Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bài báo cáo-cán cân thương mại việt nam,thực trạng và giải pháp...

Tài liệu Bài báo cáo-cán cân thương mại việt nam,thực trạng và giải pháp

.PDF
27
317
102

Mô tả:

LỜI GIỚI THIỆU Trong mấy năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như xuất phát từ nội tại của nền kinh tế: tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định, lạm phát tăng cao (năm 2008) và đặc biệt hơn nữa đó là tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai bắt nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và hiện trạng môi trường đầu tư của Việt Nam chưa được cải thiện như mong đợi, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam chưa tăng trưởng vững chắc. Hiện trạng này chắc chắn sẽ gây sức ép không nhỏ đến cán cân thanh toán quốc tế về khả năng chống đỡ các cú sốc bên ngoài và tính bền vững của nền kinh tế khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam có xu hướng thu hẹp. Từ thực trạng trên, Đề tài này với mong muốn làm rõ đâu là nguyên nhân sâu xa tác động đến trạng thái của cán cân vãng lai và sức chịu đựng thâm hụt của nó đối với cán cân thanh toán quốc tế để từ đó đưa ra giải pháp cải thiện. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn đề tài vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định,rất mong được sự đóng góp của các bạn sinh viên và các độc giả để hoàn thiện hơn Thiều Ngọc Anh Tài chính nhà nước 03k35- đại học Kinh Tế TP HCM 1 I.Lý Thuyết 1.Khái niệm Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế, ghi chép những giao dịch kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có. Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụgiữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ. Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ. 2.Nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại 2 2.1)Xuất khẩu và nhập khẩu   Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng. Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định. 2.2)Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. c)Ảnh hưởng của dòng vốn: Cán cân thương mại là một trong những yếu tố của tài sản quốc gia. Cán cân thương mại phụ thuộc vào chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài như FDI, ODA, FPI, kiều hối và các dòng vốn vay thương mại khác. 2.3)Ảnh hưởng của thu nhập: Khi thu nhập trong nước tăng, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa cũng đồng thời tăng theo. Trong khi đó, khi kinh tế nước ngoài tăng trưởng, họ cũng tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ nước khác và làm cho xuất khẩu của đối tác thương mại tăng lên. Do vậy cán cân thương mại phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế. 2.4)Các chính sách thương mại và phát triển kinh tế: Các chính sách thuế, bảo hộ hàng hóa trong nước cũng ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại. Những rào cản này hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng để cải thiện cán cân thương mại. Các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu khác cũng 3 sẽ ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại. Ngoài ra, cán cân thương mại còn phụ thuộc vào cơ cấu của nền kinh tế và chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia. 2.5)Tỷ lệ trao đổi Tỷ lệ trao đổi biểu hiện giá mà một nước có thể chấp nhận trả cho hàng hoa nhập khẩu với giá xuất khẩu của nước đó.Nói cách khác là tỷ số giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu.Do đó tỷ lệ trao đổi có ảnh hưởng đến cán cân thương mại. 2.6)Phá giá tiền tệ Phá giá(hay nâng giá) là giảm bớt (hay tăng) tỷ giá hối đoái mà được chính phủ ủng hộ.Phá giá đưa đến tăng giá hàng nhập khẩu và giảm giá hàng xuất khẩu của quốc gia.Do đó tạo ra một khoản thặng dư trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán. II.Thực tiễn tại Việt Nam 1)Phân tích SWOT 1.1)Điểm mạnh -Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về xã hội, có sức hấp dẫn đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân việc Việt Nam tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới - Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, số nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam cũng như nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam bước đầu được mở rộng. - Từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 và khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam. Cũng vì thế mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng. -Việt nam là nơi có nguồn nhân công,mặng bằng rẻ,tài nguyên thiên nhiên phong phú,điều kiện tự nhiên thuận lợi,có thế mạnh về mặt hàng nông sản như café,tiêu, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, dầu thô, than đá, hàng điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ, xe đạp và phụ tùng… 1.2)Điểm yếu -Ở nước ta hiện nay “công nghiệp phụ trợ” còn hết sức đơn giản,hầu như chưa có gì nhiều, quy mô SX nhỏ lẻ,chủ yếu sản xuất các linh kiện chi tiết giản đơn,giá trị gia tăng thấp và còn có sự chênh lệch về năng lực phụ trợ giữa các DN vừa và nhỏ nội địa của Việt Nam với các yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu. - Cơ cấu kinh tế nhìn chung còn yếu kém so với các nước. Thông thường, khi chọn ngành trọng điểm, phải xem xét đến hai yếu tố là chỉ số lan tỏa nội địa và chỉ số kích thích nhập khẩu. Nhưng ở nước ta, một số ngành như công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng vốn đầu tư khá lớn nhưng chỉ số lan tỏa nội địa thấp, trong khi chỉ số kích thích nhập khẩu lại cao bất thường. - Trong thực tế, chính sách bảo hộ của Việt Nam còn nhiều cảm tính. Những ngành có thể cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu hiệu - bảo hộ sản xuất ngày càng giảm, thậm chí có những nhóm còn có tỷ lệ âm. Ngược lại, với những ngành không thể cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu hiệu cho sản xuất lại ngày càng tăng 4 - Việc áp dụng các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại và nâng cao các dịch vụ hỗ trợ thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất khẩu nhưng cũng đồng thời thúc đẩy cả hoạt động nhập khẩu. -Quy mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt mức 473 USD/người là thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. -Xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi sự biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài. - Tỷ lệ nhập khẩu là cấu phần trong xuất khẩu còn rất cao, chiếm khoảng 2/3 giá xuất xưởng. -Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện trên cả 3 phương diện: chủng loại hàng hoá xuất khẩu còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim ngạch đáng kể; các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, xuất khẩu chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, trong khi các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính... chủ yếu vẫn còn mang tính chất gia công; quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để. -Về thực chất, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn - Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc. -Công tác của mạng lưới đại diện, đặc biệt về thương mại ở nước ngoài còn nhiều yếu kém, chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương mại nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa cao. -Việt Nam lại là việc lệ thuộc quá nhiều vào việc xuất khẩu vào Mỹ. Trong năm 2009, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với giá trị tương đương 20% tổng kim ngạch xuất khẩu. - Thị trường xuất khẩu tăng trưởng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EU, Hoa Kỳ tăng trưởng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung Quốc, Nhật Bản và Australia.. 1.3)Cơ hội -Theo cam kết từ 1/1/2010, các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam vào Trung Quốc và các nước ASEAN 6 sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu từ 0-5%. Việt Nam được thực hiện cam kết muộn hơn 5 năm bắt đầu từ năm 2015. Bởi vậy đây là cơ hội rất lớn cho hàng hóa Việt Nam tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời gian 5 năm tới. -Sự biến động không ngừng của nền kinh tế toàn cầu cũng là cơ hội nâng cao các khả năng cạnh tranh và tính thích nghi của các doanh nghiệp ViệtNam. Các vấn đề quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro, tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như đầu tư vào công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, năng suất lao động, đào tạo kỹ năng cho lao động cần được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc mới có hiệu quả. 5 -Kinh tế của các nước thành viên EU vẫn đang khó khan trong giai đoạn này nhưng nhu cầu nhập khẩu và tiêu thụ mặt hàng giày dép tại EU vẫn đứng ở mức cao tạo cơ hội gia tăng xuất,khẩu cho doanh nghiệp VN -Từ năm 2010, khi Hiệp định Đối tác kinh tế Việt - Nhật (VJEPA) được triển khai đồng bộ, sẽ có trên 800 dòng sản phẩm nông sản và thủy sản Việt Nam vào Nhật với thuế suất 0%. Điều này đang mở ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp chế biến nông, thủy sản. việc giảm thuế mạnh mẽ các mặt hàng nông sản xuất khẩu vào Nhật đã mở ra cho các doanh nghiệp cơ hội tăng năng lực cạnh tranh. Cụ thể, theo các cam kết của VJEPA, Nhật Bản đã cam kết giảm thuế đối với các mặt hàng tương đương với gần 84% giá trị nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, ngay khi VJEPA có hiệu lực, trong số 2.020 dòng thuế nông sản, Nhật Bản đã xóa bỏ ngay đối với 784 dòng, chiếm 36% tổng số dòng thuế nông sản và chiếm 67,6% giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam. -Việc ra nhập các tổ chức kinh tế lớn,các hiệp định tự do thương mại…với bạn bè trên thế giới đã tạo điều kiện tiếp thu kĩ thuật,khoa hoc công nghệ..tư đó tạo lợi thế cho xuất khẩu.. 1.4)Thách thức -Thường xuyên phải đối đầu với rào cản thương mại của các nước cũng là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp VN trong xu thế hội nhập vì tính cạnh tranh còn thấp. Chính vì vậy, nguy cơ Việt Nam phải đối mặt với hàng trăm vụ kiện mỗi năm, tranh chấp thương mại và con số các vụ kiện sẽ ngày càng tăng - Áp dụng thuế nhập khẩu thấp hơn đối với thương mại hàng hoá theo FTA trong nội khối ASEAN (AFTA), FTA giữa ASEAN với Trung Quốc (ACFTA), và việc gia nhập WTO trong 2007, làm cho hàng nhập khẩu trở nên rẻ đi tương đối so với các sản phẩm trong nước và phù hợp hơn với túi tiền của dân chúng nên đã tạo ra tỷ lệ tiêu dùng hàng nhập khẩu cao hơn. -Tỷ giá hối đoái giữ ở mức thấp ở một số nước đặt biệt là Trung Quốc (VN nhập khẩu tới 90%) gây khó khăn trong việc điều chỉnh cán cân thương mại của VN. - Hàng hoá xuất khẩu chưa đa dạng, tập trung vào một số ngành hàng như dầu thô,dệt may, thuỷ sản, nông sản và giày dép. Do vậy, Việt Nam dễ chịu ảnh hưởng tiêu cực khi có sự biến động lớn về giá hàng hoá cũng như biến động trong nhu cầu ở thị trường nước ngoài - Sự biến động trong giá hàng hoá thế giới dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hoá, nên nhiều hàng hoá được nhập khẩu để tích trữ trước khi giá tăng. -Khả năng cạnh tranh của hàng XK Việt Nam còn thấp do nhiều mặt hàng gia công, XK phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, tiến độ thực hiện các dự án sản xuất nguyên liệu, phụ liệu, phát triển công nghiệp phụ trợ còn chậm. Tình trạng thiếu hụt lao động, nhất là lao động có tay nghề cao, có xu hướng gia tăng. Ngoài ra, chi phí nhân công có xu hướng tăng nhanh cũng khiến hàng hóa sản xuất tại Việt Nam mất dần lợi thế giá nhân công rẻ; năng lượng cho sản xuất như than, điện, chưa phát triển kịp đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành kinh tế khác... - Việt Nam vẫn phải mất nhiều năm để trở thành một nền kinh tế xuất khẩu trong điều kiện phải cạnh tranh khốc liệt với người hàng xóm Trung Quốc.Để làm được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu hướng tới những thị trường khó tính với những sản phẩm đặc thù thay vì cạnh tranh về giá cũng như nhân công lao động với đối thủ lớn Trung 6 Quốc -Nhiều nhóm hàng đã chạm ngưỡng, khó tăng tiếp. Bên cạnh đó, xuất khẩu Việt Nam cũng phải sẽ đối mặt thêm với nhiều rào cản thương mại mới... quá trình phục hồi của kinh tế thế giới chứa đựng nhiều rủi ro, khó lường. Những vấn đề hậu khủng hoảng như bảo hộ mậu dịch, biến động giá cả, lạm phát, khan hiếm nguyên liệu, năng lượng... có thể xảy ra, sẽ tác động xấu đến phát triển kinh tế các nước, nhất là các nước đang phát triển như nước ta. - Hoạt động của hệ thống tài chính của Việt Nam còn nhiều rủi ro, lạm phát có nguy cơ tăng lên cũng như đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Sức cạnh tranh của cả nền kinh tế và của các doanh nghiệp còn ở mức thấp. Bên cạnh đó, tình hình thiên tai, dịch bệnh có thể còn diễn biến phức tạp... nhiều cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO đến thời hạn thực thi, nhất là cam kết về mở cửa lĩnh vực dịch vụ, tài chính, bán lẻ, tạo ra thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam.. -Chiến lược hướng mạnh ra xuất khẩu một cách quá mức có thể đưa tới những khó khăn nghiêm trọng một khi thị trường ngoài nước chao đảo, do đó có thể sẽ diễn ra xu thế cơ cấu lại thị trường theo hướng cân bằng hơn giữa thị trường trong nước và ngoài nước, nhất là ở các nền kinh tế có dung lượng thị trường nội địa lớn. 2)Cán cân thương mại ở Việt Nam hiện nay-Thực trạng và phân tích 2.1)Nhìn lại năm 2010 Hoạt động xuất khẩu năm 2010 với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 71,63 tỷ USD, tăng 25,5% so với mức thực hiện năm 2009, đồng thời là mức tăng trưởng cao, vượt xa chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu 32,8 tỷ USD giá trị hàng hóa (không kể dầu thô), còn DN có vốn nước ngoài đạt kim ngạch 33,8 tỷ USD. Cơ cấu ngành hàng xuất khẩu đã có sự chuyển dịch từng bước, theo hướng tích cực trong bối cảnh giá cả trong khu vực và trên thị trường quốc tế tăng nhanh. Phần lớn các loại hàng xuất khẩu chủ lực của ta đều có mức tăng trưởng cao, như gạo, dệt may, da giày, đồ gỗ, máy tính… Một số mặt hàng xuất khẩu tiêu biểu 2010 Dệt may 11209676 Tỷ lệ phần trăm trong xuất khẩu(%) 15.5 Thủy sản 5016297 6.9 Dày da 5122259 7 Gạo 3247860 4.5 Cà phê 1851358 2.5 Tên hàng Trị giá(đv 1000 đ) Nguồn:tổng cục thống kê 7 2010 Việt Nam có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD cho thấy, năng lực cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu đã được nâng lên rõ rệt. Hàng dệt may đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu (đạt 11 tỷ USD, tăng 21,3% so với năm trước và chiếm 15,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước), vượt 8% so với mục tiêu xuất khẩu đặt ra từ đầu năm. Về đích thứ hai là mặt hàng da giầy, thuỷ sản. Tuy bị áp thuế bán phá giá ở một số thị trường, đặc biệt là thuỷ sản còn chịu sự kiểm tra khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm, song do chúng ta chủ động đầu tư chiều sâu, tạo mặt hàng mới và mở rộng thị trường nên kim ngạch xuất khẩu của hai mặt hàng trên đều đạt trên 4,9 tỷ USD, lần lượt vượt 13,4% và 8,1% mục tiêu xuất khẩu đặt ra từ đầu năm. Tiếp theo, mặt hàng gạo đạt kim ngạch hơn 3 tỷ USD và vượt 8,6% so với mục tiêu đầu năm. Đặc biệt, so với năm 2009, chúng ta có thêm 5 mặt hàng mới có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD gồm hạt điều, xăng dầu các loại, sản phẩm chất dẻo, dây điện cáp điện và phương tiện vận tải, đưa tổng số mặt hàng có kim ngạch 1 tỷ USD trở lên là 18 mặt hàng. Bên cạnh các mặt hàng truyền thống là thế mạnh của Việt Nam nói trên, nhiều mặt hàng xuất khẩu mới như máy móc thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, hóa chất, sản phẩm hóa chất, sản phẩm cao su, sản phẩm thủy tinh... kim ngạch xuất khẩu đã tăng mạnh, điều này khẳng định chủ trương phát triển mặt hàng xuất khẩu mới từng bước phát huy hiệu quả trong năm qua, đồng thời cho thấy năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của nền kinh tế ngày càng được mở rộng. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tiếp tục xếp thứ hạng cao so với các nước xuất khẩu trên thế giới, có khả năng ảnh hưởng đến thị trường thế giới như gạo và cà phê (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu), cao su, hạt tiêu, hạt điều. Giá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng do giá thị trường thế giới tăng mạnh, đồng thời nhờ hàm lượng chế biến trong sản phẩm xuất khẩu được nâng lên. Thị trường xuất khẩu được mở rộng và toàn bộ các thị trường xuất khẩu đều vượt mục tiêu tăng trưởng. Cụ thể, xuất khẩu sang Ấn Độ tăng 133%, Đài Loan tăng 28%, Hồng Kông tăng 46%, Hàn Quốc tăng 38%, Trung Quốc tăng 45%. Trong số 11 mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu chủ yếu, chiếm hơn 83% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng, thì kim ngạch của 5 mặt hàng tăng khá cao là sữa và sản phẩm từ sữa tăng 59,5%; rau và một số loại củ, quả tăng 44,9%; dầu mỡ động thực vật tăng 29,6%; đường và các loại kẹo đường tăng 105,8%; máy móc thiết bị điện sử dụng trong gia đình tăng 23,9%. Có thể thấy nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng là do nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng cần thiết (không phải hàng xa xỉ, cao cấp) tăng mạnh, như đường, sữa, dầu ăn. Những mặt hàng này trong nước đã sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và cả về chất lượng. Nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, cao cấp đã có xu hướng giảm hoặc chỉ tăng nhẹ so với năm 2009, như nhập khẩu quả giảm 13,4%, đồ uống, rượu giảm 34,7%, ô tô nguyên chiếc dưới 10 chỗ giảm 7,4%; điện thoại di động tăng nhẹ 2,8% và nước hoa và mỹ phẩm tăng 14,8%.... Nhập khẩu nhiều mặt hàng nguyên nhiên vật liệu tăng mạnh về lượng trong thời gian gần đây cho thấy sản xuất, xuất khẩu đang trên đà tăng trưởng. Tuy nhiên, giá nhập khẩu nhiều mặt hàng tăng mạnh ảnh hưởng không nhỏ đến đầu vào của sản xuất kinh doanh, 8 trong khi đó giá hàng hóa xuất khẩu lại tăng không bằng giá nhập khẩu, gây nhiều khó khăn cho DN sản xuất xuất khẩu. Nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu (hàng tiêu dùng, ô tô từ 9 chỗ trở xuống, xe máy) tăng 13%, thấp hơn so với mức tăng trưởng chung 18,4%. 2.2)Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: a. Nhóm hàng khoáng sản, nhiên liệu: Thường năm chỉ riêng hai mặt hàng dầu thô và than đá đã chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Sản lượng xuất khẩu dầu thô và than đá tăng trưởng không ổn định. Khối lượng xuất khẩu dầu thô chỉ tăng nhẹ trong những năm đầu của giai đoạn 2001-2007 rồi giảm dần về sau này. Sở dĩ có sự sụt giảm này là do các mỏ dầu cũ dần cạn kiệt trong khi công tác thăm dò và mua lại mỏ dầu mới của các nước khác không đạt nhiều tiến triển. Để tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường, trong những năm tới kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này sẽ giảm dần. Trong đề án xuất khẩu 2006-2010, Bộ thương mại đã điều chỉnh mục tiêu xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu xuống còn 9,6% vào năm 2010, trong đó giá trị xuất khẩu dầu thô còn 6,1 tỷ USD và than đá còn 325 triệu USD. b. Nhóm hàng nông lâm thủy sản Đây là những mặt hàng chịu nhiều tác động của thị trường thế giới. Trong những năm 2001-2003, do ảnh hưởng của kinh tế thế giới suy giảm, nhu cầu về nông sản, thủy sản giảm làm giảm giá hàng loạt mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu tăng rất chậm trong giai đoạn này. Những năm còn lại do tình hình kinh tế thế giới phục hồi và chi phí sản xuất gia tăng; giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã tăng nhanh. Trong năm 2007, khối lượng xuất khẩu các mặt hàng nông sản có phần giảm hoặc tăng không nhiều. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu lại tăng rất cao so với năm 2006. Nguyên nhân là giá nông sản thế giới đang trên đà lên giá. Đầu năm 2008, thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng lương thực khi giá hầu hết các nông sản chính như: bắp, lúa mì, gạo đều tăng gấp 2-3 lần trong vòng chưa đầy hai năm. *Tóm lại, do đã có quá trình phát triển lâu dài, đã khai thác phần lớn tiềm năng nên hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam những năm qua có xu hướng tăng trưởng chậm lại về khối lượng, nhưng vẫn gia tăng nhanh về giá trị do giá cả thế giới có xu hướng tăng lên. Việc gia nhập WTO đã đặt ngành xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trước những thời cơ và thách thức mới. Để các mặt hàng này thực sự trở thành thế mạnh của xuất khẩu Việt Nam, về lâu dài cần phát triển theo hướng: nâng cao dần chất lượng sản phẩm, gia tăng hàm lượng chế biến, đẩy mạnh hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu, phát triển hạ tầng pháp lý. c. Nhóm hàng chế biến: Đây là nhóm hàng gồm nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: dệt may, giày dép, sản phẩm cơ khí, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, điện tử, thủ công mỹ nghệ… Có thể phân chia các mặt hàng này thành hai nhóm + Hàng chế biến chính: thủ công mỹ nghệ, dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, hóa phẩm tiêu dùng, sản phẩm cơ khí – điện, vật liệu xây dựng, sản phẩm gỗ. + Hàng chế biến cao: điện tử và linh kiện máy tính, phần mềm. (1) Dệt may, da giày: 9 Tình hình xuất khẩu dệt may, da giày của Việt Nam luôn ổn định. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dệt may là 23%, da giày là 15,3%. Hai ngành này có chung đặc điểm là sử dụng nhiều lao động, phù hợp với lợi thế lao động giá rẻ ở Việt Nam. Những hạn chế của các ngành này là phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu của nước ngoài (60%-70%), hao phí điện năng lớn. (2) Sản phẩm gỗ Các sản phẩm gỗ gia tăng giá trị xuất khẩu một cách đều đặn, Năm 2004 có tốc độ tăng trưởng kỉ lục 81%, qua đó đưa gỗ vào nhóm hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Gia nhập WTO mở ra những thuận lợi và cả khó khăn cho ngành chế biến gỗ xuất khẩu. (3) Máy tính và linh kiện điện tử: Ngành xuất khẩu hàng điện tử và linh kiện máy tính đang ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Nếu như không tính năm 2002 xuất khẩu mặt hàng này giảm đi do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của mặt hàng này gđạt 29,4%, cao nhất trong số các mặt hàng chủ lực *Tóm lại, vấn đề nan giải đối với các sản phẩm chế biến: dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa… là nguồn nguyên, phụ liệu phần lớn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Do vậy, giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu chưa cao, các doanh nghiệp chưa thực sự chủ động trong việc kí kết các hợp đồng. Nhiều sản phẩm chế biến còn mang tính chất gia công Cùng với quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, trong hơn một thập niên qua, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có mức tăng trưởng rất cao (trung bình trên 20% mỗi năm), trừ năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Theo đó, tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng từ 30% năm 1996 lên tới 68,5% năm 2010, trong khi tỷ lệ nhập khẩu/GDP còn tăng mạnh hơn, từ 45,6% lên đến 80% trong cùng thời kỳ, khiến tổng giá trị thương mại/GDP đã đạt 150% - thể hiện độ mở khá lớn của nền kinh tế. Có thể nói, chiến lược hướng về xuất khẩu bắt đầu từ giữa thập kỷ 1990 đã có những đóng góp đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong nhiều năm. Tuy nhiên, do tốc độ tăng nhập khẩu nhanh hơn nhiều so với xuất khẩu, cán cân thương mại ngày càng thâm hụt, và đặc biệt trở nên nghiêm trọng kể từ năm 2007 - khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức của WTO. Trung bình giai đoạn 2001-2010, nhập siêu chiếm đến 12% GDP, và tăng lên gần 17% giai đoạn 2007-2010. Nhập siêu tăng cao và dai dẳng trong thời gian dài mà không có bất kỳ dấu hiệu cải thiện nào khiến thị trường ngoại hối luôn trong trạng thái căng thẳng, tiền đồng luôn đối diện sức ép giảm giá, cán cân thanh toán không ổn định, tình trạng đô la hóa gia tăng,…. Điều này, cùng với một số diễn biến vĩ mô bất lợi khác, đã kích hoạt cho những bất ổn kinh tế vĩ mô kéo dài trong một vài năm gần đây. 10 Hình 1: Tỷ trọng thương mại quốc tế trên GDP Nguồn: GSO và tính toán của TVSC 2.3)Điều hành tỷ giá, tỷ giá thực và nhập siêu Bên cạnh nguyên nhân cốt lõi liên quan đến mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào đầu tư, đặc biệt là đầu tư công hiệu quả chưa cao, khiến chênh lệch tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm trong nước ngày càng nới lỏng, thì điều hành tỷ giá, tác động đến tỷ giá thực - năng lực cạnh tranh về giá của hàng hóa trong nước, vẫn được xem là một nguyên nhân khiến thâm hụt cán cân thương mại quốc tế gia tăng. Cách thức điều hành tỷ giá trước năm 2010 của Việt Nam - giữ nguyên tỷ giá liên ngân hàng một thời gian dài và đột ngột điều chỉnh với mức độ không lớn - đã khiến tiền đồng luôn bị định giá cao. 11 Hình 2: Tỷ giá danh nghĩa, tỷ giá thực và nhập siêu Nguồn: SBV, GSO và tính toán của TVSC Hình 2 (tính tỷ giá thực so với thời điểm đầu năm 2000) cho thấy, trước năm 2004, tỷ giá tương đối ổn định, lạm phát trong nước thấp, tỷ giá thực tăng và bám sát tỷ giá danh nghĩa. Tuy nhiên, từ năm 2007, khi lạm phát gia tăng, việc điều chỉnh tỷ giá ít linh hoạt đã khiến tỷ giá thực bắt đầu rời xa dần tỷ giá chính thức, và tiền đồng đã bị định giá thực cao. Một số quan điểm cho rằng, việc điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa chưa đủ tầm, khiến tỷ giá thực giảm, làm hàng hóa Việt Nam giảm sút tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, và tác động tiêu cực đến thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, sau giai đoạn giảm mạnh trong năm 2007, tỷ giá thực hầu như rất ít biến động kể từ đầu năm 2008, nhưng nhập siêu lại biến động rất mạnh trong cùng thời kỳ. Điều này dẫn đến những nghi ngờ rằng ở Việt Nam, liệu việc thay đổi mạnh tỷ giá danh nghĩa (như lần điều chỉnh ngày 11/2 vừa qua), làm tăng tỷ giá thực, có cải thiện được cán cân thương mại hay không? 2.4)Định lượng tác động của điều chỉnh tỷ giá đến xuất nhập khẩu và cán cân thương mại Kết quả đầu tiên của các mô hình là ước lượng phần trăm thay đổi gộp của giá trị xuất khẩu và nhập khẩu theo 1% thay đổi của tỷ giá (hệ số co giãn) ở các tháng sau khi tỷ giá được điều chỉnh tăng (Hình 3) Theo lý thuyết, khi phá giá đồng nội tệ, giá hàng nhập khẩu sẽ giảm tính cạnh tranh dẫn đến “ảnh hưởng sản lượng” (volume effect) – số lượng hàng nhập khẩu sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, phá giá còn dẫn đến “ảnh hưởng giá hàng nhập khẩu” (import value effect) giá mỗi đơn vị hàng nhập khẩu sẽ gia tăng. 12 Hình 3 cho thấy khi tỷ giá bị điều chỉnh tăng 1%, nhập khẩu trong tháng đầu tiên giảm không đáng kể (-0,04%), và quá trình giảm sẽ kết thúc trong vòng 8 tháng – khoảng thời gian “ảnh hưởng sản lượng” chiếm ưu thế so với “ảnh hưởng giá hàng nhập khẩu”. Tuy nhiên, từ tháng thứ 9, nhập khẩu bắt đầu tăng do tác động của tỷ giá, và tính gộp sau 1 năm, giá trị nhập khẩu được ước lượng tăng 0.06%. Hình 3: Tác động gộp của điều chỉnh 1% tỷ giá đến xuất nhập khẩu Nguồn: Kết quả các mô hình của TVSC Kim ngạch nhập khẩu không giảm sau khi điều chỉnh tỷ giá được giải thích bởi đặc điểm cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam. Phần lớn hàng nhập khẩu là máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu, chiếm đến khoảng 85-90% giá trị nhập hàng năm trong suốt giai đoạn 1995-2010, để phục vụ cho quá trinh sản xuất trong nước. Nếu ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế thì cơ cấu này có thể được cho là hợp lý, nhưng việc cơ cấu này không thay đổi và duy trì quá lâu lại bộc lộ yếu điểm quan trọng là Việt Nam không phát triển được các ngành công nghiệp phụ trợ. Vì vậy, nền kinh tế vẫn bị lệ thuộc quá nhiều vào nhóm hàng đầu vào nhập khẩu, dễ tổn thương trước những cú sốc bên ngoài, và khiến nhập khẩu khó giảm. Giá trị xuất khẩu, theo mô hình, cũng sẽ không được cải thiện sau khi điều chỉnh tăng tỷ giá. Theo lý thuyết, tỷ giá tăng có thể khiến giá hàng hóa Việt Nam cạnh tranh hơn và vì thế tăng được xuất khẩu. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng ở 3 tháng đầu tiên, tác động tiêu cực của điều chỉnh tỷ giá bắt đầu thể hiện từ tháng thứ 4 và các tháng tiếp theo. Sau 1 năm điều chỉnh tăng tỷ giá 1%, giá trị xuất khẩu được ước lượng sẽ giảm 0,15%, do đó, điều chỉnh tang tỷ giá chưa chắc đã cải thiện cán cân thương mại.Xuất khẩu không tăng như kỳ vọng được giải thích bởi phần lớn hàng hóa xuất khẩu chính của Việt Nam đều sử dụng tỷ trọng các yếu tố đầu vào nhập khẩu lớn (ví dụ các ngành lương thực – nhập khẩu phân bón, thuốc trừ sâu; dệt may – nhập khẩu bông vải sợi, ngành điện tử nhập khẩu máy móc và linh kiện, ….). 13 Sau khi “ảnh hưởng giá hàng nhập khẩu” lấn át, chi phí đầu vào của các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sẽ gia tăng, giá đầu ra tăng theo và trung hòa lại tác động của giá hàng hóa nội địa cạnh tranh hơn lúc ban đầu. Hình 4 cho thấy tác động gộp của cú sốc dương tỷ giá đến cán cân thương mại chỉ tích cực trong 8 tháng, nhưng tính chung cho cả 1 năm, cán cân thương mại không được cải thiện, thậm chí theo chiều hướng tăng nhập siêu. Cán cân thương mại gần như quay trở lại trạng thái ban đầu sau 14 tháng điều chỉnh tỷ giá. Với những phản ứng của giá trị xuất khẩu và nhập khẩu do điều chỉnh tỷ giá như phân tích ở trên, diễn biến này của cán cân thương mại là hoàn toàn có thể hiểu được. Hình 4: Tác động gộp của cú sốc dương tỷ giá đến cán cân thương mại Nguồn: Kết quả các mô hình của TVSC 14 Hình 5:Cán cân thương mại của Việt Nam theo các khu vực kinh tế Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009 Từ sau giai đoạn mở cửa kinh tế, thương mại của Việt Nam tăng lên rất nhanh. Tính trung bình từ năm 1990 đến 2009, xuất khẩu của Việt Nam tăng trung bình hàng năm 18.7%/năm, trong khi đó nhập khẩu tăng trung bình 20.1%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ mức chỉ bằng 76% GDP vào năm 1990 tăng lên 162% GDP vào năm 2008. Thâm hụt thương mại theo đó cũng ngày càng lớn, từ mức 0.6 tỷ USD năm 1990, và lên đỉnh điểm vào năm 2008 là 17.51 tỷ USD. Sự tăng mạnh của kim ngạch xuất nhập khẩu làm cho nền kinh tế Việt Nam có độ mở ngày càng cao. Tuy nhiên, tiềm ẩn sau đó là những rủi ro. Tổng thâm hụt thương mại của Việt Nam từ năm 1990 đến 2009 đã lên tới 84 tỷ USD, tương đương với GDP của năm 2007. Thâm hụt thương mại/GDP liên tục tăng cao trong những năm gần đây và lên tới hơn 20% GDP vào năm 2008. Đây là mức cao vượt xa trung bình của các nước trên thế giới. Về cơ cấu nhập khẩu, phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng chỉ chiếm chưa đến 10%. Từ năm 2000 đến nay, nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng chỉ chiếm 6-8%, nguyên nhiên vật liệu chiếm 60-67%, còn lại là máy móc thiết bị. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế giá trị gia tăng thấp chiếm một tỷ lệ khá lớn. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản (dầu thô và khoáng sản khác) từ năm 2000 đến nay vẫn luôn chiếm từ 30 – 40%. Những mặt hàng liên quan đến nông nghiệp sơ chế như nông lâm thủy hải sản chiếm trên 15-17%. Những 15 mặt hàng chế biến chiếm tỷ trọng 43-50%, trong đó một tỷ trọng khá lớn là gia công may mặc, giầy da. Hơn 70% nguyên liệu gia công xuất khẩu là từ nhập khẩu và giá trị gia tăng từ mặt hàng này tương đối thấp. Những mặt hàng có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao chiếm một tỷ lệ khá thấp trong mặt hàng xuất khẩu. Trong một số năm gần đây tỷ trọng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm hơn 90% tổng nhập siêu của Việt Nam. Tuy vậy, đây mới chỉ là con số chính thức. Nếu thống kê cả hàng hóa nhập lậu qua biên giới và bằng con đường tiểu ngạch thì con số này có thể còn cao hơn. Điều đáng quan ngại là tốc độ gia tăng nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng nhanh, trong khi xuất khẩu sang nước này hầu như không thay đổi. Hình 6 2.5)Quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại Về mặt lý thuyết như đã trình bày ở trên, giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại có quan hệ đồng biến với nhau. Biểu đồ sau thể hiện khá rõ mối quan hệ này. Với số liệu theo năm, chúng ta thấy giữa tỷ lệ X/M có một mối quan hệ khá rõ ràng, trừ giai đoạn từ 2002 đến 2004 thì mối quan hệ này đã bị suy yếu. Trường hợp khác, xét dữ liệu theo quý từ năm 1999 đến 2009 thì chúng ta thấy mối quan hệ này có ý nghĩa hơn khi đường xu thế có giá trị R2=0.52. Như vậy, biểu đồ khá trực quan này cho thấy giữa tỷ giá hối đoái thực và cán cân thương mại có một mối quan hệ đồng biến. 16 Biểu đồ 7:quan hệ giữa tỷ giá thực và tỉ lệ xuất khẩu/nhập khẩu Các kết quả hồi quy bằng mô hình kinh tế lượng cũng cho thấy có mối quan hệ giữa tỷ giá thực và cán cân thương mại. Điều này cho thấy việc phá giá đồng tiền đóng góp vào việc giảm nhập siêu. Thâm hụt thương mại cao gây nên rất nhiều rủi ro cho nền kinh tế và gây sức ép mạnh lên tỷ giá. Do vậy, chính sách điều hành tỷ giá không những có vài trò trong vấn đề ổn định thị trường tiền tệ mà còn đóng vai trò trong việc kiềm chế nhập siêu. Không ít ý kiến cho rằng cần phải phá giá đồng nội tệ để giải quyết vấn đề nhập siêu của Việt Nam. Tuy nhiên, phân tích trên đã chỉ ra rằng dù tỷ giá và nhập siêu có mối quan hệ với nhau, nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác. Để giảm nhập siêu cần một bài toán tổng thể hơn chứ không phải là một giải pháp riêng lẻ. III.Biện pháp 1)Biện pháp ngắn hạn và dài hạn Khó khăn về cán cân thương mại ở Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc từ cơ cấu kinh tế (là hệ quả của cơ cấu đầu tư) và các điều kiện kinh tế vĩ mô. Vì vậy, tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô chính là các giải pháp phù hợp nhất để đối phó với tình trạng hiện nay hơn là các công cụ chính sách thương mại, mặc dù công cụ chính sách thương mại có thể dùng để giải quyết khó khăn 17 của một số ngành nghề cụ thể. Các biện pháp được đề xuất dưới đây để đối phó với khó khăn cán cân thanh toán được phân loại theo tính chất của vấn đề bất cập là ngắn hạn hay dài hạn. Đề xuất biện pháp ngắn hạn Công cụ kinh tế vĩ mô có thể sử dụng để điều chỉnh sự mất cân đối bên ngoài thông qua 2 kênh chính, đó là áp dụng chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ: .-Thắt chặt tài khoá hoặc tiền tệ có thể sử dụng để giảm tiêu dùng trong nước, từ đó sẽ giúp giảm nhu cầu đối với hàng nhập khẩu. -Chính phủ có thể khuyến khích người tiêu dùng thay đổi cơ cấu chi tiêu theo đó ưu tiên tiêu dùng các mặt hàng trong nước, giảm tiêu dùng nhập khẩu thông qua giảm tỷ giá thực của đồng nội tệ. Đồng nội tệ giảm giá sẽ có tác dụng làm cho giá các hàng hoá sản xuất trong nước trở nên rẻ hơn so với hàng hoá nước ngoài -Một cách khác để giải quyết bất cập cán cân tài khoản vãng lai đó là giảm nhu cầu nhập khẩu thông qua tăng thuế nhập khẩu. Trong khung khổ WTO, thành viên được phép tăng thuế nhập khẩu lên tới mức cam kết trần. Trong trường hợp của Việt Nam, dư địa thuế suất (phần chênh lệch giữa thuế suất cam kết trần với Biểu đồ 8: Dư địa thuế suất nhập khẩu trong một số ngành trong năm 2009 Nguồn: WTO/ITC (2008) Số liệu Thuế Nhập khẩu Thế giới 2008, Geneva thuế suất áp dụng) là tương đối đáng kể và có thể sử dụng như một chiếc phanh để hãm bớt đà gia tăng nhập khẩu. Biểu đồ 8 cho thấy còn dư địa thuế suất nhập khẩu trong nhiều ngành khác nhau. Không gian chính sách còn tương đối rộng với Việt Nam trong các ngành thiết bị vận tải, đồ uồng và thuốc lá và thực phẩm chế biến. Việt Nam cũng có thể 18 vận dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu trên cơ sở khó khăn về cán cân thanh toán theo các điều kiện chặt chẽ. Tuy nhiên, việc áp dụng thuế suất cao hơn trong khung cam kết được phép hoặc áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu trên cơ sở điều kiện khó khăn về cán cân thanh toán sẽ đi kèm với các ảnh hưởng tiêu cực lâu dài cho Việt Nam. Tác động của các lựa chọn chính sách này bao gồm (i) ảnhhưởng tới kết quả xuất khẩu vì xuất khẩu phụ thuộc khá chặt chẽ vào nhập khẩu; (ii) làmtăng cán cân thương mại nếu hệ số co giãn của nhập khẩu nhỏ hơn (iii) ảnh hưởng đếnlợi ích của người tiêu dùng vì chi phí tiêu dùng tăng lên; (iv) làm môi trường kinh doanhở Việt Nam bị giảm khả năng đoán định do thay đổi chính sách, và có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài; (v) giảm niềm tin của các nhà đầu tư đặt vào Việt Nam nếuviệc áp dụng các biện pháp bảo hộ bị các nhà đầu tư coi là tín hiệu của khủng hoảng. Ngoài ra, sử dụng phụ thu nhập khẩu cũng có tác dụng giống như phá giá đồng tiền trong cắt giảm nhập khẩu, nhưng biện pháp này sẽ không đạt được lợi ích cho hoạt động xuất khẩu. Đề xuất biện pháp dài hạn Để giải quyết bất cập mang tính cơ cấu trong dài hạn, báo cáo khuyến nghị Việt Nam tập trung vào nâng cao triển vọng cán cân thanh toán của mình dựa trên các gợi ý sau đây: -Đánh giá kỹ lưỡng lợi ích từ các FTA mà Việt Nam dự kiến sẽ ký với các nước khác để đảm bảo thu được lợi ích thực sự từ các FTA này và đảm bảo không làm gia tăng đột biến nhập khẩu thuần. Điều này là vô cùng quan trọng đối với các FTA như ASEAN-Trung Quốc, ASEAN- Hàn Quốc (AKFTA) và ASEAN-Nhật Bản (AJFTA), nhất là các FTA mà Việt Nam dự kiến sẽ tham gia. -Tìm cách nâng cao giá trị gia tăng trong hoạt động sản xuất ở Việt Nam và đa dạng hoá diện mặt hàng xuất khẩu nhằm giảm tác động tiêu cực từ biến động giá hàng hoá và thay đổi nhu cầu trên thị trường thế giới. -Giải quyết sự mất cân đối kinh tế vĩ mô bằng cách điều chỉnh mức thâm hụt ngân sách và củng cố chính sách tiền tệ vững mạnh. -Tiếp tục củng cố các dịch vụ hỗ trợ trong nước, nâng cao các biện pháp tạo thuận li cho thương mại, phát triển hơn nữa mạng lưới vận tải và dịch vụ hỗ trợ và tiếp tục cải cách thể chế và thủ tục hành chính để giảm chi phí giao dịch nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. - Duy trì môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam. -Nâng cao năng lực vốn con người ở Việt Nam thông qua đầu tư giáo dục vì nguồn vốn con người là yếu tố then chốt để thúc đẩy các hoạt động có giá trị gia tăng cao ở Việt Nam. - Giảm thiểu tình trạng buôn lậu qua đường biên giới của Việt Nam và nâng cao công tác giám sát, quản lý chất lượng hàng hoá nhập khẩu cũng như theo dõi sát sao hoạt động phá giá. -Giám sát và vận động việc xoá bỏ các biện pháp bảo hộ hoặc hình thức bảo hộ trá hình do các nước G-20 áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam16. 19 2)Một số biện pháp cải thiện thếu xuất khẩu và thếu nhập khẩu - Đối với thuế xuất khẩu: Để đảm bảo khuyến khích tối đa hoạt động xuất khẩu, chỉ thực hiện thu thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng xuất khẩu mà VN đã có thị trường ổn định hoặc là nguyên liệu thô cần cho sản xuất trong nước như quặng thô, phế liệu kim loại...Cần điều chỉnh theo hướng giảm và tiến tới bỏ thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng như may mặc, da giày, nông sản chế biến để khuyến khích xuất khẩu. - Thuế nhập khẩu: (1) giảm bớt số mức thuế nhập khẩu và mức thuế cao nhất: hiện nay nước ta có 18 mức thuế nhập khẩu, mức thuế cao nhất là 60%. Để phù hợp với yêu cầu hội nhập ta phải giảm dần mức thuế cao nhất và giảm số lượng mức thuế. Về lâu dài, mức thuế phù hợp với yêu cầu AFTA là 0 - 5%, nhưng trước mắt ta phải giảm dần, song đối với các mặt hàng mà nước ta không có tiềm năng lợi thế và chưa có khả năng sản xuất trong những năm sắp tới, những mặt hàng là nguyên liệu vật tư quan trọng và chủ yếu cho sản xuất các ngành có thế mạnh cạnh tranh và xuất khẩu...thì cần xây dựng mức thuế nhập khẩu thấp hơn mức bảo hộ cấp I. Trong tương lai, biểu thuế nhập khẩu hoàn thiện là 8 mức 0%, 3%, 5%, 10%, 20%, 30%, 40% và 50%. Đồng thời mức thuế cao nhất là 60% cũng được giảm xuống còn 50%. (2) cần xác định rõ mức thuế nhập khẩu tạm thời cho các loại hàng hóa đặc biệt: trong luật thuế hiện hành chúng ta chưa có quy định về mức thuế tạm thời đối với một số loại hàng nhập khẩu mà giá bán của nước xuất khẩu quá thấp so với giá thành của hàng hóa nhằm gây rối hoặc có tính chất đe dọa sự phát triển sản xuất trong nước. Vì vậy cần phải có quy định về thuế suất tạm thời nhằm chống lại tình trạng bán phá giá, hoặc hộ giá để nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Đây là những biện pháp đối phó với những hành động cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế được nhiều nước áp dụng. - Cần rà soát biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để phát hiện những điều bất hợp lý, trên cơ sơ đó hiệu chỉnh danh mục, mức thuế xuất khẩu nhập khẩu cho phù hợp, chuẩn xác nhằm hạn chế việc áp dụng sai thuế suất. - Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định trị giá hải quan theo WTO. Giá tính thuế nhập khẩu phải dựa trên cơ sơ mức giá trung bình trên thị trường thế giới hoặc mức giá được ghi trong hợp đồng nhập khẩu. - Tăng cường bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, khả năng vận dụng và tổ chức thực hiện luật pháp của các cán bộ ngành thuế và ngành hải quan. Bên cạnh các biện pháp giáo dục, kỷ luật hành chính, cần chú ý tới việc gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất đối với các cán bộ này. Cần đổi mới, trang bị phương tiện làm việc của đội ngũ tuần tra chống buôn lậu trốn thuế. Cải tiến quy trình thu thuế xuất nhập khẩu, góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hợp lý phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 3)Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan