Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bài báo cáo thực tập-thực trạng bảo vệ người tiêu dùng theo ngành...

Tài liệu Bài báo cáo thực tập-thực trạng bảo vệ người tiêu dùng theo ngành

.PDF
31
194
82

Mô tả:

TRƯỜNG  ĐẠI  HỌC  NGÂN  HÀNG  TP  HCM   Khoa  Quản  Trị  Kinh  Doanh                             TIỂU  LUẬN  MÔI  TRƯỜNG  KINH  DOANH:   THỰC  TRẠNG  BẢO  VỆ  NGƯỜI  TIÊU  DÙNG  THEO  NGHÀNH                    GV  hướng  dẫn:  TS  Trịnh  Quốc  Trung   Nhóm  2    :  Võ  Thị  My  Na                                                030325090057                                                                                        Nguyễn  Khánh  Tường                  030325090134                                                                                        Ngụy  Thành  Nhân                                030325090187                                                                                        Đặng  Thị  Diễm  Lan                            030325090041                                                                                            Phạm  Như  Quỳnh                                030325090085       1   Mục  lục:   Phần  1  Lời  mở  đầu.                                                                                                                  3   Phần  2  Bộ  luật  bảo  vệ  người  tiêu  dùng.                                            3   2.1 Hệ thống các chủ thể có chức năng bảo vệ lợi ích của NTD. 2.1.1:Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD là trách nhiệm chung của toàn xã hội. 2.1.3: Các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, xã hội, xã hội-nghề nghiệp. 2.1.2: Cơ quan nhà nước. 2.2 Bộ luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010) . 2.2.1 Những nội dung cơ bản của luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 2.2.2 Một số nội dung cơ bản của Luật. 2.3 Một số bộ luật liên quan. Phần 3 Thực trạng bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam hiện nay. 4 4 4 4 5 5 6 10 10 3.1.Hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, xã hội, xã hội-nghề nghiệp. 11 3.2 Hoạt động của các doanh nghiệp. 13 Phần 4 Nguyên nhân – thực trạng BVNTD ngành sữa. 14 4.1 Thực trạng vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong ngành sữa. 14 4.1.1 Giá cả. 14 4.1.2 Chất lượng sản phẩm. 15 4.1.3 Thông tin sản phẩm và thông tin thương hiệu. 16 4.1.4 Chính sách hậu mãi. 17 4.1.5 Dịch vụ tư vấn. 18 4.1.6 Quảng cáo. 18 4.1.7 Bồi thường, thu hồi khi sản phẩm có khuyết tật. 19 4.2 Quy định của pháp luật. Phần 5 Giải pháp cho nghành sữa. 20 28     2   Phần 1:Lời mở đầu Trong những năm gần đây, hoạt động bảo vệ người tiêu dùng đang là một vấn đề hết sức nghiêm trọng, nóng bỏng và cũng không kém phần quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. Tất cả mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh của bất kì doanh nghiệp nào cũng đều xuất phát từ thị trường, đều hướng đến việc thỏa mãn tốt nhất nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của người tiêu dùng. Thật vậy, người tiêu dùng là một bộ phận quan trọng trong xã hội, chính họ là động lực thúc đẩy việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, vì nếu không có họ thì cũng không có việc sản xuất. Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp, ngoài việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực, phát triển R&D, không ngừng đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã sản phẩm, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hợp lý…..thì doanh nghiệp cũng cần phải củng cố, duy trì và phát triển uy tín thương hiệu của doanh nghiệp mình. Một trong những phương pháp đem lại hiệu quả cao nhất cho các doanh nghiệp đó là hoạt động bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, lợi ích của doanh nghiệp cũng phải có sự kết hợp hài hòa và đi đôi với lợi ích của người tiêu dùng cũng như toàn xã hội. Trong thời gian qua, có rất nhiều vấn đề tiêu dùng đang ngày càng đe dọa tới sức khỏe, quyền lợi và thậm chí đến tính mạng của người tiêu dùng mà biểu hiện cụ thể của nó là sự xuất hiện của các hàng hóa kém chất lượng, hàng giả, hàng hóa không rõ nguồn gốc, sản phẩm có chứa các chất ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của người tiêu dùng. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm của doanh nghiệp, nhà nước, các cơ quan chuyên ngành cũng như chính bản thân người tiêu dùng. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng không những chỉ mang tính chất quốc gia mà còn mang tính chất quốc tế. Theo các bài báo cũng như các đơn kiện của người tiêu dùng thì phần lớn các vi phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng liên quan trực tiếp đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm như: thịt tẩm ướt bằng chất hóa học nhằm lưu giữ lâu ngày, gà được nhuộm vàng bởi vecni đánh bóng gỗ, tôm được bơm thạch nhằm tăng trọng lượng, công nghệ làm nhân bánh bao từ vỏ hộp cacton, nước uống đóng chai có chứa các tạp chất, gia vị độc hại, vi phạm quy định chất lượng hàng hóa, quy định ghi nhãn hàng hóa của các công ty sữa có tên tuổi trong ngành như Vinamilk, Hanoimilk, ….. đã gây hoang mang cho người tiêu dùng. Đứng trước tình trạng quyền lợi người tiêu dùng bi xâm phạm nghiêm trọng như vậy, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 sẽ chính thức có hiệu lực từ 1/7/2011. Sự ra đời của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam 2010 tạo hành lang pháp lý vững chắc để công tác bảo vệ người tiêu dùng được thực thi có hiệu quả. Qua quá trình phân tích thực trạng hiện tại và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng , nhóm đưa ra một số đánh giá về thực trạng quyền lợi của người tiêu cũng như ảnh hưởng của bộ luật này đến hoạt động của các doanh nghiệp và các tổ chức có liên quan. Đồng thời nhóm có kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao tính chặt chẽ của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, qua đó giúp doanh nghiệp dễ dàng nâng cao uy tín thương hiệu trên thị trường. Phần 2: Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng   3   2.1 Hệ thống các chủ thể có chức năng bảo vệ lợi ích của NTD 2.1.1:Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD là trách nhiệm chung của toàn xã hội  Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (LBVNTD) quy định “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn xã hội” (đoạn 1 Điều 4 Chương I ). Quy định này thể hiện một nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và tính cần thiết của việc bảo vệ lợi ích của NTD. Bởi vì các quyền cơ bản của NTD mà Bản hướng dẫn về bảo vệ NTD của Liên Hiệp quốc năm 1985[2] đưa ra, bao gồm (1) quyền được thỏa mãn nhu cầu cơ bản, (2) quyền được an toàn, (3) quyền được thông tin, (4) quyền được lựa chọn, (5) quyền được lắng nghe, (6) quyền được bồi thường, (7) quyền được giáo dục về tiêu dùng và (8) quyền được có một môi trường lành mạnh và bền vững, rõ ràng chỉ có thể được đảm bảo bằng sự chung sức của toàn xã hội.  Pháp lệnh BVNTD năm 1999 cũng quy định: “Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân có trách nhiệm thực hiện các quy định của Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật có liên quan về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân tham gia các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” (đoạn 2, 3 Điều 2).  Chắc chắn rằng, tất cả các chủ thể này đều cần phải và có thể, phù hợp với chức năng của mình, đóng một vai trò nhất định trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NTD. Tuy nhiên quy định trên chỉ là quy định có tính nguyên tắc, trước hết có giá trị làm căn cứ cho các quy định nghĩa vụ cụ thể khác, từ đó chưa thể rút ra một nghĩa vụ cụ thể nào của các chủ thể được nêu. 2.1.2: Cơ quan nhà nước  Căn cứ quy định của LBVNTD, mọi cơ quan nhà nước đều có trách nhiệm bảo vệ NTD. Tuy nhiên, nhiệm vụ và phương thức thực hiện của các cơ quan nhà nước liên quan đến bảo vệ NTD là rất khác nhau. Có thể phân loại thành các phương thức gián tiếp và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ NTD. Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ NTD trước hết phải kể đến hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng và quản lý nhà nước về thương mại. Các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng chỉ áp dụng các biện pháp hành chính và chế tài hành chính trong quan hệ giữa nhà nước với người sản xuất, người phân phối và cung ứng dịch vụ. Trong khi đó, các tranh chấp phát sinh giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp là các tranh chấp dân sự, được giải quyết trước các cơ quan tài phán, ở đó luật được áp dụng để giải quyết mà không tồn tại sự bảo vệ người tiêu dùng theo nghĩa “đứng về phía người tiêu dùng”.  Trong số các cơ quan quản lý nhà nước, nay Bộ Công Thương có nhiệm vụ là cơ quan chuyên trách bảo vệ NTD, Cục quản lý Cạnh tranh được giao nhiệm vụ giúp Bộ Trưởng thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD cũng như quản lý Nhà nước về bảo   4   vệ NTD trong phạm vi cả nước. Điều đó là phù hợp với quy định tại Luật Cạnh tranh, theo đó Cục Quản lý cạnh tranh cũng có nhiệm vụ điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh; xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Giao nhiệm vụ trên cho Cục Quản lý cạnh tranh tỏ ra là phù hợp, bởi mục tiêu của pháp luật cạnh tranh cũng là bảo vệ người tiêu dùng (thông qua đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp). Như vậy, điểm đặc biệt ở đây là đối với cả hai nhóm hành vi cạnh tranh có thể xâm hại quyền lợi NTD, Cục quản lý cạnh tranh tự tiến hành điều tra hoặc điều tra trên cơ sở đơn khiếu nại của NTD theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ, và được xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh bằng các chế tài của Luật Cạnh tranh và các chế tài hành chính. 2.1.3: Các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, xã hội, xã hội-nghề nghiệ p  Theo LBVNTD, tất cả các loại tổ chức này đều có trách nhiệm thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân tham gia các hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD và thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD.  Ở phạm vi trung ương từ năm 1991 đã có Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS) thực hiện chức năng chuyên trách tổ chức các hội phụ trách hoạt động bảo vệ NTD với tên gọi “tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Hiện nay đã có 30 tỉnh thành trên cả nước có Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thành lập trên cơ sở các quy định của Nghị định số 69/2001/NĐ-CP.  Tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD được xác định là tổ chức xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt thành phần kinh tế, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ, nghề nghiệp; là tổ chức đại diện để bảo vệ quyền lợi NTD theo quy định của pháp luật (Điều 14 Nghị định 69/2001/NĐ-CP). Các tổ chức này phải hoạt động theo nguyên tắc (1) là tổ chức đại diện cho NTD, (2) không liên quan đến việc khuyếch trương cho bất kỳ tổ chức, các nhân nào khác, (3) không quảng cáo cho bất kỳ mục đích thương mại nào trong các hoạt động của mình, (4) không được khai thác thông tin, hướng dẫn NTD nhằm mục đích kinh doanh, (5) không chịu ảnh hưởng hoặc chịu lệ thuộc bởi việc nhận tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong mọi hoạt động. Đây là các nguyên tắc hoạt động đặc trưng của một tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi NTD. 2.2 Bộ luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010). Nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, ngày 17 tháng 11 năm 2010, sau hai năm xây dựng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Sự ra đời của văn bản pháp luật này phản ánh kỳ vọng của các cấp quản lý và của người tiêu dùng về một công cụ có đủ sức mạnh trấn chỉnh và thiết lập các quy tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 2.2.1 Những nội dung cơ bản của luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được bố cục thành 6 chương như sau:   5    Chương I: Những quy định chung bao gồm 10 điều trong đó đáng lưu ý với các nội dung về phạm vi điều chỉnh của Luật, các nguyên tắc, các quy định về bảo vệ thông tin của người tiêu dùng, Chương này cũng đưa ra 8 quyền cơ bản, 2 nghĩa vụ của người tiêu dùng, 8 hành vi bị cấm, những nguyên tắc cơ bản trong xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.  Chương II: Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng bao gồm 15 điều, trong đó đáng lưu ý là các điều quy định về: Yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước bảo vệ quyền lợi, giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.  Chương III: Trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm 3 điều.  Chương IV: Quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa bao gồm: Thương lượng, hòa giải, trọng tài, giải quyết tranh chấp tại tòa án. Chương IV có 4 mục: • Mục 1 quy định về khuyến khích người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh giải quyết tranh chấp bằng phương thức thương lượng. Pháp luật không can thiệp vào việc lựa chọn sử dụng phương thức này cũng như quá trình thương lượng và thi hành kết quả thương lượng thành của các bên. Tuy nhiên, không được thương lượng trong trường hợp tranh chấp gây thiệt hại lớn đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích công cộng. • Mục 2 quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ và người tiêu dùng có quyền thỏa thuận lựa chọn bên thứ ba là cá nhân, tổ chức hòa giải để thực hiện việc hòa giải. Không được hòa giải trong trường hợp tranh chấp gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích công cộng. • Mục 3 quy định trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tại trong tài được thực hiện theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. • Mục 4 về phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Khẳng định đối với nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại. Toà án quyết định bên có lỗi trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Án phí, lệ phí Tòa án đối với vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thực hiện theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án. Người tiêu dùng khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình không phải nộp tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Toà án.  Chương V: Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.  Chương VI: Điều khoản thi hành. 2.2.2 Một số nội dung cơ bản của Luật * Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Điều 4) Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn xã hội.Quyền lợi của người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật. Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng phải được thực hiện kịp thời, công bằng, minh bạch, đúng pháp luật. Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân khác   6   * Bảo vệ thông tin của người tiêu dùng (Điều 6) Đây là quy định hoàn toàn mới của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng so với Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước đây. Xuất phát từ yêu cầu chính đáng cần được bảo vệ thông tin trong khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã đưa nguyên tắc bảo vệ thông tin của người tiêu dùng thành một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật, trong đó khẳng định: Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm: Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng; Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý; Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng; Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác; Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. * Quyền của người tiêu dùng (Điều 8) Luật quy định rõ 8 quyền của người tiêu dùng trong đó đáng chú ý nhất là các quyền như: Quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp. Quyền được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa, được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch … được yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết. Được quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật * Quy định cụ thể về nghĩa vụ của người tiêu dùng (Điều 9) Không chỉ quy định về quyền và các biện pháp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, một trong những điểm mới nổi bật mà Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đưa ra là quy định cụ thể về nghĩa vụ của người tiêu dùng. Theo đó, người tiêu dùng có nghĩa vụ đảm bảo và tạo điều kiện cho công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thực hiện một cách hiệu quả. Cụ thể, người tiêu dùng có nghĩa vụ kiểm tra hàng hoá trước khi nhận; lựa chọn tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không làm tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội, không gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của mình và của người khác; thực hiện chính xác, đầy đủ hướng dẫn sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Đặc biệt so với Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khẳng định nghĩa vụ của người tiêu dùng trong việc thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan khi phát hiện hàng hóa, dịch vụ lưu hành trên thị trường không bảo đảm an toàn, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người tiêu dùng; hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. * Các hành vi bị cấm trong lĩnh vực Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Điều 10) Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã đưa ra các quy định chi tiết và đầy đủ về các hành vi bị cấm như: cấm tổ chức, cá nhân kinh doanh thực hiện những hành vi như lừa dối, gây   7   nhầm lẫn cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc cung cấp không đầy đủ, sai lệch, không chính xác hoặc che dấu thông tin về hàng hóa, dịch vụ, về uy tín, khả năng kinh doanh; cấm việc tiếp xúc, liên hệ trái ý muốn của người tiêu dùng từ 2 lần trở lên… Cấm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các biện pháp khác gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của người tiêu dùng; Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để ép buộc giao dịch. Việc quy định cụ thể này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho người tiêu dùng được bảo vệ đầy đủ hơn, đồng thời ràng buộc chặt chẽ hơn các trách nhiệm liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. * Xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Điều 11) Cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. * Trách nhiệm của bên thứ ba với người tiêu dùng (Điều 13) Điểm mới quan trọng trong Luật là quy định về trách nhiệm ràng buộc đối với bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng. Bên thứ 3 ở đây có thể hiểu là những đơn vị truyền thông quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh tới người tiêu dùng. Cụ thể, Luật quy định chi tiết trách nhiệm của bên thứ 3 về các vấn đề như: phải bảo đảm chính xác, đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ cung cấp; yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp chứng cứ chứng minh tính xác thực và đầy đủ của thông tin; chịu trách nhiệm liên đới trong trường hợp cung cấp thông tin không chính xác, đầy đủ… Luật có những quy định mới, tập trung vào vấn đề trách nhiệm bảo hành hàng hóa và thu hồi hàng hóa có khuyết tật, bồi thường thiệt hại do khuyết tật của hàng hóa gây ra cho người tiêu dùng. * Hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, điều kiện giao dịch chung (Điều 14) Trên thực tế, thông thường các hợp đồng giao dịch giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng do cá nhân kinh doanh đơn phương soạn thảo. Việc đưa ra các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng giúp khắc phục sự yếu thế của người tiêu dùng khi thương lượng, giao kết hợp đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Tuy nhiên, Pháp lệnh năm 1999 cũng như Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh lại chưa đề cập, chưa có những quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề này. Khắc phục điều đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định khá đầy đủ việc đăng ký hợp đồng theo mẫu đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu do Thủ tướng Chính phủ ban hành theo từng thời kỳ. Quy định này không chỉ giúp bảo vệ người tiêu dùng trong quá trình mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phục vụ cuộc sống hàng ngày mà còn giúp cơ quan nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. * Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng Kế thừa những ưu điểm của Pháp lệnh năm 1999 và căn cứ vào tình hình và nhu cầu thực tế về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã đưa ra những quy định mới và chặt chẽ về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng. Luật đã có những quy định mới, tập trung vào vấn đề trách nhiệm bảo hành và thu hồi hàng hóa có khuyết tật, bồi thường thiệt hại do khuyết tật của hàng hóa gây ra cho người tiêu   8   dùng. Theo đó, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo hành đối với hàng hóa do mình cung cấp, trong thời gian bảo hành phải cung cấp cho người tiêu dùng hàng hóa tương tự để sử dụng tạm thời hoặc có hình thức giải quyết khác được người tiêu dùng chấp nhận, phải chịu chi phí về sửa chữa và vận chuyển hàng hóa, linh kiện được bảo hành… Đối với hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, tiến hành thu hồi và báo kết quả với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Những quy định mới trong Luật không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tối đa, qua đó còn góp phần nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp. * Vai trò của tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Bên cạnh kế thừa các nguyên tắc về hoạt động, quyền, nghĩa vụ của tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Pháp lệnh năm 1999, Luật cũng đã có thêm những quy định mới nâng cao vai trò của tổ chức bảo vệ người tiêu dùng, góp phần xã hội hóa công tác bảo vệ người tiêu dùng như: quy định quyền tự khởi kiện vì lợi ích công cộng của tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Pháp lệnh năm 1999 chỉ quy định quyền khởi kiện của tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi được người tiêu dùng ủy quyền); quy định tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Nhà nước cấp kinh phí và các điều kiện khác khi tổ chức này thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao. Quy định này thể hiện rõ quan điểm định hướng trong quá trình xây dựng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là xã hội hóa hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. * Giải quyết tranh chấp tại tòa án giữa người tiêu dùng và các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo thủ tục đơn giản Chương IV quy định các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, bao gồm: thương lượng; hòa giải; trọng tài và tòa án. Luật đã có quy định rất tiến bộ, đặc biệt phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án. Theo đó, tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong trường hợp vụ án dân sự đơn giản, cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện; vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng; Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng. Quy định này giúp cho những tranh chấp nhỏ, đơn giản được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện cho người tiêu dùng. * Bổ sung phương thức thương lượng để giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ Để khuyến khích người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh tự giải quyết tranh chấp, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã đưa ra quy định giải quyết tranh chấp bằng phương thức thương lượng. Đây là một điểm hoàn toàn mới so với Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Theo đó, người tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ để thương lượng khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm tiếp nhận, tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Pháp luật không can thiệp vào việc lựa chọn sử dụng phương thức này cũng như quá trình thương lượng và thi hành kết quả thương lượng thành của các bên. Tuy nhiên Luật quy định không được thương lượng, hoà giải trong trường hợp tranh chấp gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích công cộng.   9   * Về việc miễn nghĩa vụ chứng minh lỗi và miễn tạm ứng án phí Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng đưa ra quy định miễn nghĩa vụ chứng minh lỗi và miễn tạm ứng án phí cho người tiêu dùng khi tiến hành khởi kiện các tổ chức cá nhân vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quy định này xuất phát từ vị trí yếu thế của người tiêu dùng trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Trong hầu hết các vụ vi phạm, người tiêu dùng hầu như không thể chứng minh được lỗi của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ do thiếu kiến thức, phương tiện, năng lực tài chính như vụ xăng pha aceton; sữa nhiễm melamine… Trong các vụ việc này, người tiêu dùng không thể chứng minh được các chất hóa học có hại trong sản phẩm. Ngoài ra, trong một số vụ việc liên quan đến lợi ích xã hội thì Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ người khởi kiện thông qua việc miễn tạm ứng án phí hoặc án phí. 2.3: Một số bộ luật liên quan: Bên cạnh đó, Quyền lợi của người tiêu dùng còn được bảo vệ bởi nhiều quy định trong các văn bản pháp luật khác như: Bộ luật Dân sự (2005), Bộ luật Hình sự (2000), Luật Thương mại (2005), Luật Cạnh tranh (2004), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (2006), Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi (2005), Luật Chất lượng sản phẩm (2007), Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm (2010), Pháp lệnh Quảng cáo (2001)… Điều 14, mục 2, chương I Luật thương mại có nêu : Đ i ề u 1 4 . Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng 1. Thương nhân thực hiện hoạt động thương mại có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó. 2. Thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh. Bộ Luật Dân sự: tại điều 630 Luật Dân sự 2005 có quy định: Các cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất kinh doanh không đảm bảo chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường. Điều 4.2 của Luật cạnh tranh "Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của Luật này." Phần 3: Thực trạng bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam hiện nay: Những năm gần đây, quyền lợi của người tiêu dùng ngày càng bị xâm hại trong nhiều lĩnh vực. Đó là tình trạng hàng giả, hàng nhái nhãn mác, kém chất lượng được trà trộn đưa vào lưu thông, tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm, tình trạng cân, đo, đong, đếm không đảm bảo đúng định lượng, gian dối với người tiêu dùng.. nguyên do cũng vì nhận thức của người tiêu dùng vì họ không biết khiếu nại ở đâu và có những quyền lợi gì. Ngoài ra, trách nhiệm của các nhà sản xuất, các cơ quan nhà nước cũng chưa quan tâm đầy đủ. Thực tế hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam chưa có hiệu quả thiết thực để có những phong trào người tiêu dùng, các hoạt động liên kết có tính chất cộng đồng người tiêu dùng; cũng chưa tạo nên tiếng nói có trọng lượng, tác động đến các quyết sách của nhà nước,   10   ngành, bộ, địa phương, cơ sở, nhằm làm công tác tư vấn, phản biện giám định xã hội... mạnh mẽ như ở các nước phát triển. tổ chức người tiêu dùng ở VN cũng có tác động, nhưng chỉ với tính chất là chức năng mà thôi. Sau đây là thực trang chung trong thời gian vừa qua: 3.1.Hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, xã hội, xã hội-nghề nghiệp: Các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam, mà điển hình là Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas) được đánh giá có vai trò ngày càng quan trọng trong lĩnh vực này khi Luật Bảo vệ người tiêu dùng được Quốc hội thông qua. Với tình trạng quyền lợi người tiêu dùng bị xâm hại ngày càng nghiêm trọng như hiện nay, Hội càng đẩy mạnh hoạt động của các Hội địa phương, các Văn phòng giải quyết khiếu nại, chủ động tham gia với các cơ quan Nhà nước trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, dự kiến xây dựng danh mục hàng hoá, cảnh báo người tiêu dùng về nguy cơ mất an toàn khi dùng. Hội cũng đang cùng các cơ quan hữu quan xây dựng và xét tặng các Danh hiệu “Văn minh thương mại người tiêu dùng Việt Nam” nhằm tôn vinh các Doanh nghiệp có “đạo đức kinh doanh” vì người tiêu dùng. Trong năm 2009, hai văn phòng của Vinastas tại Hà Nội và Tp.HCM đã tiếp nhận hơn 310 hồ sơ khiếu nại của người tiêu dùng. Chín tháng vừa qua của năm 2010, con số này là khoảng 200, chưa kể các trường hợp tiếp nhận khiếu nại và tư vấn qua điện thoại. Trong các hồ sơ khiếu nại, đã có khoảng 80% số vụ được giải quyết thành công và có kết quả cụ thể. Tuy nhiên, theo đánh giá thì thực tế số vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vượt xa so với số vụ khiếu nại. Điều này có thể do người tiêu dùng thiếu thông tin, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, không biết phải tìm kiếm sự trợ giúp từ cơ quan nào khi xảy ra các sự cố hoặc không tin tưởng vào năng lực giải quyết của các cơ quan quản lý...số người hiểu biết về Hội và đến khiếu nại với Hội về các thiệt thòi của mình còn quá hạn chế, chưa phản ánh đúng với các biến động của xã hội. Cái khó thứ nhất là phải kiếm cho được con người có tâm huyết với Hội và có trình độ năng lực. Thứ hai, khá quan trọng là phải có kinh phí tối thiểu để trang trải các chi phí trong quá trình hoạt động, đặc biệt là phụ cấp cho người thường trực chuyên trách theo giờ hành chính ở văn phòng khiếu nại (ít nhất 500.000 đồng/người/tháng).Hiện nay pháp luật giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng vẫn thông qua các hình thức như hoà giải, thương lượng, trọng tài và toà án. Tuy nhiên, đến nay chưa có tranh chấp nào của người tiêu dùng được giải quyết bằng trọng tài. Còn hình thức giải quyết tranh chấp qua toà án ít khi người tiêu dùng lựa chọn do trình tự, thủ tục phức tạp, thời gian kéo dài. Số lượng người khiếu nại về quyền lợi tiêu dùng rất nhỏ. Điều này đương nhiên không phải vì quyền lợi người tiêu dùng ít bị xâm phạm mà tâm lí sợ rắc rối nên người ta thường e ngại. Bởi chia nhỏ quyền lợi cho mỗi cá nhân, giá trị kinh tế thường không lớn, thiệt hại của người tiêu dùng chỉ thực sự “khổng lồ” khi nó được   11   mang tính cộng đồng. Ví dụ một chiếc nồi cơm điện bị lỗi rơ-le, thà rằng mang đi thay mất 40.000 đồng, còn hơn là vác đơn đi kiện nhà sản xuất, chưa biết đến bao giờ mới thắng? Nhưng bên cạnh những ưu điểm, các phương thức giải quyết tranh chấp bằng hoà giải, thương lượng còn có những hạn chế là quá trình giải quyết còn phải phụ thuộc vào thiện chí của các bên, quyết định chỉ mang tính đồng thuận, không có giá trị ràng buộc pháp lý; thời gian giải quyết kéo dài... Theo quy định của pháp luật, NTD khi mua sản phẩm không đảm bảo chất lượng, dịch vụ cung cấp không đạt, có quyền trực tiếp thương lượng với nhà sản xuất, nếu nhà sản xuất không giải quyết thì thông qua các văn phòng khiếu nại tư vấn tiêu dùng của VINASTAS tại các địa phương và thành phố trong cả nước. Họ cũng có thể khiếu nại đến các cơ quan quản lý Nhà nước như Tổng cục TCĐLCL, Cục ATVSTP, Cục Quản lý cạnh tranh..., ngoài ra họ còn có quyền kiện ra tòa.   Khi NTD đến văn phòng tư vấn khiếu nại hàng tiêu dùng của VINASTAS để khiếu nại, người có thẩm quyền sẽ mời nhà sản xuất đến trao đổi và tìm hiểu lý do tại sao chất lượng sản phẩm không đúng như công bố của nhà sản xuất. Đồng thời, hội cũng tìm hiểu xem phản ánh của NTD có đúng so với công bố chất lượng của nhà sản xuất hay không. Dựa trên ý kiến của hai bên sẽ đưa ra phương án hoà giải, giúp cho NTD cảm thấy quyền lợi của mình được bảo vệ và giúp cho nhà sản xuất có cơ hội để cải tiến sản phẩm đồng thời làm đúng trách nhiệm của mình. Thực tế, quyền lợi của NTD đang bị xâm phạm nghiêm trọng nhưng việc bảo vệ NTD hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn.Luật pháp chỉ cho phép Hội được phép hòa giải. NTD Việt Nam bị xâm phạm về quyền lợi chủ yếu mang tính nhỏ lẻ, giá trị kinh tế không cao nên chủ yếu sẽ hòa giải. Nếu giá trị cao (trên 100 triệu đồng), Hội sẽ thay mặt NTD đứng ra khởi kiện. Các chế tài xử phạt của nước ta vẫn còn nhẹ, quy định của pháp luật về bảo vệ NTD còn lỏng lẻo, chưa sát với thực tế khiến nhiều khi NTD biết mình bị lừa dối, bị xâm hại mà không làm thế nào được. ở các nước EU, Nhật, Singapore…, việc đưa ra danh sách đen cảnh báo các thực phẩm, hàng hoá có vấn đề và kiểm tra nghiêm ngặt các sản phẩm là chuyện rất bình thường. Có thể nói, trong điều kiện xã hội ngày càng văn minh, thì vấn đề quyền lợi và sức khỏe của người tiêu dùng càng phải được chú trọng, tuy nhiên hiện tại cả hai vấn đề này đều bộc lộ những bất cập. Việc các nhà sản xuất, phân phối vi phạm về các quyền tiêu dùng quá phổ biến, có thể gặp bất cứ phân đoạn thị trường nào của thành phố. Ngày nay thủ đoạn của các đối tượng vi phạm ngày càng tinh vi xảo quyệt. Nhìn vào số liệu của Chi cục quản lý thị trường, tính từ đầu năm đến nay, Chi cục đã thực hiện kiểm tra 1.253 vụ, thì có tới 1.032 vụ vi phạm các quy định của nhà nước, một tỷ lệ rất cao mà điều đáng nói đây chỉ là một phần nhỏ trong sự tiếp diễn liên tục của thị trường. Cụ thể trên lĩnh vực chống buôn lậu, vận chuyển và buôn bán hàng cấm, Chi cục đã thực hiện kiểm tra 18 vụ, cả 18 vụ đều có dấu hiệu vi phạm. Trên lĩnh vực chống sản xuất và buôn bán hàng giả hàng kém chất lượng, tỷ lệ cũng là 100% giữa kiểm tra và xử lý với 27 vụ. Khái niệm quyền lợi người tiêu dùng đã được nhắc đến nhiều, nhưng trên thực tế người tiêu dùng chưa mặn mà lắm với vấn đề này. Trong khi đó, việc mua phải những sản phẩm kém chất lượng, việc bảo trì bảo hành không thực hiện đúng cam kết… đôi khi là thỏa   12   thuận có tính chủ quan, và đây chính là điểm yếu để các nhà sản xuất, phân phối lợi dụng. Ở chợ tự do việc nói thách cân điêu vốn dĩ đã thành nếp truyền thống, nhưng ngay tại các siêu thị, chẳng hạn ở Metro khi niêm yết giá, nhà phân phối in giá trước thuế thì to đùng, giá bán thực thì nhỏ xíu tinh mắt mới thấy. Có thể mức độ vi phạm không có hoặc khó xác định, nhưng dường như nó vẫn phảng phất những hành vi lập lờ thiếu minh bạch, thay cho cách mà người tiêu dùng được tiếp cận hàng hóa “đàng hoàng” hơn. Luật bảo vệ người tiêu dùng là cơ hội, thì chỉ khi các cơ quản thực thi quyền bảo vệ chủ động, nó mới thu hút được sự quan tâm của mọi người. 3.2 Hoạt động của các doanh nghiệp: Hiện nay, người tiêu dùng nói chung rất thiếu kiến thức để nhận biết hàng giả, hàng thật. Mua bất kỳ một sản phẩm nào, người tiêu dùng đều băn khoăn, lo lắng về chất lượng sản phẩm. Niềm tin ở người tiêu dùng đang giảm xuống trong quý 01 năm 2011. Gần 2/3 doanh nghiệp cho rằng nền kinh tế đang đi xuống và 48% mong rằng họ sẽ đạt được mục tiêu đã đề ra so với năm ngoái. Chỉ 1/3 nghĩ rằng điều kiện kinh doanh sẽ được cải thiện trong 12 tháng tới, đa số đều cho rằng tình trạng hiện tại vẫn tiếp tục duy trì. Lạm phát và tiền đồng mất giá là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo, tuy nhiên họ nói rằng họ vẫn có khả năng xoay sở để đạt được mục tiêu kinh doanh 5 mối quan tâm hàng đầu của 5 mối quan tâm hàng đầu của người doanh nghiệp tiêu dùng 1) Lạm phát 1) Sức khỏe 2) Tiền đồng mất giá 2) Giá thực phẩm tăng 3) Khả năng tăng giá 3) Giá điện/ nước/ gas … tăng 4) Áp lực cạnh tranh/ hoạt động/ tăng trưởng 4) Đảm bảo công việc 5) GDP tăng chậm 5) Tương lai của con cái Bất chấp những nỗi lo trên, các doanh nghiệp lớn (90%) vẫn tin rằng việc kinh doanh của họ sẽ tăng trưởng gấp đôi. Như ta đã biết, DN có vai trò quyết định trong việc dẹp bỏ tận gốc các hành vi vi phạm quyền lợi NTD. DN chính là người thiết kế, sản xuất và đưa sản phẩn hàng hóa, dịch vụ ra thị trường. Nếu DN nào cũng thực hiện tốt các quy định của pháp luật về kinh doanh như: luật Thương   13   mại, luật Cạnh tranh, luật Chất lượng sản phẩm, luật Đo lường, luật ATVSTP, pháp lệnh quảng cáo… thì sẽ không có hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, không có quảng cáo, thông tin sai lệch, lừa dối NTD trên thị trường Khi có phát sinh về quyền lợi của NTD (hàng bị lỗi, kém chất lượng…) thì DN là người giải quyết thỏa đáng nhất những yêu cầu của NTD, giúp cho NTD có những thông tin, kiến thức đúng đắn về sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình, đảm bảo quyền được khiếu nại, bảo hành hàng hóa của NTD. Thực tế hiện nay các DN vì lợi nhuận nên đã có những hành vi cố ý vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền lợi NTD. Điều đáng lo ngại là các hành vi vi phạm đang rất phổ biến, đa dạng và ngày càng tinh vi, phức tạp. Nhiều hành vi vi phạm mà bản thân NTD rất khó nhận biết được. Những hành vi này không những vi phạm nghiêm trọng đến quyền lợi NTD mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các DN chân chính, làm mất lòng tin của NTD đối với các DN.NTD là đối tượng dễ bị tổn thương và bị xâm hại quyền lợi. Do đó, để hướng tới một xã hội công bằng những thiệt thòi của NTD đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng. DN còn “ngại” tố hàng giả Nhiệm vụ chống sản xuất và buôn bán hàng giả thuộc về 3 đối tượng: Nhà nước (các cấp, các ngành, cơ quan chức năng, báo đài…), các đoàn thể xã hội, NTD và bản thân các DN. Trong 3 đối tượng này, DN phải là chính, phải chủ động. Thực tế là nhiều DN ngại không muốn tố giác, đấu tranh khi sản phẩm hàng hóa của mình bị làm giả. Khi DN bảo vệ quyền lợi NTD cũng chính là cách mà DN nâng cao uy tín cho chính mình. Một thực tế đáng lo ngại là các loại hàng hóa, trong đó có cả mặt hàng nhu yếu phẩm đang bị thật giả lẫn lộn. Hàng giả có ở khắp mọi nơi, chủ yếu là các loại rượu, bia, thực phẩm… từ hàng cao cấp đến hàng bình dân đều có những sản phẩm làm nhái, làm giả. Điều dó chứng tỏ các DN chân chính vẫn chưa mạnh dạn đấu tranh, tố giác hàng giả. Chính vì vậy, uy tín của DN đã suy giảm và NTD mất lòng tin với chính DN làm ăn chân chính đó. Trong thời gian vừa qua, đã không có ít vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng như 312.000 điện kế điện tử giả nguồn gốc xuất xứ phải thu hồi, tòa án đã xử hình sự; vụ độc chất 3-MCPD chứa trong nước tương có hàm lượng cao vượt quá tiêu chuẩn cho phép 5,27 lần; rồi hành vi cài đặt hệ thống chíp điện tử trong máy bơm xăng để bớt xén của khách hàng… Nạn nhân hứng chịu hậu quả, không ai khác chính là người tiêu dùng. Do đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, ngoài những quy định chung, còn quy định các vấn đề cụ thể như: Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ… Phần 4 Nguyên nhân – thực trạng BVNTD ngành sữa. 4.1 Thực trạng vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong ngành sữa. 4.1.1   Giá cả. 14   Việc giám sát giá sữa tại Việt Nam trong những năm gần đây dừng như vượt tầm kiểm soát của cơ quan chức năng. Tại hội thảo Sữa với sức khỏe người tiêu dùng Việt Nam, Hà Nội ngày 27-6-2011, Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công Thương) cho biết, thống kê cho thấy trong 3-4 năm qua, giá bán sữa nước ngoại nhập tại Việt Nam chỉ có tăng không giảm. Theo tài liệu của Dự án bò sữa Việt- Bỉ, một dự án do Bỉ tài trợ về phát triển ngành sữa Việt Nam, giá sữa bán lẻ tại Việt Nam là 1,4 đô la Mỹ/lít, ngang bằng với giá tại những nước phát triển như Mỹ, Canada, Hàn Quốc, là mức giá cao nhất thế giới.   Quốc gia - vùng lãnh thổ   Giá sữa (USD/lít)   Việt Nam   1,4   Hà Lan   0,8   Đức   0,9   Trung Quốc   1,1   Ấn Độ   0,5   Trong khi giá sữa bán lẻ tại Việt Nam thuộc loại cao nhất thế giới thì mức lợi nhuận của các doanh nghiệp sữa cũng ở mức cao nhất nhì thế giới. Cụ thể, lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh sữa bột 22-86%. Đối với sữa nước, mức lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng lên tới 48%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp hoạt động trng ngành sữa đang làm méo mó giá cả sản phẩm sữa gây thiệt hại to lớn cho người tiêu dùng, trong khi thu nhập người dân tăng rất ít thì giá cả sữa lại tăng mạnh, không tương xứng.   Một điển đáng lưu ý nữa trong khi giá sữa nguyên liệu nhập khẩu giảm mạnh, một số hãng sữa bất ngờ điều chỉnh giá bán với mức tăng 4-15%. 2011 tăng 20-25% giá. Hãng sữa Nestlé điều chỉnh tăng giá dòng sữa Lactogen từ 3-10%. Từ ngày 7-9-2010, Friesland Campina VietNam cũng điều chỉnh tăng giá 4-15% một số mặt hàng sữa bột như Friso, Dutch Lady. Các nhãn hàng sữa ngoại đang tại ra mức giá tăng bất hợp lý nhưng vẫn không bị các cơ quan chức năng về giám sát thị trường tiến hành thanh tra, rà soát việc tăng giá. Quyền lợi người tiêu dùng đang bị xâm hại nghiêm trọng. 4.1.2 Chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm sữa trong giai đoạn gần đây đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận. Thứ nhất về hàm lượng sữa trong các sản phẩm, theo thông tin từ Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế), trong đợt kiểm tra 6 tháng vừa qua ( 2 quý đầu năm 2011), các địa phương đã phát hiện nhiều sản phẩm sữa kém chất lượng, như thiếu đạm, thiếu chất béo. Riêng tại Sở Y tế Hải Phòng, kiểm nghiệm 22 mẫu sữa đóng gói trong nước đã thấy có 6 mẫu không đạt tiêu chuẩn. Trong số các sản phẩm kém chất lượng trên là ba mẫu sản phẩm của hai công ty Cổ phần Sữa Việt Nam Vinamilk và Dutch lady Việt Nam, bị coi là có hàm lượng chất béo thấp hơn công bố. Theo đó, Vinamilk có 2 mẫu, sản xuất ở hai địa chỉ khác nhau, gồm: - Sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ: mức chất béo công bố trên nhãn 9g%, thực kiểm: 6,32g% (ngày sản xuất: 11/1/2009, hạn sử dụng: 11/1/2010, hộp 380gr, sản phẩm của Cổ   15   phần Sữa Việt Nam Vinamilk, địa chỉ: số 57/22, Bầu Cát 9, phường 14, quận Tân Bình, TP HCM). - Sữa bột Vinamilk dielac Star Step 1: mức công bố trên nhãn: 28g%, thực kiểm: 23,3g% ( ngày sản xuất: 12/6/2007; hạn sử dụng: 12/6/2009, hộp 400gr, sản phẩm của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam Vinamilk, địa chỉ 184-186-188 Nguyễn Đình Chiểu, phường 6, quận 3, TP HCM). Một mẫu khác là sữa đặc có đường Duchtlady: mức công bố trên nhãn 11g%, thực kiểm: 7,55g% (ngày sản xuất: 1/11/2008, hạn sử dụng: 1/11/2009, hộp 380gr, sản phẩm của Công ty TNHH và nước giải khát Ducht Lady VN, xã Bình Hoà, Thuận An, Bình dương). Thứ hai về vấn đề nhiễm melamine trong các sản phẩm sữa, theo thông tin từ Cục An toàn vệ sinh thực phẩm Bộ Y tế đến hết ngày 2/10/2008, đã phát hiện 18 sản phẩm có nhiễm melamine được bán tại Việt Nam. Chánh thanh tra Bộ Y tế Trần Quang Trung cho biết, ngày 2/10, Thanh tra Bộ Y tế đã có văn bản yêu cầu Hanoimilk tiêu huỷ ngay hai lô sữa 180 tấn nhiễm melamine. Hai lô sữa này có nhãn hiệu: Sữa bột nguyên kem Grate A của Công ty Long Com (Trung Quốc, hàm lượng melamine là 145mcg/kg với hạn sử dụng đến tháng 9/2008) và nhãn sữa bột nguyên kem Blue Cow (hàm lượng melamine 200mcg/kg có hạn sử dụng đến 26/11/2008). Vấn đề này nhận được sự quan tâm đặc biệt của người tiêu dùng, khảo sát sao là một ví dụ. Bảng thăm dò ý kiến của VnExpress. Trên đây chỉ là những nét cơ bản trong việc kiểm soát chất lượng sản phẩm cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc quản lý chất lượng sản phẩm, điều này cho thấy quyền lợi người tiêu dùng chưa được doanh nghiệp quan tâm đúng mức và các cơ quan chức năng vẫn chưa giám sát tốt công tác bảo vệ người tiêu dùng trước việc chất lượng sản phẩm bị sai lệch.   4.1.3 Thông tin sản phẩm và thông tin thương hiệu. Từ 1/1/2012, các sản phẩm sữa lưu thông trên thị trường Việt Nam sẽ buộc phải ghi nhãn bằng tiếng Việt. Trong trường hợp thông tin trên ghi không rõ ràng, dẫn đến hiểu lầm của người tiêu dùng gây hậu quả nghiệm trọng, đơn vị chịu trách nhiệm có thể bị truy tố. “Hiện có nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chưa đáp ứng đủ các yêu cầu, dẫn đến sản phẩm sữa không bảo đảm chất lượng, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng…” - là khẳng định của ông Nguyễn Phương Nam - Phó Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) tại hội thảo "Sữa với sức khỏe người tiêu dùng Việt Nam" tổ chức ngày 27/6 tại Hà Nội.     16   Theo cục Quản lý cạnh tranh; trong “cơn bão” hàng nhập khẩu hiện nay, người tiêu dùng thường bị nhiễu thông tin, mua bán theo phong trào, dễ dẫn đến “tiền mất tật mang”, sức khỏe không được bảo đảm. Bên cạnh đó, người tiêu dùng vẫn chưa quan tâm sát sao tới các vấn đề về lựa chọn sản phẩm, chất lượng, cách bảo quản , cách thức sử dụng hoặc những yêu cầu bảo đảm ATVSTP của các doanh nghiệp… Ông Nguyễn Công Khẩn - Cục trưởng Cục ATVSTP (Bộ Y tế) - cho hay: Rất nhiều người tiêu dùng nhầm lẫn giữa quảng cáo và thông tin. Hiện nay, nhà nước đã có nhiều cải tiến để quản lý mặt hàng này bằng việc ban hành những bộ quy chuẩn chất lượng. Song, chất lượng sữa đo bằng vô vàn tiêu chuẩn. Mỗi dòng sữa, loại sữa lại có những tiêu chuẩn khác nhau. Nhà quản lý đưa ra quy chuẩn, còn nhà sản xuất phải đi tiên phong trong việc hướng dẫn một cách tỉ mỉ, chi tiết, đầy đủ và chính xác cho người tiêu dùng, không chỉ lựa chọn sữa mà còn là cách bảo quản, sử dụng như thế nào cho tốt nhất... Tuy nhiên, khi nào các nhà sản xuất làm được điều này vẫn là câu hỏi đang bỏ ngỏ. Thông tin tương hiệu là một trong các yếu tố quan trọng giúp khách hàng ra quyết định mua hàng một cách chuẩn xác. Trong ngành sữa việt Nam hiện nay vẫn chưa tồn tại hệ thống định vị thương hiệu riêng cho sản phẩm sữa, các nhãn hiệu sữa ngoại tràn lan trên thị trường nhưng không rõ nguồn gốc và xuất xứ. nhãn hiệu thường được ghi giống với các thương hiệu nổi tiếng trong ngành sữa nhầm tạo ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng khi mua hàng. Cơ quan chức năng vẫn chưa xây dượng hệ thống các nhãn hiệu, thương hiệu có uy tín trong ngành một cách chi tiết và công khai cho người tiêu dùng biết đến. Ví dụ điển hình là vụ việc nhãn hiệu sữa ”nhái“ AC Food của công ty Á Châu năm 2008. Trên vỏ hộp các loại sữa này đều có ghi nguyên liệu nhập khẩu từ Australia và có nhiều điểm tương tự với sữa Golden Food (một công ty sữa của Australia). Tuy nhiên, giám định của Cục C36 cho thấy trong thành phần của sữa AC Food có tới 32,97% sữa bột Trung Quốc, sữa bột Australia chỉ chiếm 2,4%, số còn lại xuất xứ từ Hàn Quốc, Thái Lan… việc không kiểm soát được thông tin sản phẩm cũng như uy tín thương hiệu đã gây ra nhiều tổn thất to lớn cho người tiêu dùng và nền kinh tế. 4.1.4 Chính sách hậu mãi. Trong thời gian gần đây việc tiến hành các chương trình hậu mãi khi mua sữa đang được các doanh nghiệp chú tâm thực hiện. ta có thể xét đến một số các chương trình cụ thể như Công ty CP Sữa Việt Nam - Vinamilk, nhãn hàng sữa bột Dielac Alpha có chương trình khuyến mãi “Tiết kiệm thông minh” nhằm chia sẻ khó khăn với các bà mẹ nuôi con nhỏ.   17   Theo đó, các sản phẩm Dielac Alpha hộp giấy 400g có dán tem khuyến mãi dành cho trẻ từ một đến ba và bốn đến sáu tuổi sẽ được tăng thêm 15% trọng lượng (tương đương tăng thêm 60g sữa/hộp), với giá không đổi. Dự kiến sẽ có hai triệu hộp Dielac Alpha trọng lượng tăng thêm 15%, tương đương giá trị tiết kiệm cho người tiêu dùng lên đến hơn 20 tỷ đồng. Chương trình khuyến mãi “Mua sữa bột Morinaga nhận quà Nhật Bản cho bé” từ ngày 01/06/2011 đến 30/07/2011, khách hàng khi mua sản phẩm sữa bột Morinaga sản xuất tại Nhật Bản… Các chương trình như thế này thường được doanh nghiệp tố chức thực hiện nhưng thiếu sự giám sát của cơ quan chức năng về chất lượng sản phẩm, tính trung thực của các chương trình cũng như tính lành mạnh trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. 4.1.5 Dịch vụ tư vấn. Dịch vụ tư vấn cho quá trình mua hàng tại việt nam vẫn chưa thật sự được kiểm soát chặt chẽ bởi các cơ quan chức năng, chưa hình thành khung pháp lý điều tiết hoạt động tư vấn do đó các hoạt động này phụ thuộc chủ yếu vào đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề. Thứ nhất, tư vấn trước và khi mua hàng: chưa xây dựng đội ngũ tư vấn chuyên nghiệp giúp khách hàng xác định đúng loại sản phầm cần mua. Hoạt động tư vấn chủ yếu thông qua quảng cáo đại trà qua các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên sữa là thực phẩm dinh dưỡng nên nhu cầu giữa từng thể trạng khác nhau nên phương pháp đại trà như thế không đảm bảo lợi ích của người sử dụng. Theo AP,kết quả cuộc khảo sát năm 2009 các bà mẹ, bác sĩ, nhân viên y tế và nhân viên bán hàng đều cho kết quả: các công ty sữa bột đã trả tiền cho bác sĩ để quảng cáo sử dụng sản phẩm của họ, khuyến khích sử dụng sản phẩm này cho trẻ dưới 1 tuổi và gợi ý cho các bà mẹ cũng như nhân viên y tế tại các cơ sở chăm sóc y tế - tất cả đều phạm luật bảo vệ người tiêu dùng và vi phạm đạo đức nghề nghiệp của dịch vụ tư vấn. Thứ 2, tư vấn sau khi mua hàng: mỗi loại sản phẩm sữa có phương pháp sử dụng khác nhau, các quy trình này chưa được hỗ trợ cụ thể, việc ghi nhãn mác và cách sử dụng bằng tiếng nước ngoài gây cản trở to lớn đến đa phần người tiêu dùng về ngôn ngữ, có thể gấy hiểu nhầm hoặc sử dụng sai phương pháp và mục đích. Cho đến thời điển hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về dịch vụ tư vấn sử dụng sản phẩm. 4.1.6   Quảng cáo. 18   Những quảng cáo sữa hiện nay rất dễ gây hiểu lầm cho người tiêu dùng với những vi chất bổ không được ghi chú cụ thể về thành phần, công dụng cũng như xuất xứ. Mặt hàng sữa ngày càng phong phú, hiện có khoảng 300 nhãn mác khác nhau với các loại sữa bột, sữa nước… do đó việc quảng cáo gây nhầm lẫn hoặc cô tình che giấu thông tin thật đều tạo sự lựa chọn bất cân xứng trong quyết định mua hàng ảnh hưởng trược tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng. Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) cho biết kết quả khảo sát khác cho thấy ngành công nghiệp sữa đã chi hơn 10 triệu USD cho riêng quảng cáo trong năm 2009, trở thành một trong 5 ngành quảng cáo nhiều nhất ở Việt Nam. Theo Trung tâm Tư liệu Luật pháp Quốc tế (tổ chức phi lợi nhuận hoạt động trong nỗ lực loại trừ tình trạng tiếp thị vô trách nhiệm các sản phẩm thực phẩm trẻ em, có trụ sở tại Malaysia), quảng cáo sữa vô tội vạ là tình trạng chung phổ biến khắp khu vực, từ Trung Quốc, Indonesia, đến Philippines, Việt Nam. Trung tâm này cho rằng các nước đang phát triển gặp nhiều khó khăn trong việc "đấu tranh" với các công ty quốc tế luôn có một ngân sách khổng lồ dành cho quảng cáo, lực lượng bán hàng đông đảo và cả một đội ngũ cố vấn pháp luật hộ tống. Luật pháp Việt Nam cấm quảng cáo các sản phẩm sữa bột cho trẻ dưới 1 tuổi, cấm bán sữa bột dành cho trẻ sơ sinh bên trong các bệnh viện tuy nhiên thực tế các hoạt động này vẫn diễn ra hằng ngày tại các bệnh viện trên cả nước. Những lối đi bên ngoài bệnh viện dành cho bà mẹ và trẻ sơ sinh lớn nhất Hà Nội lại trưng đầy những nhãn hiệu sữa của Mỹ và châu Âu. Các nhà trẻ khắp Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thường được trang trí đầy những logo của các hãng sữa Mead Johnson và Abbott được quảng cáo là xuất xứ từ Mỹ, kèm theo bàn ghế, đồ chơi và những quà tặng khác. Những công ty này thường xuyên lên tiếng bảo đảm rằng trẻ sẽ thông minh hơn, khẻ mạnh hơn nếu chúng sử dụng các loại sữa bột với dãy dưỡng chất bổ sung của họ- một quảng cáo luôn bị các chuyên gia y tế độc lập phản đối. 4.1.7 Bồi thường, thu hồi khi sản phẩm có khuyết tật. Vụ nhiễm sữa melamine tại việt nam: Bộ Y tế vừa có văn bản số 1076/BC-BYT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về các hoạt động đã triển khai nhằm ngăn chặn tình trạng sữa nhiễm melamine cũng như đề xuất biện pháp xử lý. Hiện tổng số sữa nhiễm malemine và không có nguồn gốc khoảng 700 tấn. Các đoàn kiểm tra, thanh tra liên ngành ở địa phương và trung ương đã phát hiện một loạt các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh các sản phẩm sữa không rõ nguồn gốc. Tất cả đều bị cơ quan chức năng đình chỉ lưu hành để xem xét, xử lý theo quy định. Theo báo cáo của các đoàn thanh tra và các địa phương đã có 23 sản phẩm bị phát hiện có nhiễm melamine, một sản phẩm đã có quyết định thu hồi và tiêu hủy (nhãn sữa tươi Yili nhập từ Trung Quốc), số còn lại đang được niêm phong chở phương án xử lý của các cơ quan chức năng. Bộ Y tế đã yêu cầu tất cả các Cty sữa tại Việt Nam tăng cường tự kiểm tra chất lượng VSATTP tại các công đoạn trong quy trình sản xuất sữa và các sản phẩm có nguyên liệu là sữa; phân tích chất melamine và một số chỉ tiêu an toàn. Doanh nghiệp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm sữa của mình. Căn cứ vào ý kiến của các chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực, được sự tham vấn của của WHO, FAO, cũng như tham khảo đối sách xử lý tình huống sản phẩm có nhiễm melamine của các nước, Bộ Y tế có kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, đề nghị Thủ tướng chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương hướng dẫn các doanh nghiệp tiến hành thu hồi và tiêu hủy theo quy định.   19   Đồng thời, đề nghị Chính phủ hỗ trợ cho Ngành Y tế tăng cường năng lực hệ thống kiểm nghiệm VSATTP, hoạt động kiểm tra để đáp ứng được nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Chỉ đạo Bộ Thông tin và Truyền thông có các thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ đến người tiêu dùng, góp phần khẩn trương khôi phục sản xuất, kinh doanh mặt hàng sữa và các sản phẩm sữa ở thị trường Việt Nam. 4.2 Quy định của pháp luật. Giá sữa 1. Các văn bản pháp luật được ban hành của cơ quan quản lý Thông tư 104/2008/TT-BTC được Bộ Tài chính ban hành năm 2008 hướng dẫn việc bình ổn giá sữa: trong thời gian tối thiểu 15 ngày liên tục, giá bản lẻ sữa tăng vượt 20% trở lên so với giá thị trường trước khi có biến động. Có ba biện pháp bình ổn giá sữa được hướng dẫn cụ thể ở Nghị định 75/2008/NĐ-CP 1.1 Hiệp thương giá - Hồ sơ hiệp thương giá gồm có: văn bản chỉ đạo bắt buộc hiệp thương giá của cơ quan quản lý cùng với biên bản yêu cầu hợp thương giá của bên mua hoặc bên bán (hoặc cả hai bên). - Phương án giá hiệp thương: Đối với bên bán cần thiết phải giải trình những vấn đề: - Tình hình sản xuất - tiêu thụ, cung - cầu của hàng hoá, dịch vụ; - Phân tích mức giá đề nghị hiệp thương: • • • • Lập bảng tổng hợp cơ cấu tính giá theo các yếu tố hình thành giá, phân tích thuyết minh cơ cấu tính giá (có phân tích, so sánh với cơ cấu hình thành giá trước khi được yêu cầu hoặc đề nghị hiệp thương giá). Phân tích tác động của mức giá mới đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh đến hoạt động tài chính, đời sống người lao động trong doanh nghiệp và nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Những vấn đề mà bên bán chưa thống nhất được với bên mua, lập luận của bên bán về những vấn đề chưa thống nhất. Các kiến nghị (nếu có). Đối với bên mua cần thiết phải giải trình những vấn đề: • • • • Lập bảng tổng hợp cơ cấu tính giá theo các yếu tố hình thành giá của hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất ra tính theo giá đầu vào mới mà bên bán dự kiến bán. Thuyết minh cơ cấu tính giá (có phân tích, so sánh với mức giá đầu vào trước khi được yêu cầu hoặc đề nghị hiệp thương giá). Phân tích tác động của mức giá mới đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh, đến hoạt động tài chính, đời sống của người lao động trong doanh nghiệp, giá bán của sản phẩm, khả năng chấp nhận của người tiêu dùng, so sánh với giá hàng hóa, dịch vụ cùng loại trên thị trường và nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. Những vấn đề mà bên mua chưa thống nhất với bên bán, lập luận của bên mua về những vấn đề chưa thống nhất đó. Các kiến nghị khác (nếu có). Khi có chỉ đạo hiệp thương giá bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền thì cả hai bên mua và bán đều phải lập hồ sơ hiệp thương giá theo hướng dẫn trên.   20  
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan