc biệt, tình trạng “vàng hóa” đã giảm rất nhiều. Hiện người dân cũng chỉ xem vàng là một loại tài sản để cất giữ, tiết kiệm chứ hiện tượng giao dịch, mua bán đã không còn ồn ào, bấn loạn như trước. Đặc biệt, điều cần thiết phải nhấn mạnh là trong quãng thời gian 4 tháng đã nói, nền kinh tế vĩ mô (tăng trưởng, lạm phát) đều không còn bị những tác động lớn từ những diễn biến trên thị vàng như trước đây nữa. 2.3.2 Mục tiêu ( kế hoạch) xây dựng khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng: Căn cứ vào định hướng chỉ đạo của Đảng và Chính phủ về quản lý thị trường vàng, khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng phải đáp ứng các mục tiêu chính sau đây: Một là: đảm bảo và bảo vệ quyền sở hữu vàng hợp pháp của người dân. Hai là: tổ chức, sắp xếp lại một cách căn bản thị trường vàng, đặc biệt là thị trường vàng miếng. Ba là: ngăn chặn ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng ”vàng hóa” trong nền kinh tế; nghiêm cấm việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán; có giải pháp để từng bước huy động nguồn lực vàng trong dân phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Bốn là: nâng cao vai trò quản lý và điều tiết thị trường vàng của Nhà nước. 2.3.3. Hành lang pháp lý nhằm ổn định giá vàng. Để đưa thị trường vàng vào khuôn khổ, Chính phủ đã ban hành một số Nghị định như: 16 - Nghị định 63/1993/NĐ-CP ngày 24/9/1993 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng . - Ngân hàng Nhà nước (2000), Thông tư số 07/2000/TT-NHNN hướng dẫn thi hànhNghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 19/12/1999 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. - Ngân hàng Nhà nước (2006), Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài - Nghị định số 24/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và có hiệu lực thi hành từ ngày 25/5/2012 Nghị định được quan tâm gần đây nhất là Nghị định 24/NĐ-CP về quản lý thị trường vàng chính thức đã được ban hành và có hiệu lực từ 25/5/2012.Những nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện Nghị định 24 và nỗ lực chống vàng hoá đã dần có được những bước tiến ban đầu được thể hiện qua những mặt sau: Trước hết, giá vàng trong nước đã có những diễn biến cùng chiều tăng cùng tăng, giảm cùng giảm với giá vàng thế giới. Điều này cũng đã được minh chứng trong thời gian qua. Thứ nữa, một trong những điểm nhấn quan trọng tại Nghị định 24 là tại khoản 6 Điều 19 quy định rõ 7 hành vi vi phạm, trong đó có sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán. Dù trước đó nhiều ý kiến e ngại sẽ khó thực hiện quy định cấm thanh toán bằng vàng vì tập quán này tồn tại từ lâu đời. Với việc thực hiện Nghị định 24, cùng với thanh tra kiểm tra gắt gao của Ngân hàng Nhà nước, việc thanh toán bằng vàng, nhất là trong lĩnh vực bất động sản, đã giảm rất nhiều, những niêm yết công khai hoàn toàn chấm dứt. Đây có thể coi là bước đột phá trong đề án chống vàng hóa của Ngân hàng Nhà nước. Thứ ba, việc tạm tách thị trường vàng hiện nay thành 2 nhóm, vàng miếng tạm gọi là “vàng tiền” vì vàng rất gần tiền và một loại nữa là vàng trang sức, ý đồ của Ngân hàng Nhà nước là độc quyền sản xuất vàng tiền. Vì thế, việc mua bán trên thị trường cũng để thị trường lưu thông với những điều kiện nhất định, không cởi mở như ngày xưa. Còn vàng ít gần tiền hơn là vàng trang sức, thì cho tự do, chỉ giám sát chất lượng để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan