Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Áp dụng pháp luật trong xét sử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội qua thực ...

Tài liệu Áp dụng pháp luật trong xét sử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội qua thực tiễn tỉnh thanh hoá luận văn ths. luật

.PDF
120
212
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ ANH XUÂN ¸P DôNG PH¸P LUËT TRONG XÐT Xö S¥ THÈM NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Anh Xuân MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục bảng Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN .............................. 8 1.1. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ......... 8 1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân .................................... 8 1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân.................................. 19 1.2. Quy trình áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ................ 27 1.2.1. Giai đoạn thụ lý, nghiên cứu hồ sơ vụ án đánh giá về thủ tục tố tụng và chứng cứ ................................................................................. 28 1.2.2. Giai đoạn lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với bị cáo............ 37 1.2.3. Giai đoạn ban hành quyết định hoặc bản án hình sự .......................... 41 1.3. Các điều kiện bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân............................................................................................. 46 1.3.1. Nội dung áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội ............................................................................. 46 1.3.2. Các yếu tố đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ................. 47 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH THANH HOÁ ............... 57 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá .............. 57 2.1.1. Về đặc điểm tự nhiên .......................................................................... 57 2.1.2. Về phát triển kinh tế - xã hội .............................................................. 57 2.2. Tình hình ngƣời chƣa thành niên phạm tội ở tỉnh Thanh Hoá .... 58 2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá ......................................................................................... 65 2.3.1. Khái quát về tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá .......... 65 2.3.2. Những ưu điểm chủ yếu về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá.......................................................................... 69 2.3.3. Những hạn chế chủ yếu về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá và nguyên nhân ............................................... 72 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH THANH HOÁ .............................................. 81 3.1. Quan điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội ..................................................... 81 3.1.1. Quán triệt quan điểm của Đảng về xử lý người chưa thành niên phạm tội .............................................................................................. 81 3.1.2. Trong áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội phải đảm bảo nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, kết hợp chặt chẽ cưỡng chế với giáo dục thuyết phục ................ 82 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá ............................................................. 85 3.2.1. Nhóm giải pháp chung ........................................................................ 85 3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể ...................................................................... 100 KÕT LUËN .................................................................................................. 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 111 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADPL: Áp dụng pháp luật BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử NCTT: Người chưa thành niên QPPL: Quy phạm pháp luật TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự TTHS: Tố tụng hình sự DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê tội phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ năm 2009 - 2013 Bảng 2.2: Thống kê tội phạm người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ năm 2009 - 2013 Bảng 2.3: 59 60 Thống kê vụ án do người chưa thành niên phạm tội được đưa ra xét xử từ năm 2009 - 2013 61 MỞ ĐẦU 1. TÝnh cÊp thiÕt cña đề tài Thanh thiế u niên là nguồ n nhân lực tương lai của đấ t nước , có vai trò quan tro ̣ng, xung kích trong công cuô ̣c xây dựng và bảo vê ̣ Tổ quố c . Vấ n đề chăm sóc , giáo dục thế hệ trẻ và phòng ngừa , ngăn chă ̣n ng ười chưa thành niên pha ̣m tô ̣i là mô ̣t viê ̣c làm không chỉ có ở Viê ̣t Nam mà tấ t cả các quốc gia trên thế giới cũng đă ̣c biê ̣t quan tâm, nghiên cứu và thực hiê ̣n. Bởi thế hê ̣ trẻ là tương lai của đấ t n ước, là lớp ngư ời kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quố c vì mô ̣t ngày mai tươi sáng, "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai". Vì vậy, viê ̣c bảo vê ̣, chăm sóc và giáo du ̣c thế hê ̣ trẻ là một trong những mối quan tâm hàng đầu , là vấn đề chiến lược của Đảng và Nhà nước ta ; Chủ tịch Hồ Chí Minh kin ́ h yêu của chúng ta đã căn dă ̣n : "Bồ i dưỡng thế hê ̣ cách mạng cho đời sau là viê ̣c làm rấ t quan trọng và cầ n thiết" [13]. Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng thực tế, tồn tại trong tất cả các xã hội. Trong những năm qua và nhất là thời điểm hiện nay, tình trạng người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam diễn biến rất phức tạp. Việc giải quyết vấn đề người chưa thành niên phạm tội là việc làm cần thiết để giữ nghiêm ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, nhưng cũng là một vấn đề phức tạp và tế nhị. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra đang là nỗi đau của gia đình, đồng thời là vấn đề nhức nhối của xã hội. Dưới tác động nhiều mặt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của xu hướng hội nhập quốc tế… đời sống kinh tế, đời sống xã hội của nước nhà đã có bước phát triển vượt bậc. Song những ảnh hưởng từ mặt trái của kinh tế thị trường, từ những luồng văn hoá phẩm độc hại xâm nhập thông qua các con đường khác nhau trong quá trình mở cửa hội nhập đã có tác động tiêu cực đến tư tưởng lối sống của không ít cá nhân, trong đó có người chưa thành niên. Tình trạng người chưa thành niên phạm tội có chiều hướng gia tăng, tính chất 1 mức độ phạm tội ngày một nghiêm trọng phức tạp. Trong thời gian qua, cùng với việc xây dựng chủ trương đường lối chính sách phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Đảng và Nhà nước ta luôn giành sự quan tâm, chăm lo về mọi mặt cho trẻ vị thành niên. Phần lớn các em đáp ứng được mong mỏi của gia đình và xã hội, sống có lý tưởng, không ngừng tu dưỡng về đạo đức, nỗ lực học tập tiếp thu kiến thức nhằm cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên ở độ tuổi chưa thành niên không chịu rèn luyện, sống buông thả, đua đòi dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết tội phạm về người chưa thành niên là không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó, điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hoạt động phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái ấy xảy ra, quán triệt tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 đã dành nguyên một chương riêng biệt (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên. Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng khi xử lý đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định này đã nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập. Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc giải quyết các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, chúng tôi thấy, những người tiến hành tố tụng không những phải nắm vững các quy định của pháp luật, tuân thủ chặt chẽ các thủ tục tố tụng đặc biệt này mà còn phải có kiến thức nhất định về đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên để phục vụ cho công tác xét xử đạt chất lượng cao. Thanh Hoá là một tỉnh duyên hải Bắc miÒn trung có diện tích đất tự nhiên lớn, điều kiện địa lý có cả đồng bằng, miền núi và trung du, là một 2 trong những tỉnh có số lượng dân cư lớn. Trong những năm vừa qua hòa chung công cuộc đổi mới hội nhập phát triển của cả nước, tình hình kinh tếxã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã có những bước phát triển tích cực, nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp được hình thành. Khu vực kinh tế vừa và nhỏ phát triển mạnh, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, diện mạo xã hội có nhiều thay đổi kể cả nông thôn và thành thị. Tuy nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường đã nảy sinh nhiều hành vi phạm tội mới, trong đó tội phạm do người chưa thành niên phạm tội gây ra có những diễn biến hết sức phức tạp, những hành vi trên không chỉ diễn ra ở thành thị mà nó đã lan rộng ra địa bàn vùng sâu vùng xa. Số lượng người chưa thành niên phạm tội năm sau cao hơn năm trước, tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng nghiêm trọng hơn. Bên cạnh đó hoạt động xét xử đối với các tội phạm do người chưa thành niên gây ra còn bộc lộ những bất cập, hạn chế. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc một số vụ án bị tòa án cấp trên sửa hoặc hủy, quyền của người chưa thành niên phạm tội có lúc, có nơi chưa được tôn trọng và bảo vệ, tác dụng giáo dục, phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra bị hạn chế. Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân, áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự, nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội, quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội… tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá tạo cơ sở lý luận nhằm đưa ra những giải pháp thiết thực, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xét xử và góp phần ngăn chặn tình trạng người chưa thành niên phạm tội một cách hiệu quả. Thực trạng ADPL trong xét xử sơ thẩm các vụ án đối với người chưa thành niên phạm tội ở Thanh Hoá cũng còn không ít những hạn chế yếu kém. Xuất phát từ những lý 3 do trên và trước những đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, việc nghiên cứu sâu để ADPL xét xử đối với những vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở Tỉnh Thanh Hoá nói riêng là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ những lý do đó tác giả chọn đề tài: "Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội – Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hoá" làm luận văn thạc sỹ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến người chưa thành niên phạm tội và áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự, xét xử người chưa thành niên phạm tội đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu về vấn đề này. Cụ thể có những công trình tiêu biểu sau đây: - Một số sách chuyên khảo và một luận án, luận văn đề cập đến áp dụng pháp luật nói chung, áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân trong xét xử hình sự và áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội: + GS.TSKH Đào Trí Úc trong “Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật” đã đi sâu phân tích về áp dụng pháp luật và hoạt động xét xử của tòa án nhân dân. + Luận án tiến sỹ Luật học của Lê Xuân Thân về “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, 2004. + Luận văn thạc sỹ Luật học của Vũ Thị Thu Quyên về “Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay”, 2003. 4 + Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật: “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước Pháp quyền” do TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên. - Một số các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả: + Đỗ Thị Phượng: Sự cần thiết phải thành lập Tòa án Người chưa thành niên ở Việt Nam; Tạp chí Tòa án nhân dân số 21,22-11/2009. + Cao Thị Oanh: Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội; Tạp chí Luật học số 10/2007. + Nguyễn Tất Viễn: “Tòa án người chưa thành niên”, Tạp chí Vì trẻ thơ, số chuyên đề, năm 2000. + Lê Cảm: “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát số 2/2004. + Đặng Thanh Nga: “Khía cạnh tâm lý của tội phạm vị thành niên cần được chú ý trong điều tra truy tố và xét xử”, Tạp chí Tâm lý học số 5/2002. + Dương Tuyết Miên: “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Luật học số 4/2002. + Trần Văn Dũng: “Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội”, Tạp chí Luật học số 5/2000. + Chương Minh Mạnh: “Phân loại tội phạm với việc quy định trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên”, Tạp chí Kiểm sát số 8/2002. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ lý luận chung vấn đề nhà nước và pháp luật về việc áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của tòa án nhân dân nói chung và của tòa án nhân dân các cấp ở tỉnh Thanh Hoá nói riêng. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Về đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau - Những vấn đề lý luận về ADPL nói chung và ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội nói riêng. 5 - Thực tiễn ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội ở Thanh Hoá. - Những tồn tại và nguyên nhân phát sinh tồn tại của việc ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội. - Những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội. * Về phạm vi nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở lý luận về ADPL trong hoạt động xét xử luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu thực tiễn ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của Ngành Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá từ năm 2009-2014. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Về mục đích: Mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội; Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo ADPL đúng đắn trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay. Về nhiệm vụ: - Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử người chưa thành niên phạm tội của tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá như xây dựng khái niệm, nêu lên các đặc điểm và làm rõ quy trình ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội. - Đánh giá những thành tựu và hạn chế về ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của tòa án nhân dân. - Nêu lên những quan điểm và đề xuất những giải pháp có tính khả thi đảm bảo ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay. 6 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật: các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng chống tội phạm, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhất là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của Triết học Mác-Lênin, kết hợp các phương pháp: thực tiễn, tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích. 6. Ý nghĩa của luận văn Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng ADPL trong hoạt động xét xử người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu một số chuyên đề khác, trong việc giảng dạy, học tập liên quan đến hoạt động xét xử nói chung, xét xử người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá nói riêng. Mặt khác nội dung của luận văn có thể sử dụng nhằm xây dựng kỹ năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác xét xử trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung luận văn gồm 3 chương. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân 1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân 1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội Theo Từ điển tiếng Việt thì khái niệm người chưa thành niên được định nghĩa như sau: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân" [28]. Theo quy định tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990 thì "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn" [15, Điều 1]. Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1992 cũng là một văn bản pháp luật quốc tế quan trọng đề cập đến khái niệm "người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" như là một sự kế thừa của Công ước về Quyền trẻ em. Quy tắc Riát về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên được Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1990 mặc dù không đưa ra một cách cụ thể về khái niệm người chưa thành niên, song thông qua các quy định cũng giúp chúng ta hiểu người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, do sự phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái niệm người chưa thành niên ở các quốc gia cũng khác nhau, bên cạnh việc 8 đưa ra khái niệm này thì Công ước về Quyền trẻ em vẫn còn những điều khoản để ngỏ cho các nước quy định về độ tuổi cho người chưa thành niên, thậm chí ngay trong một quốc gia các văn bản pháp luật cũng quy định không thống nhất về vấn đề này. Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm được thừa nhận trong quá khứ, dựa trên những thành tựu do các ngành khoa học khác mang lại cũng như tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm về người chưa thành niên, tuỳ theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng ngành luật, như sau: Điều 18 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định: "Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên" [23] và Bộ luật lao động Việt Nam cũng quy định: "Người lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" [25]. Như vậy, có thể thống nhất một quan điểm là người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Quan niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em ngày 20.2.1990 mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Theo quy định của Bộ luật hình sự thì người chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm [20, Điều 12]. Vấn đề đặt ra là tại sao pháp luật hình sự lại quy định người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự và người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất định? Quy định này của Bộ luật hình sự về mặt lý luận có thể hiểu, người chưa đủ 14 9 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra vì người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó, họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm (rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng) chứ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Quy định này cũng thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, như vậy, căn cứ vào quy định này và quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự nêu trên, thì có thể hiểu bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về người chưa thành niên phạm tội như sau: Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Việc xác định tuổi của bị cáo là người chưa thành niên rất quan trọng vì đây là căn cứ ngăn chặn, áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với bị cáo nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên. Việc xác định tuổi của bị cáo còn giúp Cơ quan tiến hành tố tụng xác định được việc xét xử và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên. 10 1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân Như đã nêu trên, người chưa thành niên là người đang ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và nhiều khi do bị tác động mạnh của điều kiện bên ngoài. Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi trẻ em là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng ngày mà ngay cả khi quyền trẻ em bị xâm phạm cần được bảo vệ hoặc khi đối tượng này vi phạm pháp luật. Luật hình sự bảo vệ người chưa thành niên bị coi là người phạm tội và cũng quy định một chế tài riêng để xử lý, thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi chưa thành niên nhằm thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có một chương riêng (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong Điều 301 quy định về phạm vi áp dụng "Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên", nhà làm luật Việt Nam không hề ghi nhận khái niệm pháp lý "thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên" là gì? Qua nghiên cứu các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong chương này, chúng ta có thể hiểu: Các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên có những đặc trưng riêng so với thủ tục tố tụng áp dụng đối với người thành niên. Những đặc trưng này thể hiện ở các quy định về tiêu chuẩn của người tiến hành tố tụng, về đối tượng phải chứng minh, về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, về việc bào chữa, việc tham gia của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội vào tố tụng 11 cũng như công tác xét xử và thi hành án. Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định các quyền tố tụng và bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật đối với đối tượng này. Để đưa ra khái niệm ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội, trước hết cần làm rõ khái niệm xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội là gì? “Xét xử” là từ Hán Việt được hiểu theo nghĩa là xem xét và phán xử. Theo từ điển Luật học năm 2006, xét xử là “hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc” [3]. Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án và Tòa án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Hiến pháp năm 1946 tuy qui định tổ chức Tòa án còn chưa mang tính độc lập hoàn toàn vì các Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm (Điều 64), nhưng theo tinh thần của Hiến pháp, có thể hiểu Tòa án là cơ quan xét xử. Các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 đã qui định rõ về chức năng xét xử của Tòa án. Hiến pháp 1992 qui định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [19, Điều 127]. Trên cơ sở Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND qui định về thẩm quyền xét xử của Tòa án tại Điều 1, đồng thời qui định cụ thể về chức năng xét xử của Tòa án: “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo qui định của pháp luật” [21, Điều 1]. Xét xử những vụ án hình sự là một chức năng quan trọng của Tòa án, thông qua đó Tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN và các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án là một khâu trong quá trình 12 giải quyết vụ án hình sự bao gồm điều tra, truy tố, xét xử. Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án là một giai đoạn tố tụng độc lập, những phán quyết của Tòa án ngoài việc dựa trên những chứng cứ tài liệu được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập trước đó còn phải dựa vào kết quả điều tra công khai tại phiên tòa. Hiện nay, những yêu cầu về đảm bảo tính khách quan, công bằng, đúng pháp luật trong các phán quyết của Tòa án bảo vệ được các quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức ngày càng được đề cao thì việc tổ chức thực hiện các phiên tòa xét xử vụ án hình sự thật dân chủ, khách quan là một đòi hỏi bức xúc. Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xét xử nói chung, hoạt động xét xử vụ án hình sự nói riêng của Tòa án là: Phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục trong thời hạn pháp luật qui định. Pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay xác định nguyên tắc hai cấp xét xử: Xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm về hình sự, trong đó xét xử sơ thẩm là trọng tâm và có vai trò quan trọng trong hoạt động của Tòa án. Theo từ điển Luật thì “Xét xử sơ thẩm là một từ Hán Việt, có nghĩa là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền [3, tr.870]. Xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên tòa, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan