Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bài báo cáo thực tập-tìm hiểu về bảo hiểm thất nghiệp vn...

Tài liệu Bài báo cáo thực tập-tìm hiểu về bảo hiểm thất nghiệp vn

.DOC
34
696
81

Mô tả:

Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam LỜI MỞ ĐẦU Vào thế kỉ 19, ở một số nước Châu âu như Đức, Ý, Thụy Điển, một loại hình bảo hiểm mới đã được triển khai nhằm bảo vệ, hỗ trợ những đối tượng lao động thất nghiệp. Đó là bảo hiểm thất nghiệp ( BHTN ). Cho đến nay, loại hình bảo hiểm này đã được thực hiện rộng rãi ở các nước phát triển với những điều luật quy định hết sức chặt chẽ; đem lại nhiều ý nghĩa to lớn cũng như tác dụng tích cực về mặt kinh tế xã hội. Tại Việt nam, loại hình bảo hiểm này là vô cùng mới mẻ. Luật BHTN Việt nam mới bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1.1.2009 và theo quy định, chính sách BHTN thực sự đi vào thực hiện từ ngày 1.1.2010. Sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thực sự là một bước tiến lớn trong con đường phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam nói riêng và nỗ lực đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta nói chung. Nhất là khi, sự ra đời này lại gắn trong giai đoạn đầy khó khăn, tồi tệ của nền kinh tế Việt nam cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải chứng kiến nhiều doanh nghiệp phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Vậy trong một năm qua, chúng ta đã làm được những gì, vấp phải những khó khăn gì; người dân, nhất là đối tượng lao động, họ phản ứng thế nào với chính sách mới này của Chính phủ ? Mong muốn tìm hiểu rõ hơn những vấn đề mới mẻ này chính là lí do nhóm chúng em lựa chọn đề tài “ Tìm hiểu về Bảo hiểm thất nghiệp VN”. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo! Trung 2 – K46F trang 1 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Vấn đề thất nghiệp 1.1 Khái niệm Thất nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm được việc làm 1.2 Phân loại - Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi luôn có một số người trong giai đoạn chuyển từ chỗ làm này sang chỗ khác. - Thất nghiệp cơ cấu: do sự không tương thích của phân bố lao động và phân bố chỗ làm việc (khác biệt địa lý hoặc khác biệt kỹ năng). Người thất nghiệp không muốn hoặc không thể thay đổi nơi ở hoặc chuyển đổi kỹ năng. - Thất nghiệp chu kỳ: khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung lao động ở giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế. - Thất nghiệp kỹ thuật: do việc thay thế công nhân bằng máy móc hoặc công nghệ tiên tiến hơn. 1.3 Ảnh hưởng - Thất nghiệp có ảnh hưởng quan trọng không những đến các cá nhân mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội và nền kinh tế.Các cá nhân khi không có việc làm sẽ gây ra chán nản ,không có tiền, không có khả năng chi trả gây ra trộm cắp và các tệ nạn xã hội. - Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ. - Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô. Trung 2 – K46F trang 2 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam - Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn. Do đó tình trạng thất nghiệp là một trong những vấn đề nan giải và hết sức bức xúc và cần có những chính sách để giúp mọi người tìm được việc làm cũng như những biên pháp hỗ trợ khi bị thất nghiệp để giúp cân bằng kinh tế xã hội. 2. Bảo hiểm thất nghiệp 2.1 Khái niệm : Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới thích hợp và ổn định. 2.2 Đối tượng Đối tượng được nhận bảo hiểm thất nghiệp là những người bị mất việc không do lỗi của cá nhân họ. Họ vẫn đang cố gắng tìm kiếm việc làm, sẵn sàng nhận công việc mới và luôn nỗ lực nhằm chấm dứt tình trạng thất nghiệp. Những người này sẽ được hỗ trợ một khoản tiền theo tỉ lệ nhất định so với khoản thu nhập cũ nhận trong những thời kì cụ thể. Bảo hiểm thất nghiệp không áp dụng cho những người thất nghiệp vì tự ý bỏ việc hay những ngưòi vừa mới ra trường và chưa tìm được công ăn vịêc làm,những người thuộc vào diện thất nghiệp tự nhiên 2.3 Lợi ích Nhân thức được tầm ảnh hưởng của thất nghiệp trong kinh tế xã hội thí các hệ thống bảo hiểm thất nghiệp đã được ra đời và đã có tác dụng nhằm: Trung 2 – K46F trang 3 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam - Giúp ổn định thu nhập đời sống cho những người thất nghiệp không tự nguyện, đáp ứng cho họ những chi tiêu ccàn thiết mà kong gây ra tình trạng nợ nần - Giúp những người thất nghiệp sớm có cơ ội tìm được việc làm, những người có kĩ năng sẽ tìm đựơc công việc pù hợp thay vì phải làm những công việc khác với mức lương không tương xứng - Giúp ổn định nền kinh tế, góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc độ cá thể và kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tìm việc làm hiệu quả - tạo điều kiện kết nối tốt hơn giữa cung và cầu trong thị trường lao động. - Giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh nghiệp II. BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN Nỗ lực đầu tiên trong việc đưa ra 1 kế hoạch về bảo hiểm thất nghiệp bắt đầu từ TK 19 tại Đức, Italia,Thuỵ điển, sau đó đã lan rộng ra các nước như Pháp (1905) Anh (1911) Hà lan (1916), Mỹ (1935). Hiện nay Bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện rộng rãi ở các nước phát triển với những bộ luật qui định khá toàn vẹn và chặt chẽ.Mỗi nước đều có qui định riêng và thực hiện dựa trên những nguyên tác của mình. - Hệ thống bảo hiểm được thực hiện rộng rãi khắp cả nước và được quản lý linh hoạt phù hợp với điều kiện từng quốc gia.Ngoài công đoàn ,quĩ bảo hiểm nhà nước còn có sự tham gia của các nghiệp đoàn các khu vực tư nhân tạo nên 1 thị trường vô cùng sôi động và có tính cạnh tranh. - Loại hình bảo hiểm được áp dụng phong phú , đa dạng , đáp ứng đầy đủ nhu cầu của con người *Tại Mỹ có 7 loại hình: Trung 2 – K46F trang 4 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam • Bảo hiểm thất nghiệp trên diện rộng (Unemployment Insurance Fact Sheet): là chương trình hỗ trợ tài chính của Liên bang đối với hầu hết người lao động bị thất nghiệp • Bảo hiểm thất nghiệp dành cho nhân viên liên bang (Unemployment Compensation for Federal Employees): là chương trình hỗ trợ cho những nhân viên của bang bị mất việc có đủ điều kiện do chính quyền từng bang quản lý. • Bảo hiểm thất nghiệp dành cho các cựu quân nhân (Unemployment Compensation for Ex-Servicemembers): là chương trình hỗ trợ dành cho các cựu quân nhân đủ điều kiện và cả những cựu nhân viên của Ban NOAA . • Khoản lợi ích mở rộng (Extended Benefits): là chương trình của chính quyền bang/liên bang dành cho các khu vực có tỉ lệ thất nghiệp cao • Hỗ trợ thất nghiệp do thiên tai (Disaster Unemployment Assistance): là chương trình đặc biệt dành cho những người lao động bị mất việc làm hoặc đột ngột phải ngừng công việc do hậu quả của thiên tai. • Phụ cấp ảnh hưởng thương mại (Trade Readjustment Allowances): là khoản phụ cấp thu nhập dành cho những người lao động đã hết hưởng bồi thường thất nghiệp và công việc của họ bị ảnh hưởng bởi hoạt động nhập khẩu. • Hỗ trợ cho hoạt động tự kinh doanh (Self Employment Assistance): là chương trình tự nguyện đặc biệt của nhà nước ở một số vùng dành cho những người lao động tự tổ chức hoạt động kinh doanh. *Tại UK có 6 loại hình • Bảo hiểm bảo vệ thu nhập (Income protection insurance): dành cho hầu hết các đối tượng lao động làm ở doanh nghiệp • Bảo hiểm đảm bảo trả nợ ( Payment protection insurance); dành cho việc đảm bảo cho những người lao động có thời gian để trả nợ khi bị mất việc • Bảo hiểm bị sa thải (Redundancy insurance): dành cho người lao đọng mất việt vi công ty bị phá sản hay do kinh tế suy thoái mà phải cắt giảm • Bảo hiểm chống thất nghiệp (Unemployment protectin insurance):dành cho những người tự kinh doanh riêng Trung 2 – K46F trang 5 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam - Đối tượng bảo hiểm bao quát và đày đủ, mức độ hưởng trung bình giúp những người mất việc vẫn có thể chi tiêu trung bình trong thời gian tìm việc mới *Hệ thống nghiệp đoàn ở Thuy điển hết sức linh hoạt: Người lao động không nhất thiết phải là công dân Thụy điển – người lao động chỉ cần có giấy phép nhập cư và có thẻ cư trú là đủ điều kiện để tham gia Bảo hiểm thất nghiệp. Lương thất nghiệp được chi bằng 60% lương thực tế sau khi đã trừ đi các khoản đóng góp bắt buộc (thuế thu nhập, đóng góp BHXH, BHYT). Trong trường hợp người lao động có ít nhất một trẻ em phụ thuộc sẽ được nhận mức lương thất nghiệp là 67%lương thực tế. Thu nhập từ chế độ bảo hiểm thất nghiệp không phải chịu thuế. Trong thời gian thất nghiệp, đối tượng hưởng chế độ vẫn được tiếp tục tham gia BHYT trong một quỹ y tế công. Cơ quan việc làm cũng đóng bảo hiểm hưu trí bắt buộc cho người hưởng chế độ thất nghiệp. Theo quy định của Liên minh châu Âu, người thất nghiệp có thể tìm việc trong các nước Liên minh châu Âu khoảng 3 tháng và có thể lưu tại đó trong thời gian này và sẽ tiếp tục nhận được lương thất nghiệp. Hệ thống bảo hiểm thất nghiệp ở các nước phát triển dã được áp dụng từ lâu đời và có vai trò to lớn trong việc đam bảo an sinh xã hội cũng như cân bằng kinh tế nước đó.Bên cạnh sự ưu việt về hệ thống luật, sự phong phú về hình thức là một cơ chế hợp lý giúp những người thất nghiệp nhanh chóng tìm được việc làm. Đây là những ưu điểm mà Việt nam ta cần khéo léo học tập để vận dụng Trung 2 – K46F trang 6 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam III. BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM 1. Khái quát về bảo hiểm xã hội Việt Nam 1.1 Các loại hình của BHXH Theo quy định tại điều lệ BHXH ban hành theo quy định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ quy định ở nước ta bao gồm 2 loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Đặc điểm của đối tượng của BHXH tự nguyện có công việc nơi làm việc và thu nhập không ổn định, không có người sử dụng lao động cụ thể hoặc ổn định để đóng thêm phí BHXH ngoài phần đóng góp của bản thân họ. CHính vì thế mặc dù đã có trong bộ luật lao động Việt Nam nhưng mới chỉ có điểu lệ về BHXH bắt buộc còn BHXH tự nguyện hiện nay mới mang tính chất áp dụng thử nghiệm. Một quy định khác hoàn toàn mới của luật BHXH là việc hình thành quỹ BHTN từ năm 2009. Khi đó người thất nghiệp đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp sẽ được hưởng BHTN. 1.2 Các chế độ BHXH Hiện nay ở nước ta có 5 chế dộ BHXH áp dụng cho các đối tượng bắt buộc, đó là ▪ Trợ cấp ốm đau ▪ Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ▪ Trợ cấp thai sản ▪ Chế độ hưu trí ▪ Tiền mai tang, chế độ tuất BHXH tự nguyện gồm các chế độ sau đây ▪ Chế độ hưu trí ▪ Trợ cấp tử tuất 1.3 Tình hình thực hiện Trung 2 – K46F trang 7 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam BHXH mang lại sự đảm bảo ổn định cuộc sống cho người dân đặc biệt là người làm công ăn lương. Cơ quan BHXH đã từng bước thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong quản lí và giải quyết chế độ chính sách cho người lao động thông qua việc áp dụng công nghệ thông tn và cơ chế một cửa liên thông. Với những nỗ lực trong việc triển khai thực hiện công tac thu BHXH theo luật BHXH, số người tham gia BHXH bắt buộc được mở rộng. Trên 3 triệu lượt đối tượng đang hưởng các chế độ, chính sách BHXH được giải quyết hưởng trợ cấp kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Luật BHXH được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, với 3 thời điểm hiệu lực khác nhau: từ 1.1.2007 cho các quy định của luật nói chung, từ 1.1.2008 cho chế độ BH tự nguyện và từ 1.1.2009 cho chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Chỉ một năm sau khi đạo luật có hiệu lực, số đối tượng theo quy định tại khoản 1 điều 2 của Luật tăng từ 6.759.723 người năm 2006 lên 8.148.123 người năm 2007 ( tăng 20,7%). Trong đó lao động ở các cơ quan hành chính sự nghiệp tăng 4%, doanh nghiệp dân doanh tăng 25,7%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,3%, doanh nghiệp nhà nước tăng 2. Tính chung lại đến nay đã có khoảng 9,35 triệu người tham gia BHXH. Các tỉnh thành phố trong cả nước đã thực hiện chi trả các chế độ BHXH với kinh phí lên tới 33.951 tỉ đồng, trong đó chế độ hưu trí là 27.702 tỉ đồng chiếm 81,5% tổng chi. Trong năm này, có thêm 120.315 người hưởng chế độ hàng tháng, 208.710 người hưởng chế độ một lần. Hơn 2 triệu người hưởng trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, 75000 người hưởng trợ cấp dưỡng sức, và 35000 người qua đời được mai tang phí. Nhìn chung, các chế độ bảo hiểm đã được cải tiến, hoàn thiện và được quy định rõ rang hơn. BHXH các tỉnh thành phố đã xử lí kịp thời các chế độ chính sách theo quy định. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc: ■BHXH bắt buộc Trung 2 – K46F trang 8 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam Tình trạng đối tượng tham gia BHXh không đóng, đóng không đúng thời gian, không đúng mức quy định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia bắt buộc còn tồn tại ở nhiều nơi. Tình trạng nợ đọng, nợ dây dưa kéo dài BHXH còn diễn ra, có doanh nghiệp nợ lên đến hàng tỷ đồng. Cơ quan quản lí thanh tra xử phạt nhưng cũng chưa được giả quyết dứt điểm, khởi kiện doanh nghiệp ra tòa thì chậm được xủ lý. Điều này đặt ra yêu cầu phải có sự thay đổi trong hình thức và mức độ xử phạt với doanh nghiệp Ngoài ra tồn tồn tại khó khăn do cơ quan quản lí không nắm được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tình hình sử dụng lao động. Đặc biệt với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thực hiện nghiêm túc việc kí hợp đồng lao động, gây khó khăn trong khâu quản lí.Nhận thức của đối tượng tham gia BHXH cũng cần phải quan tâm. Mới chỉ có 70% số người có quan hệ lao động tham gia BHXH. 30% còn lại chỉ yếu nằm trong khu vực ngoài quốc doanh và hợp tác xã. Nguyên nhân nằm từ cả hai phía người lao động và người sử dụng lao động. Nhiều người lao động chỉ lo cho cuộc sống hiện tại mà chưa tính đến cuộc sống mai sau, thu nhập lại không cao nên họ ưu tiên cho các khoản chi trước mắt mà không đóng BHXH. Bên cạnh đó, nhiều chủ doanh nghiệp cũng có tâm lí trốn tránh đóng BHXH cho người lao động bằng cách chỉ kí hợp đồng dưới 3 tháng. Sự phối hợp quản lí giữa các cơ quan Nhà nước trong việc kiểm tra xử lí vi phạm BHXH còn thiếu đồng bộ. ■ BHXH tự nguyện Các khó khăn gặp phải chủ yếu là: thu nhập của người lao động rất khác nhau nên khó triển khai; Không thể thu tại các cơ quan xí nghiệp mà phải thu từng người một nên chi phí hoạt động của bộ máy sẽ lớn. Thứ đến là nhận thức của người dân với BHXH khi họ không bị bắt buộc phải tham gia. Về mặt Nhà nước, khi cần thiết sẽ phải hỗ trợ quỹ BHXH tự nguyện. Do đặc thù khác với các loại hình bảo hiểm kinh doanh khác nên quỹ BHXH tự nguyện phải đảm bảo Trung 2 – K46F trang 9 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam không bao giờ bị phá sản, điều này cần có Nhà nước đứng ra đảm bảo cho hoạt động của quỹ. 2. Luật và chính sách điều chỉnh vấn đề bảo hiểm thất nghiệp: Vấn đề bảo hiểm thất nghiệp hiện đang được điều chỉnh cơ bản bởi Nghị định số 127/2008 NĐ – CP được Chính phủ ban hành ngày 12/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp. Theo nghị định này: 2.1 Về người lao động tham gia BHTN ( Điều 2,Chương 1) Là công dân Việt Nam giao kết các loại hợp đồng lao động / làm việc không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động / làm việc xác định thời hạn đủ từ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng. Người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng có giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với người sử dụng lao động quy định tại Điều 3 Nghị định này theo các loại hợp đồng quy định tại khoản 1 điều này không thuộc đối tượng tham gia BHTN. 2.2 Về người sử dụng lao động tham gia BHTN ( Điều 3, Chương 1 ) Là người sử dụng lao động có sử dụng từ mười 10 người lao động trở lên tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp : đơn vị Nhà nước; doanh nghiệp thành lập theo luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư; các hợp tác xã thành lập theo luật Hợp tác xã; các hộ kinh doanh cá thể; các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trển lãnh thổ Việt nam có sử dụng lao động là người Việt nam. 2.3. Điều kiện hưởng BHTN ( Điều 15, Chương 3 ) Người lao động thất nghiệp được hưởng BHTN khi đã đóng tiền BHTN đủ mười hai tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động / làm việc theo quy định của pháp luật ; đã đăng ký với cơ quan lao động khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động / Trung 2 – K46F trang 10 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam làm việc và chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký với cơ quan lao động 2.4. Mức trợ cấp thất nghiệp và thời gian hưởng trợ cấp ( Điều 16, Chương 3 ) Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của sáu tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động / làm việc.Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng phụ thuộc vào thời gian làm việc có đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động và tổng thời gian được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật Bảo hiểm xã hội : 03 tháng, nếu có từ đủ 12 đến dưới 36 tháng đóng BHTN; 06 tháng, nếu có từ đủ 36 đến dưới 72 tháng đóng BHTN; 09 tháng, nếu có từ đủ 72 đến dưới 144 tháng đóng BHTN; 12 tháng, nếu có từ đủ một 144 tháng đóng BHTN trở lên. 2.5. Vấn đề hỗ trợ học nghề ( Điều 17, Chương 3 ) Việc tổ chức thực hiện hỗ trợ học nghề cho người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp do cơ quan lao động thực hiện thông qua các cơ sở dạy nghề. Mức hỗ trợ học nghề bằng mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy định của pháp luật về dạy nghề. Thời gian được hỗ trợ học nghề không quá 6 tháng tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng. 2.6. Vấn đề hỗ trợ việc làm ( Điều 18, Chương 3 ) Việc tổ chức thực hiện hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp do cơ quan lao động thực hiện thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm. Thời gian được hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng và không quá tổng thời gian mà người lao động đó được hưởng trợ cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật BHXH. Trung 2 – K46F trang 11 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam 2.7. Thời điểm hưởng bảo hiểm thất nghiệp ( Điều 20, Chương 3 ) Người lao động khi có đủ điều kiện hưởng BHTN thì được hưởng các chế độ bảo BHTN tính từ ngày thứ 16 kể từ ngày đăng ký 2.8. Tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp ( Điều 22, Chương 3 ) Người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng sẽ bị tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp khi không thông báo hằng tháng với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm hoặc đang bị tạm giam. Việc tiếp tục hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng sẽ được thực hiện vào tháng tiếp theo khi người lao động vẫn trong khoảng thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp và tiếp tục thực hiện thông báo hằng tháng với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm hoặc sau thời gian tạm giam, người lao động vẫn trong khoảng thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp. 2.9. Chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp ( Điều 23, Chương 3 ) Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp trong các trường hợp sau: hết thời hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp; có việc làm; thực hiện nghĩa vụ quân sự; hưởng lương hưu; sau hai lần từ chối nhận việc làm do tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu mà không có lý do chính đáng; không thông báo về tình hình việc làm với tổ chức BHXH trong ba tháng liên tục; ra nước ngoài để định cư; chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo; bị chết. 2.10. Nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ( Điều 25, Chương 4) Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN, người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những người lao động tham gia BHTN, Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng Trung 2 – K46F trang 12 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những người lao động tham gia BHTN và mỗi năm chuyển một lần. Ngoài ra quỹ BHTN còn từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ và các nguồn thu hợp pháp khác. 2.11. Việc đăng ký và thông báo về tìm việc làm với cơ quan lao động ( Điều 34, Chương 5 ) Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động phải đến cơ quan lao động để đăng ký. Trong thời gian đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, hằng tháng, người thất nghiệp phải đến thông báo với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm. 3. Tình hình thực hiện bảo hiểm thất nghiệp: 3.1. Tình hình thu tiền BHTN: Theo quy định của nghị định 127/2008 NĐ-CP thì việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp do cơ quan lao động chịu trách nhiệm; việc thu chi các chế độ thất nghiệp do bên Bảo hiểm xã hội Việt nam chịu trách nhiệm. Quy định về BHTN bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1.1.2009, nhưng khi triển khai tại các địa phương thì còn gặp nhiều bất cập, khó khăn cần phải điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, nên Chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp được lùi thời hạn thực hiện bảo hiểm thất nghiệp đến tháng 6/2009. Theo thông tin từ BHXHVN, tính đến khoảng giữa tháng 1/2010, đã có 5,4 triệu người đăng kí đóng BHTN; cơ quan BHXH đã thu được 3.066 tỉ đồng (bao gồm 1% hỗ trợ của Nhà nước) cho quỹ BHTN. Tuy nhiên thực tế, việc thực hiện đóng bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, phát sinh nhiều bất cập, chưa thu hút được nhiều đối tượng tham gia. Trung 2 – K46F trang 13 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam  Các chủ doanh nghiệp né tránh đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động: Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng là đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế bắt buộc. Do đó, ngoài BHXH và BHYT đã được triển khai thực hiện từ lâu, các doanh nghiệp giờ phải tiếp tục trích một khoản chi phí để đóng BHTN cho người lao động. Tuy khoản chi phí này chỉ chiếm 1% quỹ tiền công, tiền lương tháng nhưng đối với các doanh nghiệp còn khó khăn, nợ đọng BHXH kéo dài thì đây lại là một gánh nặng không nhỏ. Điều này đã gây ra tình trạng né tránh đóng BHTN của các chủ doanh nghiệp. Một cuộc khảo sát mới đây của Trung tâm hợp tác phát triển nguồn nhân lực (C&D) và Tổ chức ActionAid tại một số địa phương công nghiệp về lao động nhập cư cho kết quả: có trên 70% lao động nhập cư là nữ, trong đó chỉ có 28% nữ công nhân nhập cư có hợp đồng không xác định thời hạn, trong đó Hà Nội chỉ đạt 15%, Đà Nẵng 17%. Có 10% công nhân nữ nhập cư đang ký hợp đồng “miệng” hoặc không ký hợp đồng lao động, 24% đang ký hợp đồng với thời hạn dưới 12 tháng ngay cả khi đang làm những công việc thường xuyên, không có tính chất thời vụ, thậm chí có 2% lao động nữ không biết mặt mũi hợp đồng ra sao. Tính chất bấp bênh còn thể hiện ở chỗ có tới 36% công nhân nữ nhập cư đã từng chuyển nơi làm việc 1-5 lần trong 5 năm qua. “Chiêu” của các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động, để trốn tránh các khoản đóng góp thuộc về trách nhiệm xã hội cho người lao động là ban hành quy định về việc ký hợp đồng cho lao động, trong đó phần lớn lao động phổ thông sẽ ký hợp đồng theo trình tự: Hợp đồng lao động lần thứ nhất (có thể có thêm hợp đồng lao động gia hạn lần 1), Hợp đồng lao động xác định thời hạn lần 2, Hợp đồng lao động gia hạn (lần 2) rồi mới ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Trung 2 – K46F trang 14 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam Với quy định như vậy, số lao động gắn bó với công ty đến khi được ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn là không nhiều. Điều 27, Bộ luật Lao động quy định không được ký quá 2 lần hợp đồng xác định thời hạn. Tuy nhiên, Điều 33 Luật này lại cho phép trong quá trình thực hiện hợp đồng các bên có quyền thay đổi nội dung hợp đồng lao động (bao gồm cả thay đổi thời hạn hợp đồng). Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã vận dụng quy định này để gia hạn hợp đồng, tránh ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn với người lao động, mục đích “né” nộp bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp. Đặc biệt, với quy định hợp đồng lao động trên 12 tháng mới bắt buộc đóng về bảo hiểm thất nghiệp đã tạo ra kẽ hở lớn cho doanh nghiệp trốn đóng về bảo hiểm thất nghiệp.  Người lao động thiếu thông tin và thói quen chỉ lo mưu sinh trước mắt: Lao động Việt nam phần lớn là lao động trình độ trung bình thấp, đại trà. Họ ít có điều kiện được tiếp cận với thông tin nên không biết sự xuất hiện của các chính sách của Chính phủ, không biết những quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Điều này càng tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp có những hành vi bóc lột, lách luật, không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Mặt khác, thói quen chỉ lo mưu sinh trước mắt đã khiến cho phần lớn người lao động không ý thức được vai trò của việc đóng Bảo hiểm thất nghiệp. Những lí do này dẫn đến tình trạng không quan tâm, không thực hiện đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động. 3.2. Tình hình chi tiền BHTN: Từ ngày 1.1.2010, người lao động chính thức được đăng kí BHTN và được chi trả nếu đủ điều kiện theo Luật Bảo hiểm. Trung 2 – K46F trang 15 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam Theo báo cáo về tình hình thực hiện BHTN trong tháng 1 (từ ngày 04/01/2010 đến ngày 29/01/2010) của Sở Lao động – thương binh và xã hội, tình hình thực hiện BHTN trên toàn quốc như sau: - Tổng số người đến đăng ký thất nghiệp : 5866 người - Số người thất nghiệp đã nộp hồ sơ hưởng BHTN : 3221 người - Số người thất nghiệp đã được xét duyệt hưởng : 1270 người BHTN - Số người thất nghiệp đề nghị chuyển hưởng : 929 người BHTN - Số người thất nghiệp có quyết định hưởng BHTN : 583 người Một số địa phương có số lao động lớn đến đăng ký thất nghiệp, nộp hồ sơ hưởng BHTN, đề nghị chuyển hưởng BHTN và được ký quyết định hưởng BHTN: Số S người T Đơn vị báo cáo đến T đăng ký TN Số người thất nghiệp đã nộp hồ sơ hưởng BHTN Số Số người người thất thất nghiệp cóthất nghiệp quyết Số người nghiệp đề đã đượcđịnh nghị xét hưởng chuyển duyệt BHTN hưởng hưởng BHTN BHTN 1 TTGTVL TP.Hồ Chí Minh 2809 1451 39 39 557 2 TTGTVL Bình Dương 1213 644 565 223 296 3 TTGTVL Đồng Nai 276 161 122 72 39 4 TTGTVL Khánh Hoà 136 56 20 20 1 5 TTGTVL Bà Rịa – Vũng117 50 30 30 5 Trung 2 – K46F trang 16 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam Tàu 6 TTGTVL Hà Nội 1 107 46 24 10 2 Như vậy, tính đến hết tháng 1.2009, cả nước chưa có trường hợp nào được nhận tiền bảo hiểm thất nghiệp. Ông Nguyễn Đại Đồng - Cục truởng Cục việc làm cho biết sở dĩ chưa có trường hợp nào nhận được tiền trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp là do việc thực làm các thủ tục chứng thực thất nghiệp có thời hạn bắt đầu thực hiện mới chỉ 10 ngày, trong khi thời gian hoàn tất thủ tục lên tới 22 ngày nên việc chi trả chưa có truờng hợp nào nhận tiền cũng là điều dễ hiểu. Theo quy định của luật BHTN, trong vòng 7 ngày kể từ ngày mất việc, chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động phải đi đăng ký thất nghiệp. Trong vòng 15 ngày sau đó, người lao động phải nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Tổng cộng người lao động chỉ có 22 ngày để hoàn tất hồ sơ, nếu không đăng ký kịp, người lao động sẽ bị xem như từ chối hưởng trợ cấp thất nghiệp. Một vấn đề nữa đã gây ra khó khăn rất lớn cho người lao động đi đăng kí hưởng BHTN trong thời gian qua là vấn đề chốt sổ BHXH. Tính đến ngày 13.1.2010, tại các địa điểm đăng kí thất nghiệp trên địa bàn Hà nội, có 61 người đến đăng kí. Trong đó, chỉ có 1 người đủ giấy tờ để nộp hồ sơ đề nghị hưởng BHTN, 60 người còn lại đều không đạt điều kiện do thiếu sổ BHXH vốn bị chủ cũ lần khuất. Theo quy định, 15 ngày sau khi ĐKTN, người lao động phải nộp sổ BHXH. Nhưng thực tế, rất nhiều doanh nghiệp tìm cách kéo dài thời gian chốt sổ BHXH vì trước đó doanh nghiệp thường trốn, chây ì đóng BHXH, BHTN. Và theo quy định, sau 15 ngày đăng kí mà người lao động không nộp sổ BHTN thì không hợp lệ và không được hưởng BHTN. Năm 2009 là năm khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt nam Trung 2 – K46F trang 17 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam cũng chịu những ảnh hưởng lớn. Nhiều doanh nghiệp phá sản, lao động thất nghiệp gia tăng. Với mức thu và chi BHTN theo quy định như hiện nay, nhiều người lo lắng đến vấn đề không đủ chi. Tuy nhiên với mức 3.066 tỉ đồng đã thu được, ông Nguyễn Đại Đồng cũng khẳng định sẽ không thiếu tiền chi trả. Lí do là vì gói kích cầu và các giải pháp đồng bộ của Chính phủ đã có hiệu quả tích cực khi năm 2009, nền kinh tế vẫn có mức tăng trưởng 5%, vì vậy số lượng lao động thất nghiệp đã không cao như kịch bản mà Bộ LĐ – TB và XH đưa ra khi bắt đầu triển khai BHTN. Thêm nữa, trong số 5,4 triệu lao động tham gia BHTN, có tới 1 triệu lao động đang làm việc trong các cơ quan khối sự nghiệp. Đây là những người “ không có nguy cơ thất nghiệp”, vì vậy có thể coi khoản thu từ số người này như một khoản “ bảo hiểm” cho quỹ BHTN không vỡ. 3.3. Vấn đề xác định lao động thất nghiệp: Thất nghiệp là tình trạng không có việc làm, không được thuê mướn. Lao động thất nghiệp chỉ được hưởng BHTN khi có đầy đủ các điều kiện theo điều 15 của Nghị định 127/2008 của chính phủ về BHTN. Thực tế tồn tại không ít bất cập xung quanh vấn đề xác định thất nghiệp để nhận hưởng BHTN. Nhiều người lao động đã mất việc làm tại doanh nghiệp này, đi đăng kí hưởng BHTN nhưng sau một thời gian lại tìm được công việc mới nhưng không thông báo cho cơ quan bảo hiểm xã hội . Vấn đề này đã gây ra khó khăn không nhỏ cho các cơ quan bảo hiểm trong vấn đề xác định tình trạng việc làm thực tế của người lao động, làm méo mó ý nghĩa tích cực của khoản chi BHTN. Thậm chí có trường hợp người lao động chủ động xin thôi việc để hưởng BHTN. 3.4.Tình hình giới thiệu việc làm cho người lao động thất nghiệp được hưởng BHTN: Trung 2 – K46F trang 18 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam Theo thống kê đến tháng 12.2009 của Tổng cục thống kê Việt nam cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất nghiệp, tỉ lệ thất nghiệp là 2.9% ( cao hơn mức 2.38% của năm 2008 ), trong đó tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4.64% , xấp xỉ năm 2008; khu vực nông thôn là 2.25%, cao hơn mức 1.53% của năm 2008. Theo Luật Bảo hiểm xã hội, lao động thất nghiệp được hưởng BHTN ngoài số tiền trợ cấp sẽ được cơ quan lao động thông qua các trung tâm hỗ trợ việc làm tư vấn, giới thiệu và học nghề miễn phí ( không quá 6 tháng kể từ khi hưởng BHTN hàng tháng ). Theo ông Lê Quang Trung, Phó cục trưởng Cục việc làm, giới thiệu chỗ làm mới được tiến hành theo 3 cách: giới thiệu công việc phù hợp với ngành đào tạo, phù hợp với chuyên môn đã làm từ trước tới nay và giới thiệu việc làm tương tự cho lao động phổ thông. Tuy nhiên theo quy định của Luật BHXH, nếu người lao động từ chối 2 lần công việc do BHXH giới thiệu mà không có lí do chính đáng thì sẽ bị cắt trợ cấp thất nghiệp. Câu hỏi đặt ra là “ thế nào là lí do chính đáng và không chính đáng” ? Điều này đã gây ra không ít khó khăn cho người lao động thất nghiệp. Nhiều trường hợp phải chấp nhận công việc giới thiệu không phù hợp với khả năng, hoàn cảnh hoặc phải từ chối quá 2 lần thì sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp nữa. 3.5. Tình hình hỗ trợ đào tạo học nghề cho người lao động hưởng BHTN: Chính sách hưởng BHTN mới bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1.1.2010 nên công việc tổ chức các lớp học nghề miễn phí theo quy định của Luật Bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp vẫn chưa được triển khai sâu rộng. Mặc dù vậy, một thực trạng vẫn tồn tại từ nhiều năm nay khiến các tổ chức bảo hiểm cần phải quan tâm là các trung tâm dạy nghề thì xuất hiện ồ ạt mà chất lượng đào tạo cho Trung 2 – K46F trang 19 Tiểu luận môn KTCC: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam người lao động lại thấp, không phù hợp thực tế. Hiện nước ta có khoảng 300 trường dạy nghề và hơn 1000 trung tâm dạy nghề của các bộ và tỉnh ; đề án đào tạo nghề đến hết năm 2010 được phép chi tới 24 nghìn tỉ đồng kinh phí, nhưng thực trạng chung là đào tạo không khớp với nhu cầu, và các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại. Ví dụ như theo thống kê tại 3 thành phố Đồng Nai, Bình Dương, tp Hồ Chí Minh, năm 2009 có trên 100 nghìn việc làm cần tuyển lao động nhưng số người lao động đến đăng kí tuyển dụng chỉ chiếm 17% nhu cầu và chỉ có 6% trong số đó là đạt yêu cầu. Như vậy việc đào tạo nghề như thế nào cho chất lượng và phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp luôn là vấn đề rất cần quan tâm, nhất là đối với các đối tượng lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, để họ sẵn sàng tìm được công việc mới mà không bị áp lực tái thất nghiệp. 4. Phân tích nguyên nhân, giải pháp cho các vướng mắc gặp phải 4.1.1 Văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ. - Vướng mắc trong tính thời gian đóng và hưởng trợ cấp - Vướng mắc khi so sánh với Bộ luật lao độn trước đó. - Vướng mắc trong quy định quyền từ chối việc làm được giới thiệu Theo Công văn số 3496/LĐTBXH-VL: Sau ngày 1-1-2009, NLĐ bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động thì được hưởng các chế độ BHTN đối với thời gian tham gia BHTN (sau ngày 1-1-2009) và được hưởng trợ cấp thôi việc đối với thời gian đã làm việc cho DN trước ngày 1-1-2009 mà chưa nhận được trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc.Tổng LĐLĐ Việt Nam cho rằng, nội dung trả lời như trên vẫn chưa giải thích đầy đủ những băn khoăn, thắc mắc của NLĐ, đồng thời cũng đã đặt ra một số vấn đề mới liên quan đến trợ cấp thôi việc trong luật BHTN.Cụ thể là NLĐ có thâm niên làm việc ở DN từ đủ 12 tháng trở lên kể từ trước ngày 1-1-2009 nhưng thời gian đóng BHTN chưa Trung 2 – K46F trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan