MỤC LỤC
Mở đầu ………………………………………………………
2
Nội dung……………………………………………………...
3
A. Phạm vi nghiên cứu…………………………………….
3
B. Kết cấu tiểu luận………………………………………..
3
C. Nội dung từng phần
I.
Một số định nghĩa………………………………..
II.
III.
IV.
3
Vai trò của pháp luật trong quá trình xây đựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định
hướng XHCN….
4
Sự tác động trở lại của kinh tế đối với pháp
luật…
13
Một số giải pháp đề xuất kiến nghị………………
13
Kết luận………………………………………………………
15
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng
và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối để phát triển
nền kinh tế quốc dân. Trong đó việc phát triển nền kinh tế
hàng hoá là nhiệm vụ cơ bản nhất. Nước ta là một nước nông
nghiệp lạc hậu, kinh tế đi lên chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự
cung, tự cấp. ở một số vùng núi còn mang đậm dấu ấn của
kinh tế tự nhiên. Lại trải qua nhiều năm chiến tranh, nền kinh
tế nước ta không thể vươn dậy nổi một cách vững chắc, hàng
hoá sản xuất ra không đủ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của
người dân. Hơn thế nữa kinh tế hàng hoá ở nước ta lại có một
thời gian dài hoạt động theo cơ chế của nền kinh tế tập trung
chỉ huy. Do vậy việc xây dựng một quan hệ sản xuất mới tạo
điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển nhằm thúc đẩy nền
kinh tế hàng hoá phát triển là một việc làm tối quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã nảy sinh một số
vấn đề tiêu cực như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng và tệ
2
nạn xã hội khiến kinh tế không thể phát triển ổn định, bền
vững. Từ đó đặt ra yêu cầu phải xây dựng khung khổ pháp lý,
hệ thống pháp luật cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra
hiệu quả.
Từ những tác động của pháp luật đối với kinh tế em xin lựa
chọn đề tài : "Vai trò của pháp luật trong quá trình xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN
có sự quản lý của nhà nước ở Việtj Nam hiện nay".
3
NỘI DUNG
A. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong đề tài này chúng em tập trung nghiên cứu về các
vấn đề cơ bản về pháp luật, kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
định hướng XHCN vai trò quản lý của nhà nước và pháp luật đối
với nền kinh tế, trên cơ sở đó đua ra các giải pháp nhằm thúc
đẩy nền kinh tế ở nước ta phát triển.
B. Kết cấu tiểu luận gồm các nội dung sau
I.
II.
III.
IV.
Một số định nghĩa
Vai trò của pháp luật trong quá trình xây đựng nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN
Sự tác động trở lại của kinh tế đối với pháp luật
Một số giải pháp, đề xuất, kiến nghị
C. Nội dung từng phần
I.
Một số định nghĩa
1. Pháp Luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn
định trong xã hội
Đặc điểm của pháp luật
- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến
- Quy phạm pháp luật có tính xác định chặt chẽ về mặt
hình thức
- Được nhà nước đảm bảo thực hiện để bảo vệ quyền
lợi giai cấp thống trị và đảm bảo trật tự an toàn xã
hội.
2. Kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội mà sản
phẩm sản xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường. Trong
kiểu tổ chức mà toàn bộ quá trình sản xuất- phân phối,
trao đổi- tiêu dung sản xuất ra cái gì, cho ai đều thông
qua mua bán và hệ thống thị trường và do thị trường
quyết định.
4
Đặc điểm nền kinh tế hàng hóa ở nước ta
- Nền kinh tế hàng hóa nước ta là nền kinh tế hàng hóa
kém phát triển mang tính tự cung tự cấp đang
chuyển dần sang nền kinh tế hàng hóa phát triển từ
thấp lên cao.
- Nền kinh tế hàng hóa nước ta là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần mang tính quá độ.
- Nền kinh tế hàng hóa nước ta phát triển theo định
hướng XHCN với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
và sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
II.
Vai trò của pháp luật trong quá trình xây đựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định
hướng XHCN
Sự tác động của pháp luật đến các hoạt động kinh tế được
thực hiện thông qua một cơ chế phức tạp. Hoạt động sản
xuất – kinh doanh được tiến hành thông qua hoạt động có
ý thức của con người và phải tuân theo những quy luật
kinh tế khách quan. Pháp luật không đặt ra các quy luật
mà chỉ tác động đến hành vi của người kinh doanh, đặt ra
các tiêu chuẩn cho con người tuân thủ, chấp hành. Đồng
thời pháp luật còn thể hiện yêu cầu của nhà nước đối với
các đơn vị kinh tế dưới dạng quyền và nghĩa vụ của chủ
thể. Do vậy, pháp luật đã trở thành một công cụ vô cùng
quan trọng giúp nhà nước quản lý kinh tế. Hơn nữa quản lý
kinh tế bằng pháp luật là một cách quản lý vô cùng khoa
học, vì có tính dự báo nên nó có khả năng (dù không hoàn
toàn) theo kịp được sự phát triển của kinh tế nước ta. Vai
trò của pháp luật đối với nền kinh tế nước ta được thể hiện
ở những mặt sau:
1. Trước hết, pháp luật xác lập và điều chỉnh các quan
hệ sở hữu.
Quan hệ sở hữu là quan hệ kinh tế cơ bản của xã hội
nên quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản của công
dân và đã được nhiều học giả quan niệm đó là một quyền
tựnhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người.
Ở Việt Nam, pháp luật xác định rõ chế độ và hình thức sở
hữu, vai trò của từng hình thức cũng như việc xác lập và
bảo vệ quyền sở hữu. Thậm chí quan hệ sở hữu kinh tế đã
5
được đưa vào Hiến pháp – văn bản có hiệu lực pháp lý cao
nhất.
Nếu như theo tinh thần Điều 18 Hiến pháp 1980 là
thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thì đến Hiến
pháp 1992, theo tinh thần của công cuộc đổi mới năm
1986, tại Điều 15 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Nhà nước
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
với các hinh thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền
tảng”.
Hiến pháp còn quy định các cơ sở sản xuất kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ đối với Nhà nước, bình đẳng trước pháp luật.
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và
tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức
khác. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của các
chủ thể. Các quy định trên của Hiến pháp cũng được cụ
thể hóa trong bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật
khác.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường là
nền kinh tế có rất nhiều chủ thể tham gia sản xuất kinh
doanh, sử dụng tư liệu sản xuất theo nhiều cách khác
nhau để thu được lợi ích kinh tế, bộ luật dân sự (năm
2005) đã thể hiện quan điểm về sở hữu rộng hơn so với
trước. Bộ luật đề cập đến những nội dung pháp lý cơ bản
như: Đối tượng của quyền sở hữu là các tài sản có thực, có
thể là hữu hình (tiền, hiện vật,…) hoặc vô hình (quyền sở
hữu trí tuệ, quyền đòi nợ,…) (Điều 163). Hay như Điều 164
quy định về quyền sở hữu: “Quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của
chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”. Chủ
sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối
với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh
hưởng đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 165)...Bên cạnh
6
quyền, chủ sở hữu còn có nghĩa vụ trong một số trường
hợp nhất định như trong việc xảy ra những tình trạng cấp
thiết, trong việc bảo vệ môi trường, trong việc tôn trọng,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội...
Ngoài ra, pháp luật còn quy định khá nhiều biện pháp
để bảo vệ quyền sở hữu, từ các biện pháp dân sự như
quyền khiếu kiện đòi lại tài sản hợp pháp; quyền yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp, đến các biện pháp hành chính, hình sự...
2. Thứ hai, pháp luật đóng vai trò tích cực vào việc tổ
chức, quản lý và điều tiết kinh tế.
Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành phần
kinh tế, các hình thức sở hữu, chính sách tài chính, thuế,
tiền tệ, giá cả đầu tư, thu nhập, cơ chế kinh tê, các
phương pháp quản lý kinh tế qua đó tác động tới cơ cấu,
sự tăng trưởng à sự ổn định của nền kinh tế.
Pháp luật thể chế hóa các chính sách kinh tế của hà
nước, điều chỉnh các hợp đồng kinh tế, quy định trình tự
thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế, trình tự và thủ tục giải
quyết tranh chấp kinh tế bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng
của các chủ thể.
Để điều tiết kinh tế, nhà nước sử dụng nhiều công cụ
khác nhau, trong đó pháp luật là công cụ quan trọng nhất
và có tác động lớn nhất. Vai trò này của pháp luật được
thể hiện thông qua việc thể chế hóa chiến lược, chính sách
và kế hoạch phát triển đất nước trong từng giai đoạn để
triển khai thực hiện. Pháp luật thừa nhận sự tồn tại và bình
đẳng của các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu,
tạo điều kiện cho chúng phát triển và bảo vệ chúng, quy
định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể sản xuất
kinh doanh nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo
hướng mà Nhà nước mong muốn. Thông qua các quy định
về thuế, tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu tư, pháp luật góp
phần cơ cấu lại các ngành kinh tế nhằm cải biến nền kinh
tế nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trở
thành nền kinh tế công nghiệp hiện đại đồng thời điều tiết
nền kinh tế theo hướng vừa đảm bảo sự tăng trưởng của
kinh tế, vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế, nhất là trong thời
điểm lạm phát tăng cao như thế này. Trước năm 1986, nhà
7
nước ta thực hiện chính sách bao cấp về kinh tế, không
cho phép những doanh nghiệp tư nhân và những doanh
nghiệp có vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Nhưng từ
sau công cuộc đổi mới năm 1986, đất nước ta bắt đầu “cởi
trói” nền kinh tế bằng nhiều chính sách. Ví dụ để mở rộng
hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển kinh tế quốc dân trên
cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của
đất nước; Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua “Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”
trong kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ngày 12 tháng 11
năm 1996. Đây là bộ luật nhằm khuyến khích đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam, ngay khi ra đời, bộ luật này đã phát
huy được vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế nước ta.
Chẳng hạn như Điều 21 trong luật này đã quy định: “Trong
quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn và tài sản hợp pháp
khác của các nhà đầu tư nước ngoài không bị trưng dụng
hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa. Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư
nước ngoài trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại
Việt Nam. Trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp
luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp
đồng hợp tác kinh doanh đã được cấp giấy phép, thì nhà
nước có biện pháp giải quyết thỏa đáng đối với quyền lợi
của nhà đầu tư”. Ngoài ra, trong “Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam” năm 1996 còn rất nhiều những quy định
khác để đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp nước ngoài
khi tham gia và nền kinh tế Việt Nam, khuyến khích đầu tư
như: Điều 31, Điều 32, Điều 39... Ngoài ra để đảm bảo sự
ổn định kinh tế, thông qua pháp luật, các pháp lệnh,... nhà
nước ta còn đặt ra các quy định về giá và việc mua thóc,
cà phê hiện nay; về giá điện, ga; mức trần lãi suất tiết
kiệm (đối với năm 2011 là 14%), tỉ giá hối đoái,...
Pháp luật góp phần thiết lập cơ chế quản lý kinh tế
mới với sự kết hợp nhiều biện pháp quản lý khác nhau,
trong đó các biện pháp kinh tế là chủ yếu. Thông qua việc
tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các chủ thể sản
8
xuất kinh doanh, bằng việc quy định các biện pháp thưởng
tiền, khuyến khích vật chất, phạt tiền, bồi thường thiệt hại,
pháp luật có thể điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh
doanh theo hướng mà Nhà nước mong muốn. Pháp luật
còn có thể góp phần cơ cấu lại các ngành kinh tế thông
qua việc quy định những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu,
hỗ trợ giá, tỉ lệ đầu tư trực tiếp. Những quy định trên có
thể khuyến kích sự phát triển của ngành này cũng như kìm
hãm sự phát triển của ngành khác theo mong muốn của
nhà nước. Ví dụ như khi giá xăng dầu thế giới lên cao, để
đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng và các doanh nghệp
kinh doanh xăng dầu, Nhà nước đã đưa ra chính sách trợ
giá đối với mặt hàng này giúp cho người tiêu dùng vẫn
được mua xăng dầu với mức giá hợp lý mà doanh nghiệp
cũng không bị thiệt hại. Bên cạnh đó, với những mặt hàng
mà Nhà nước muốn kìm hãm việc nhập khẩu nó thì thông
qua pháp luật Nhà nước lại đánh những mức thuế cao đối
với những mặt hàng đó như thuốc lá (60% giá bán); bia,
rượu nhập khẩu (45%);...Nhưng với việc Việt Nam gia nhập
WTO (2007) thì những quy định của pháp luật trong việc
trợ giá cũng như quy định các loại thuế đều không được vi
phạm cam kết Việt Nam đã ký.
3. Thứ ba, pháp luật còn là công cụ điều tiết lợi ích của
các chủ thể khi tham gia thị trường
Lợi ích kinh tế là vấn đề đặc biệt quan trọng trong
nền kinh tế thị trường bởi lẽ lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của chủ thể sản xuất kinh doanh. Để đạt được
lợi nhuận tối đa, các chủ thể sản xuất kinh doanh sẵn sàng
áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, tìm kiếm thị
trường, tìm kiếm các biện pháp sản xuất kinh doanh có
hiệu quả,...nhưng đồng thời họ cũng sẵn sàng sử dụng các
biện pháp tiêu cực như: cạnh tranh không lành mạnh, trốn
thuế, lừa đảo,...Do vậy, pháp luật là công cụ không thể
thiếu để điều tiết lợi ích các chủ thể.
Pháp luật quy định khuôn khổ cạnh tranh để khuyến
khích hành vi đúng, thúc đẩy sự tăng trưởng của kinh tế;
đồng thời quy định những biện pháp xử lý những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh nhằm bảo vệ lợi ích của
người sản xuất, người lao động và đặc biệt là người tiêu
dùng. Tại Điều 4 Luật Cạnh tranh năm 2004 có quy định
về nguyên tắc cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế như sau:
9
“1. Doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ
pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp
trong kinh doanh.
Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc
trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy
định của Luật này”.
Cũng trong bộ luật này tại Điều 13 có quy định cụ thể
về “Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị
cấm”: “Cấm doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường thực hiện các hành vi sau đây:
- Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn
bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh;
- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý
hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho
khách hàng;
- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới
hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công
nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
- Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao
dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh
tranh;
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp
đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh
nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
- Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ
cạnh tranh mới”.
Những quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu
dùng quy đinh trách nhiệm, nghĩa vụ của người sản xuất,
kinh doanh đối với các loại hàng hóa, dịch vụ gây tổn hại
đến quyền lợi của người tiêu dùng, đặc biệt là những loại
hàng hóa ảnh hưởng đến sức khỏe và sự an toàn của con
người, xác định những chế tài cho hành vi làm hàng giả,
hàng nhái, hàng kém chất lượng. Pháp luật thiết lập cơ chế
hữu hiệu để giải quyết nhanh chóng và hiệu quả các khiếu
nại của người tiêu dùng. Hiện tại, quyền lợi của người tiêu
dùng được bảo vệ bởi các quy định trong các văn bản luật
như: Luật Doanh nghiệp (năm 2005), Luật Thương mại
(năm 2005), Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
(năm 1999),... Cụ thể, trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi
10
người tiêu dùng (1999) có quy định: “Tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải giải quyết kịp thời
mọi khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ
của mình không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá
cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết; thực hiện trách
nhiệm bảo hành hàng hoá, dịch vụ đối với khách hàng”
(Điều 16), hoặc “Người nào sản xuất, kinh doanh hàng
cấm, thuốc chữa bệnh giả, thực phẩm giả và các loại hàng
giả khác; thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh,
an toàn; sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng hàng hoá, dịch
vụ gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường, nguy hại
đến tính mạng, sức khoẻ của con người, trái với thuần
phong mỹ tục; thông tin, quảng cáo sai sự thật; gian lận
trong cân, đong, đo, đếm hoặc có hành vi khác vi phạm
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì tuỳ theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại cho người
tiêu dùng thì phải bồi thường theo quy định của pháp
luật.” (Điều 26)…
Ngoài ra, pháp luật còn khẳng định nguyên tắc tự do
hợp đồng, ghi nhận và tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiên
nguyên tắc tự do kinh doanh, mở rộng quyền cho các
doanh nghiệp trong việc định đoạt các vấn đề phát sinh
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nguyên tắc mọi
doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu đều được
bình đẳng trước pháp luật, tạo ra một “sân chơi chung”
cho các chủ thể sản xuất kinh doanh. Pháp luật quy định
về thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế, pháp luật bảo vệ
quyền lợi của các chủ nợ và người lao động trong trường
hợp doanh nghiệp bị phá sản, bảo vệ quyền lợi cho các
chủ thể sản xuất kinh doanh khi xảy ra tranh chấp giữa
họ, đồng thời đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Trong Luật phá sản (năm 2004) có những quy định về việc
bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và người lao động trong
trường hợp doanh nghiệp bị phá sản như sau: “Trường hợp
Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ chưa đến hạn
vào thời điểm mở thủ tục thanh lý được xử lý như các
khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời
gian chưa đến hạn” (Điều 34), hay tại khoản 1 Điều 37
trọng bộ luật này cũng quy định về thứ tự phân chia tài
sản khi doanh nghiệp phá sản: “Trường hợp Thẩm phán ra
11
quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã thì việc phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã theo thứ tự sau đây:
- Phí phá sản;
- Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã
hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi
khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao
động đã ký kết;
- Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ
nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc nếu giá
trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ
nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá
trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì
mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ
của mình theo tỷ lệ tương ứng”.
4. Pháp luật góp phần tạo ra điều kiện để giải quyết
những vấn đề xã hội phát sinh từ nền kinh tế
Giống như các nước khác trên thế giới, nền kinh tế thị
trường nước ta cũng bộc lộ đầy đủ những ưu nhược điểm
của nền kinh tế thị trường nói chung. Nền kinh tế thị
trường nước ta có những ưu điểm như kích thích việc áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; thúc đẩy các
nhà sản xuất, kinh doanh năng động, đổi mới thường
xuyên; cơ chế thị trường còn có khả năng tự động điều tiết
nền sản xuất xã hội, kích thích sự phát triển sản xuất, tăng
trưởng kinh tế theo cả chiều rộng và chiều sâu, tăng
cường chuyên môn hóa sản xuất,...Song bên cạnh những
ưu điểm trên nền kinh tế thị trường nước ta còn bộc lộ khá
nhiều nhược điểm, nhiều mặt tiêu cực cần phải khắc phục,
nhiều vấn đề xã hội cần phải giải quyết, để giải quyết
những vấn đề này cần phải có sự tác động của pháp luật,
vai trò của pháp luật đối với những ảnh hưởng của nên
kinh tế thị trường đối với xã hội cũng thể hiện rõ thông
qua việc giải quyết những vấn đề này.
Cùng với khủng hoảng kinh tế, tình trạng thất nghiệp
là căn bệnh khó chữa của nền kinh tế thị trường. Hiện tại,
tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam còn ở mức độ cao (2,88%
trong năm 2010 Theo vnexpress.net) và đang là một trong
những vấn đề nóng bỏng của xã hội. Pháp luật góp phần
giải quyết vấn đề thất nghiệp bằng việc quy định trách
12
nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn
xã hội trong việc giải quyết việc làm. Tại khoản 3 và 4
Điều 17 Luật Lao động năm 1994 có quy định: “3- Các
doanh nghiệp phải lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc
làm theo quy định của Chính phủ để kịp thời trợ cấp cho
người lao động trong doanh nghiệp bị mất việc làm.
Chính phủ có chính sách và biện pháp tổ chức dạy
nghề, đào tạo lại, hướng dẫn sản xuất kinh doanh, cho vay
vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm,
tạo điều kiện để người lao động tìm việc làm hoặc tự tạo
việc làm; hỗ trợ về tài chính cho những địa phương và
ngành có nhiều người thiếu việc làm hoặc mất việc làm do
thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ”.
Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gay gắt trong xã
hội cũng là một hệ quả không mong đợi từ nền kinh tế thị
trường. Ở nước ta hiện nay, sự phân hóa giàu nghèo, sự
chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa
đồng bằng và miền núi,... khá sâu sắc. Pháp luật góp phần
tích cực vào việc giảm bớt sự phân hóa, sự chênh lệch nói
trên thông qua việc quy định chế độ thuế thu nhập lũy
tiến, chế độ trợ cấp ưu đãi đối với những người có công với
đất nước, chế độ cho vay vốn để thực hiện việc xóa đói
giảm nghèo trong xã hội; quy định mức lương tối thiểu cho
người lao động,...
Ngoài ra, nền kinh tế thị trường còn có một nhược
điểm không thể tránh khỏi nữa là ô nhiễm môi trường. Việc
chạy theo lợi nhuận đã khiến các chủ thể sản xuất kinh
doanh khai thác vô tổ chức các tài nguyên thiên nhiên,
thực hiện không nghiêm túc việc xử lý chất thải công
nghiệp, sử dụng các hóa chất,...gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng. Trước tình hình đáng báo động đó thì nhà
mước cũng đã đặt ra một số luật để bảo vệ môi trường
như: các quy định của Hiến pháp, Luật Đất đai, Luật tài
nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường,... Chẳng hạn tại
khoản 1 Điều 66 Luật bảo vệ môi trường (năm 2005) có
quy định về trách nhiệm quản lý chất thải như sau: “Tổ
chức, cá nhân có hoạt động làm phát sinh chất thải có
trách nhiệm giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng để hạn chế
đến mức thấp nhất lượng chất thải phải tiêu huỷ, thải bỏ”.
Còn tại Điều 127 của bộ luật này quy định về việc xử lý vi
phạm đối với những chủ thể gây nên ô nhiễm mối trường:
“1. Người vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường thì tuỳ
13
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây ô
nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ
chức, cá nhân khác thì còn phải khắc phục ô nhiễm, phục
hồi môi trường, bồi thường thiệt hại theo quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Người đứng đầu tổ chức, cán bộ, công chức lợi dụng
chức vụ, quyền hạn gây phiền hà, nhũng nhiễu cho tổ
chức, công dân, bao che cho người vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường hoặc thiếu trách nhiệm để xảy ra ô
nhiễm, sự cố môi trường nghiêm trọng thì tuỳ tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại thì còn phải bồi
thường theo quy định của pháp luật”.
Tất cả các quy định trên của pháp luật giúp cho việc
kiểm soát việc khai thác và sử dụng các tài nguyên thiên
nhiên một cách hợp lý; đồng thời, có thể ngăn chặn tình
trạng tàn phá và gậy ô nhiễm môi trường, bảo vê môi
trường sinh thái Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
5. Pháp luật có tác dụng tạo dựng mội trường pháp lý
cho các hoạt động kinh tế của các tổ chức và cá
nhân được tiến hành thuận lợi, có trật tự và đạt
hiệu quả kinh tế cao.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì pháp
luật phải thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế
khác nhau, tạo điều kiện cho chúng cùng tồn tại và phát
triển, không nên loại trừ hay hạn chế chúng mà phải cố
gắng kiểm soát chúng, định hướng, điều tiết sự phát triển
của chúng, khai thác tối đa tính năng động, tính hiệu quả
của chúng. Điều này có ảnh hưởng rất lớn tới sự tăng
trưởng của nền kinh tế, góp phần tăng thu nhập quốc
dân và nâng cao đời sống nhân dân. “sự quản lý của nhà
nước đối với nền kinh tế chỉ có thể thực hiện và phát huy
đầy đủ nhất, có hiệu quả nhất khi được xác nhập giữa
một hình thức pháp luật nhất định và được bảo đảm thực
hiện bởi một cơ chế pháp luật thích hợp”. Có thể nói,
trong thời đại hiện nay pháp luật đã trở thành một bộ
phận cấu thành của nền kinh tế. Thiếu pháp luật, nền
kinh tế, nhất là nền kinh tế thị trường rất khó vận hành
hoặc vận hành không có hiệu quả, các hoạt động kinh tế
sẽ trở nên hỗn loạn, không thể kiểm soát.
14
Đưa ra những biện pháp kiểm tra, giám sát đối với
các hoạt động kinh tế của các tổ chức và cá nhân như
chủ thể nào có thẩm quyền kiểm tra, giám sát? kiểm tra
giám sát những hoạt động kinh tế gì? Đối với các tổ chức
đơn vị kinh tế nào? Quy định các biện pháp bảo vệ lợi ích
của các chủ thể sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích của
người tiêu dùng và lợi ích chung của toàn xã hội. Xử lý
những hiện tượng tiêu cực trong quá trình hoạt động kinh
tế của các chủ thể kinh tế. Pháp luật thường xác định chủ
thể có thẩm quyền xử lý và các biện pháp mà họ có thể
áp dụng để ngăn ngừa và trừng phạt những hành vi vi
phạm pháp luật, những hoạt động tiêu cực trong các hoạt
động kinh tế.
Đối với các tổ chức, đơn vị kinh tế khi tiến hành các
hoạt động sản xuất, kinh doanh đều phải dựa trên những
quy định của pháp luật. Pháp luật là cơ sở pháp lý để các
chủ thể thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Những quy định pháp luật về trình tự, thủ tục trong đăng
ký kinh doanh, liên quan đến các hoạt động kinh tế ngày
càng trở nên đơn giản, thuận lợi, thông thoáng hơn đã
làm cho các hoạt động đầu tư trong và ngoài nước tăng
lên, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc của các
tổ chức và nhân dân.
6. Pháp luật giúp cho thành phần kinh tế nhà nước
vươn lên hoạt động hiệu quả hơn để cùng cạnh
tranh lành mạnh với các thành phần kinh tế khác.
Khi nhà nước tuyên bố các thành phần kinh tế bình
đẳng, pháp luật cho phép các doanh nghiệp nước ngoài
đầu tư tại Việt Nam đã thu hút được vốn, công nghệ của
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, kích thích sự tăng
trưởng của nền kinh tế Việt Nam; việc giao quyền tự chủ
cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh đã nâng cao tính
năng động sáng tạo, trách nhiệm và hiệu quả trong hoạt
động kinh tế của các đơn vị kinh tế.
7. Bên cạnh những tác động tích cực pháp luật cũng
gây ra một số tác động tiêu cực đến nền kinh tế
Khi pháp luật phản ánh không đúng, những quy định
của pháp luật quá cao hoặc quá thấp so với trình độ phát
triển kinh tế thì chúng sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh
tế thậm chí làm kinh tế phát triển lệch hướng và mang lại
15
những tác hại nhất định cho nên nếu pháp luật không phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế tụt hậu so với tiến
trình pát triển kinh tế của thế giới.
Nếu các quy định của pháp luật cao hơn trình độ của nền
kinh tế thì nền kinh tế sẽ không thể đáp ứng các quy định
đó. Từ đó dẫn đến khủng hoảng, thieeud hụt trầm trọng
nguồn lực kinh tế. Còn nếu các quy định của pháp luật
thấp hơn trình độ phát triển của nền kinh tế thì nền kinh
tế sẽ bị kìm hãm bởi các quy định lạc hậu bảo thủ.
Sự thiếu hụt về các quy định pháp luật đối với các linh
vực nhất định mà hầu như là trong các linh vực kinh tế
còn mới xuất hiện làm thiếu hụt cơ sở pháp lí để bảo đảm
cho các thành phần kinh tế, các tổ chức cá nhân có thể
chủ động bình đẳng tu do to chức sản xuất kinh doanh
những ngành nghề mà pháp luật khồng cấm trong đó có
nhiều ngành nghề mới lạ.
Hệ thống pháp luật nếu không phù hợp sẽ ảnh hưởng
tiêu cực không nhỏ đối với nền kinh tế. Tuy nhiên nhà
nước đang ngày càng chú trọng trong việc xây dựng và
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp, cụ
thể để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
III.
Sự tác động trở lại của kinh tế đối với pháp luật
Nền kinh tế của nước ta đang được xây dựng trên cơ sở
nền sản xuất nhỏ lẻ, sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ trọng
lớn và sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các khu
vực. Bởi vậy, Nhà nước phải tạo tiền đề cho nền kinh tế
hàng hóa, nhiều thành phần với sự hình thành và phát
triển đồng bộ của các loại hình thị trường như thị trường
hàng hóa, thị trường lao động, thị trường dịch vụ.
Nền kinh tế của nước ta hiện nay được xây dựng và
phát triển trên cơ sở nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
cao độ, dựa chủ yếu trên hình thức sở hữu công, được
quản lí bằng phương pháp hành chính, phương pháp mệnh
lệnh, phục tùng và theo cơ chế quan liêu, bao cấp.Cho
16
nên, pháp luật nước ta cần phải trở thành công cụ xóa bỏ
triệt để cơ chế đó để thiết lập một cơ chế kinh tế mới đảm
bảo cho kinh tế thị trường vận hành theo đúng các quy
luật riêng của nó như: quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị
Sự thay đổi của hệ thống pháp luật kinh tế phải đáp ứng
được việc chuyển các quy định mang tính chất mệnh lệnh,
phục tùng sang quy định mang tính chất bình đẳng kính
thích sự năng động, sáng tạo của người lao động, coi trong
chất lượng, hiệu quả và lợi ích.
Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay lấy thành phần quốc
doanh làm chủ đạo. Nhà nước nhất quán lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
giải phóng sức lao động
Nền kinh tế của nước ta theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việc sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình
thức kinh tế, phương pháp quản lí cuả kinh tế thị trường là
để kích thích sản xuất, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất
nước, phát triển kinh tế đúng hướng XHCN.
IV.
Một số giải pháp đề xuất kiến nghị
Từ những tác động tiêu cực của pháp luật đối với nền
kinh tế, cần phải có một số biện pháp để thúc đẩy nền
kinh tế phát triển:
- Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nước ta để
tạo ra môi trường pháp lí phù hợp cho sự phát triển
kinh tế. Hiến pháp mới ban hành là văn bản cơ bản
khẳng định những nguyên tắc nền tảng trên lĩnh vực
kinh tế. Trước mắt cần khẩn trương sủa dổi bổ sung
và ban hành mới một số hệ thống văn bản pháp luật
kinh tế phù hợp với yêu cầu mới. Để đảm bảo thực sự
bình đẳng giữa các nền kinh tế, bảo đảm long tin
giữa các nhà doanh nghiệp trong và ngòai nước với
pháp luật, cần phải ban hành các văn bản pháp luật
do cơ quan có quyền lực cao nhất là Quốc hội ban
hành
17
- Phát triển nền kinh tế có kế hoạch, bảo đảm lợi ích
kinh tế toàn dân với kinh tế của các tổ chức sản xuất
kinh doanh.
- Tổ chức cung cấp thông tin, dịch vụ cho các chủ thể
tham gia kinh tế.
- Cụ thể và đơn giản hóa các khâu trong quá trình thực
hiện pháp luật, đặc biệt trong các lĩnh vực đầu tư, tạo
điều kiện để kinh tế thu hút vốn đâu tư nước ngoài.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thực hiện
phá luật trong kinh tế nói riêng và trong đời sống nói
chung
- Chăm lo phúc lợi xã hội cho mọi thành viên chú ý
quan tâm tới các đối tượng xã hội
18
KẾT LUẬN
Như vậy, pháp luật có vai tròn vô cùng quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Nó đóng vai trò tích cực
trong việc tổ chức quản lý và điều tiết nền kinh tế, là cơ sở
để thực hiện các chính sách kinh tế, các mục tiêu kinh tế
của nhà nước và xã hội đưa nền kinh tế hàng hóa nước ta
phát triển sánh ngang với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Tuy nhiên nó cũng có thể kìm hãm sự phát triển,
làm nền kinh tế thụt lùi và trở nên lạc hậu nếu nó không phù
hợp, tương đồng với trình độ của nền kinh tế. Do vậy khi
xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp luật cần xuất phát
từ những điều kiện kinh tế-xã hội thực tế của đât nước,đặc
biệt là trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa của
Viêt Nam hiện nay.Việc nhận thức đúng đắn vai trò của
pháp luật đối với nền kinh tế sẽ có ý nghĩa rất lớn trong
việc xây dựng và phát triển đất nước,góp phần xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam giàu đẹp, vững mạnh.
19
- Xem thêm -