Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bài báo cáo thực tập-vận dụng nguyên tắc toàn diện trong việc nhận thức văn hóa ...

Tài liệu Bài báo cáo thực tập-vận dụng nguyên tắc toàn diện trong việc nhận thức văn hóa ứng xử nơi công cộng của người việt

.DOC
10
226
54

Mô tả:

Tiểu luận triết học Họ và tên: Nguyễn Susan Lớp: Tài chính tiên tiến K50 VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN TRONG VIỆC NHẬN THỨC VĂN HOÁ ỨNG XỬ NƠI CÔNG CỘNG CỦA NGƯỜI VIỆT LỜI MỞ ĐẦU Đất nước ta đã đi được một chặng đường dài trong công cuộc hơn 20 năm xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Một chăng đường không phải là ngắn với rất nhiều những thách thức và khó khăn. Tuy vậy chúng ta cũng đã gặt hái được những thành tựu bước đầu về chính trị, kinh tế và văn hoá xã hội. Đất nước đang tiếp tục đi lên theo định hưóng xã hội chủ nghĩa ngày càng toàn diện và hoàn thiện hơn. Nền kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực từ nền kinh tế bao cấp, lạc hậu đã trở thành nền kinh tế thị trường đa dạng nhiều thành phần. Bên cạnh đó là nét văn hoá truyền thống tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc còn được lưu giữ và phát huy cho tới tận ngày hôm nay. Một đất nước có đang trên đà phát triển kéo theo nó là công nghiệp, dịch vụ phát triển, đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân được nâng cao cải thiện. Vì thế, người ta biết nhiều hơn đến những nơi được gọi là công cộng, những nơi là điểm đến là tập trung của số đông, những nơi diễn ra các sự kiện lớn, những nơi mà tất cả mọi người đều có thể tham gia vào các hình thức hoạt động khác nhau như rạp chiếu phim, công viên, các lễ hội hay đơn giản là trên đường phố... Và bất cứ nơi nào con người, cùng sự tồn tại, hoạt động, giao tiếp và ứng xử của họ thì nơi đó sẽ xuất hiên cái được gọi là văn hoá- văn hoá ứng xử. Và với mỗi quốc gia thì có lẽ văn hoá ứng xử, và đặc biệt là văn hoá ứng xử nơi công cộng lại chính là những nét trực diện đại diện cho hình ảnh, cho bộ mặt của cả một dân tộc. Nếu như văn hoá truyền thống, văn hoá của những gía trị tinh hoa đut là một nét đẹp ngầm cần phải được lục tìm, khám phá thì văn hoá ưng xử nơi công cộng lại giống như một nét đẹp phải và luôn luôn hiện hữu từng ngày từng giờ trong cuộc sống. Việt Nam cũng không phải một quốc gia nằm ngoại lệ , văn hoá ứng xử cũng đang từng ngày từng giờ khắc hoạ lên hình ảnh con người Việt Nam trong chính tiềm thức của người Việt Nam và trong sự nhìn nhận của bạn bè thế giới. Nguyên tắc toàn diện trong phương pháp nhận thức biện chứng có lẽ là một nguyên tắc phù hợp để ta đưa ra một cách nhìn không chủ quan lệch lạc về rất nhiều sự vật, hiện tuợng và các vấn đề trong xã hội, cuộc sống. Cùng với mong muốn tìm hiểu và có sự nhìn nhận đúng đẵn, thoả đáng về nét văn hoá ứng xử nơi công cộng của người Việt Nam, nên em đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Nguyên tắc toàn diện và vận dụng nhận thức văn hoá ứng xử nơi công cộng của người Việt Nam” Em chia bố cục bài tiểu luận thành các ý cơ bản sau: Chương 1: Lý luận và phân tích lý luận 1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện: nguyên lý mối liên hệ phổ biến 2. Nội dung và một vài yêu cầu vận dụng nguyên tắc toàn diện Chương 2: Vận dụng lý luận vào nhân thức thực tiễn 1. Thực trạng văn hoá ứng xử nơi công cộng của người Việt Nam 2. Nhìn nhận thực trạng dựa trên nguyên tắc toàn diện 3. Tổng kết và một vài giải pháp CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VÀ PHÂN TÍCH LÝ LUẬN 1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện_Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng của thế giới, đông thời nó cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng và đó chính là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Tính chất của mối liên hệ thể hiện trên ba phương diện: Thứ nhất là tính khách quan: nghĩa là sự tác động, quy định hay chuyển hoá lấn nhau của các sự vật hiện tượng ( hay trong chính bản thân chúng) là cái vốn có, tồn tại độc lập với ý thức và mong muốn của con người. Thứ hai là tính phổ biến: không có bất kỳ sự vật hiện tuợng nào tồn tại tuyệt đối độc lạp trong mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác hay chính nó không phải là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận có mối liên hệ với nhau và cấu thành nên nó. Thứ ba là tính đa dạng và phong phú: các sự vật, hiện tượng có các mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của nó; mặt khác, bản thân mỗi mối liên hệ ấy trong những điều kiện hòan cảnh và những thời điểm khác nhau lại có một vị trí vai trò rất khác nhau đối với sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng. Có rất nhiều kiểu mối liên hệ như: mối liên hệ bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, trực tiếp và gián tiếp… 2. Nguyên tắc toàn diện: Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng, triết học Mác-Lênin đã rút ra nguyên một nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có là quan điểm toàn diện hay có thể gọi là nguyên tắc toàn diện. Nội dung cơ bản nhất của nguyên tắc toàn diện là những yêu cầu đòi hỏi trong trong quá trình nhận thức và xử lý tình huống: 1. Muốn nghiên cứu, phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật hiện tượng, phải xem xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố của chính sự vật, đồng thời phải đăt sự vật trong mối liên hệ tổng thể với các mối liên hệ biện chứng của các sự vật hiện tượng khác. Nhưng không được đặt các mối liên hệ đó ngang nhau mà người nghiên cứu sau đó phải đúc rút, xác định được đâu là mối liên hệ bản chất, tất yếu tác động đến quá trình và xu hướng vận động phát triển của sự vật hiện tượng. 2. Do sự vật hiện tượng có tính khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người nên luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng muốn nhận thức không bị phiến diện, bó hẹp , phải tổng hợp sự vật hiện tượng trên khoảng không gian đủ rộng và khoảng thời gian dủ dài. Tính toàn diện ở đây thể hiện trên khía cạnh không-thời gian. Hơn thế nữa không gian và thời gian là vô tận nên không được tuyệt đối hoá tri thức được tìm ra mà phải luôn thừa nhận tính tương đối, hạn chế và cần được bổ sung cho phù hợp với thời gian và hoàn cảnh. 3. Đối với các vấn đề các nghiên cứu xã hội thì phải xem lại các nghiên cứu, các lý luận đã có trước đó để tham khảo, đối chiếu, so sánh với thực trạng xã hội hiện tại đang vận động để có một cái nhìn không chủ quan, và tránh lặp lại các sai lầm đã có về đề tài đang nghiên cứu. Như vậy, chủ nghĩa duy vât biên chứng thể hiện một quan điểm tiến bộ về phương pháp nhận thức biện chứng so với chủ nghĩa siêu hình hay chủ nghĩa duy tâm. Khi chủ nghĩa siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng tồn tại rời rạc, chẳng có sự liên kết nào với nhau, hay có chăng những mối liên hệ đó chỉ mang tính tạm thời, ngẫu nhiên thì quan điểm duy vật biện chứng đã khẳng định thế giới tồn tại là một thể thống nhất trong các mối liên hệ quy định, tác động và chuyển hoá qua lại lẫn nhau. Khi chủ nghĩa duy tâm quy cho nhân tố cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng là năng lực siêu nhiên, là cảm giác của con người ( theo Beccơli_chủ nghĩa duy tâm chủ quan) hay ý niệm tuyệt đối ( theo Hêghen_chủ nghĩa duy tâm khách quan) thì quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định cơ sở của tất cả các mối liên hệ biện chứng đó là tính thống nhất vật chất của thế giới. Và việc có được cơ sở lý luận vững chắc như vậy mà nguyên tắc toàn diện không những đối lập với quan điểm phiến diện ở chỗ chú ý, xem xét nhiều mặt, nhiều mối liên hệ mà nó còn tránh sa đà vào chủ nghĩa chiết trung hay thuật nguỵ biện. Tức là với chủ nghia chiết trung, tuy có để ý, xét toàn diên các mặt, các khía cạnh, song các mặt, các mối quan hệ được đặt ngang bằng nhau, không có nguyên tắc cụ thể, kết hợp với nhau tạo nên hình ảnh sai lệch về bản chất sự việc, hiện tượng. Còn thuật nguỵ biện thì lại làm đảo lộn vị trí, vai trò của các mối liên hệ, mối liên hệ ngẫu nhiên thành tất yếu, mối liên hệ không bản chất lại thành mối liên hệ bản chất… Tóm lại, áp dụng nguyên tắc toàn diện với tư cách là phương pháp luận để nhận thức sự vật đúng đắn sẽ phải trải qua các giai đoạn là: đi từ ý niệm cái toàn thể để nhận thức một mặt, một mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng; nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó; cuối cùng khái quát nhận thức phong phú đó và rút ra nhận thức cơ bản nhất, tất yếu nhất về sự vật hiện tượng đó. CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN 1. Thực trạng vấn đề văn hoá ứng xử nơi công cộng của người Việt Nam Việt Nam đã dần dần từng bước hồi phục kinh tế sau chiến tranh, và cho đến thời điểm 2009, cái tên Việt Nam trên trường quốc tế không còn gắn với hình ảnh của một quốc gia đang chìm trong mất mát và đau thương, mà là một hình ảnh Việt Nam nhỏ bé đang vươn đôi cánh của mình ra cùng bạn bè năm châu quốc tế trong quá trình hôi nhập. Cảng biển sầm uất hơn trước, sân bay cũng tấp nập hơn trước với những đoàn khách du lịch ở cửa nhập và những chính những hành khách Việt Nam ở cửa xuất cảnh. Sự thay đổi ấy thể hiện một tương lai phát triển kinh tế về công nghiệp, về dịch vụ và đặc biệt là về du lịch. Con người Việt Nam hiền hoà, mến khách, cảnh vật Việt Nam hoang sơ, thơ mộng hùng vĩ là những yếu tố hứa hẹn cho phát triển du lịch nhưng bấy nhiêu thôi là chưa đủ, điều lôi kéo du khách quay trở lai Việt Nam phải là nét văn hoá thanh lịch, truyền thống mà có lẽ, một trong những nét văn hoá bộc lộ trực tiếp và ấn tượng nhất chính là văn hoá ứng xử của người Việt Nam tại nơi công cộng. Nhưng, có lẽ chúng ta cần phải để tâm một chút đến những hành vi ứng xử tưởng chừng như là nhỏ nhặt và đơn giản nhất ở nơi công cộng. Sẽ không quá khó để tìm thấy một đám đông tụ tập ở trên đường phố chỉ để thoả mãn tính hiếu kỳ, tính tò mò về một vụ tai nạn giao thông, hay một vụ gây lộn giữa đường mà ví dụ không xa là một vụ hoả hoạn mới xảy ra gần đây ở một quán ăn trên phố Hàng Tre. Khi người trong quán hoảng loạn tìm lối thoát, khi 2 chiếc xe cứư hoả không thể tìm đương len vào giữa đám đông để thực hiện nhiệm vụ cấp bách của mình thì đám đông vẫn đứng đó để xem và…có người cười thích thú. Cũng không phải quá khó khăn để tìm thấy một hàng người chen lấn xô đẩy trước các quầy hàng đang phát quà miễn phí, hay tiếng cãi nhau, thậm chí là xô xát trong hàng người đang chờ thanh toán tiền ở siêu thị. Thế còn tiếng xì xào trong một buổi hội thảo, tiếng bình luận trong một rạp chiếu phim, tiếng di động trong một cuộc họp, mùi thuốc lá trong một quán cà phê…những thứ đó có bao giờ làm bạn khó chịu hay có lúc vô tình nhận ra mình đang làm điều đó? Có lẽ đa phần câu trả lời nhận được sẽ là có. Và gần đây nhất có lẽ phải kể đến lế hội Phố Hoa tổ chức vào đầu năm 2009, và lề hội Hoa Anh Đào tổ chức vào hai ngày 11 và 12/4/2009, người ta không khỏi sững sờ vì những hình ảnh còn lại sau lễ hội chỉ có một hai ngày. Phố Hoa tan tác, hoa dập nát, méo mó, không còn nhận ra đâu là những hình dáng mà các nghệ nhân trồng hoa đã mất công làm nên. Lễ hội hoa Anh đào cũng rơi vào tình cảnh tương tự khi mà chỉ mới được khai mạc chưa đầy một ngày đã bị giày xéo tơi tả, hoa rụng cành rơi. Những lễ hội hoa lớn như vậy để hướng tới kỷ niệm thủ đô văn hiến ngàn năm còn không được giữ gìn thì có khó gì đâu để người ta sẵn sàng xả rác ra đường phố, bẻ cành, ngắt hoa hay ngồi vô tư lên cỏ. 2. Nhìn nhận vấn đề dựa trên nguyên tắc toàn diện 2.1 Nguyên nhân: Có rất nhiều nguyên nhân để dẫn đến những hành động thiếu văn hoá, vô ý thức ấy của người dân khi ứng xử ở nơi công cộng. Thứ nhất là bản thân nhận thức của mỗi người dân còn kém. Đặc biệt là thế hệ trẻ không được giáo dục, dạy dỗ đầy đủ từ phía nhà trường và gia đình. Họ không lường trước được những hậu quả của việc mình làm đối với xã hội, môi trường hay đối với những người xung quanh. Nguyên nhân này thường là đối với những ngưòi có dân trí thấp, không am hiểu hoặc không được dạy dỗ đến nơi đến chốn. Thậm chí với cả những học sinh, sinh viên nếu chỉ được giáo dục một phía, không toàn diện, chỉ chú trọng vào học tập văn hoá. Thứ 2 là ý thức tự giác của bản thân mỗi người, ý thức vì cộng đồng, vì tập thể chưa cao. Mọi đối tượng đều có thể có hành vi không đẹp trong văn hoá ứng xử ở nơi công cộng vì nguyên do này, kể cả những đối tượng có nhận thức được sự việc, những người được coi là tầng lớp trí thức trong xã hội. Nếu như họ không tự giác, đơn giản là làm theo số đông với suy nghĩ người khác làm được thì mình làm cũng chẳng sao, hoặc họ đặt cái tôi cá nhân của mình lên trước mọi người thì họ có thể sẽ có những ứng xử không đẹp nơi công cộng. Ví dụ như chen lấn để mua vé xem phim, viết tên hay khắc chữ lên di tích lịch sử, vượt đèn đỏ…. Thứ 3 là yếu tố tác động của môi trường xung quanh. Và nguyên nhân này sẽ có ảnh hưởng nhiều nhất tới các em nhỏ và các em tuổi đang lớn. Nhân tố này thì rất khách quan nhưng sự tác động cũng không nhỏ đến hành vi ứng xử nơi công cộng của các em sau này. Khi các em nhìn và ghi nhận những hành động của ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè hay thậm chí những người xung quanh, thì những hành động đó sẽ được lưu giữ và các em sẽ bắt chước theo. Ví dụ như hành động khạc nhổ ra đường, dẫm lên cỏ hay xả rác bừa bãi… Thứ 4, một yếu tố nữa cũng góp phần hình thành nên nét văn hoá ứng xử chưa đẹp của người Việt Nam là nguồn gốc lịch sử của người Việt Nam vốn đa phần là những người nông dân lạc hậu và nghèo đói, lại quen với cuộc sống yên bình dung dị của làng quê, khi đô thị hoá dồn dập tràn về cùng những luồng văn hoá mới nhưng lại tiếp thu chưa được đầy đủ, sự đông đúc, ồn ào, náo nhiệt… và người dân chưa kịp thích nghi với văn minh đô thị. 2.2 Ảnh hưởng Như đã đề cập ngay từ đầu trong vấn đề thực trạng thì văn hoá ứng xử nơi công cộng có ảnh hưởng rất lớn đến các phương diện của đời sống và không thể tách rời ra khỏi cuộc sống. Trước hết, chúng ta cần phải thừa nhận một điều là văn hoá ứng xử ở trước đám đông, trước công luận là cách mà chúng ta sẽ bản thân bộc lộ rõ ràng và tự nhiên nhất. Qua đó, người ta hoàn toàn có quyền đánh giá về nhân cách về học vấn của chúng ta. Sau đó, văn hoá ứng xử ấy sẽ được dùng như một thước đo để đánh giá về hình ảnh cho tất cả những con người của một dân tộc. Và sẽ không thể nào vui vẻ, không thể nào tự hào khi ở một đất nước xa xôi, người ta chỉ vào người Việt Nam mà nói rằng: “đúng là người Việt Nam” với những đặc điểm dễ thấy như hay lộn xộn, hay hiếu kỳ, hay lớn tiếng… Cách chúng ta hành động ở nơi công cộng cũng sẽ để lại những hậu quả mà có thể chúng ta biết rất rõ nhưng cố tình lờ đi hoặc những hậu quả xa hơn nữa mà chúng ta không nhận thức được. Ví như việc ngắt hoa, xả rác ra đường sẽ để lại hệ quả về môi trường, việc khắc tên, viết chữ bừa bãi lên di tích sẽ làm hỏng dần những giá trị văn hoá lịch sử lâu đời.Và xa hơn là khi hình ảnh của chúng ta trong mắt bạn bè quốc tế ngày càng mờ nhạt, ngày càng “ xấu xí” thì nó sẽ ảnh hưởng trước hết là đến các ngành kinh tế như du lịch, dịch vụ, các ngành nghề cần thu hút đầu tư, và có thể ảnh hưởng đến cả chính trị. Trong thời buổi hội nhập hiện nay, thật dễ để đem hình ảnh của mình ra quảng bá với thế giới nhưng cũng không khó khăn gì để hình ảnh “người Việt xấu xí” vượt ra ngoài tầm kiểm soát nếu có cơ hội. 3. Tổng kết và một số giải pháp: Với những nguyên tắc và đánh giá trên đây của cá nhân tôi về vấn đề văn hoá ứng xử nơi công cộng của người Việt Nam dựa trên nguyên tắc toàn diện, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng và rất nhiều nguyên do dẫn tới thực trạng không mong muốn ấy. Nhưng có lẽ nguyên nhân chính yếu và cơ bản nhất của vấn đề văn hoá ứng xử nơi công cộng đối với người Việt Nam chính là nhận thức và ý thức tự giác của mỗi người dân, đặc biệt chú trọng đến thế hệ trẻ. Sau đây, tôi xin đề ra một số giải pháp cụ thể: 1.Nâng cao nhận thức cho mỗi người dân. Mỗi người phải xác định được vai trò, vị trí của mình cũng như các hành vi của mình đối với nhà nước, đối với xã hội và đối với cộng đồng. Từ đó, chủ động nâng cao nhận thức cũng như ý thức cá nhân mỗi khi xuất hiện ở những nơi đông người, đồng thời góp ý, nhắc nhở những công dân khác cùng thực hiện, ý thức, văn hoá nơi công cộng. Có thể tận dụng sức ảnh hưỏng, khả năng lan rộng của các phương tiện truyền thông bao đài. 2. Tăng cường, chú trọng giáo dục đạo đức văn hoá bên cạnh những kiến thức cơ bản cho các em học sinh trong trường phổ thông. Luyện tập cho các em những thói quen và hành vi đúng đắn đặc biệt với em nhỏ cấp 1 hoặc học sinh mấu giáo 3. Gia đình phối hợp cùng nhà trường để định hướng, giáo dục cho con em mình những nếp sống phù hợp văn minh nơi đông người. Bản thân ông bà, bố mẹ, tât cả những người lớn cũng phải làm gương, có cách ứng xử phù hợp, đúng đắn nơi công cộng để làm gương cho con em mình. 4. Nhà nước nên có một bộ luật riêng về văn hoá, quy định các điều luật và chế tài xử phạt, trong đó bao gồm cả các điều luật quy định hành vi vi phạm ở nơi công cộng, các hành vi được coi là vô văn hoá hay thiếu ý thức. TẠM KẾT Với một ví dụ nhỏ trong việc vận dụng nguyên tắc toàn diện để đánh giá, nhìn nhận một vấn đề xa hội đã cho chúng ta thấy vai trò và phạm vi ứng dụng của phương pháp nhận thức triết học trong cuộc sống. Tôi đã vân dụng nguyên tắc toàn diện vào việc phân tích, xem xét các khía cạnh liên quan đến văn hoá ứng xử của người Việt nơi công cộng. Xem xét nó trên góc độ những tác động của hành vi, văn hoá ứng xử với những mặt khác của cuộc sống, và bản thân những nguyên nhân nội tại hình thành nên nó. Và cuối cùng tôi đưa đến những nhận xét bản chất nhất về vấn đề và đề ra một số giải pháp cho hoạt động thực tiễn. Và theo nhìn nhận, đánh giá trên tất cả các mặt có liên quan đến vấn đề thì rút ra được hai yếu tố cơ bản cốt lõi nhất của vấn đề: một là người Việt Nam cần có nhận thức đúng đắn cùng với ý thức cần được nâng cao; và thứ hai đây là vấn đề cần sự góp sức xây dựng của toàn xã hội, của mọi đối tượng chứ không phải của bất kỳ một cá nhân hay tổ chức riêng lẻ nào. Do khả năng của bản thân và thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp nên chắc chắn bài tiểu luận của em không tránh khỏi những sai sót nhất định. Em kính mong thầy cô, cùng bạn bè đóng góp ý kiến để bài tiểu luận lần sau được thành công hơn.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan