Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải ...

Tài liệu Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương.

.PDF
79
173
73

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN THỊ HƢƠNG NHU ÁP DỤNG HÌNH PHẠT BỔ SUNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS CAO THỊ OANH HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan, luận văn thạc sỹ “Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu được sử dụng phân tích trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Những kết quả nêu trong luận văn chưa được sử dụng trong bất kỳ công trình nào khác. Những thông tin tham khảo trong luận văn đều được trích dẫn cụ thể nguồn sử dụng. Tác giả Đoàn Thị Hƣơng Nhu MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ 6 ÁP DỤNG HÌNH PHẠT BỔ SUNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của áp dụng hình phạt bổ sung 6 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về hình phạt bổ 15 sung 1.3. Các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 2015 22 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT BỔ SUNG 35 TRÊN ĐỊA BÀN TÌNH HẢI DƢƠNG 2.1. Khái quát tình hình áp dụng hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh 35 Hải Dương 2.2. Vướng mắc, bất cập, hạn chế và nguyên nhân khi áp dụng hình 43 phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Hải Dương CHƢƠNG 3: SỰ CẦN THIẾT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO 54 HIỆU QUẢ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT BỔ SUNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG 3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt bổ sung 54 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt bổ sung 57 KẾT LUẬN 70 DANH MỤC THAM KHẢO 72 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đấu tranh, phòng chống tội phạm là nhiệm vụ thường xuyên của bất kỳ Nhà nước nào. Và để thực hiện nhiệm vụ đó thì Nhà nước đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau về chính trị, kinh tế, giáo dục, pháp lý. Tuy nhiên, trong tất cả các biện pháp đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm thì hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến nhất và có lịch sử lâu đời nhất. Hệ thống hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong đó dưới góc độ triết học, hình phạt chính và hình phạt bổ sung có mối quan hệ nội tại, tác động lẫn nhau. Hình phạt chính là bộ phận cơ bản có tính chất quyết định của hệ thống hình phạt. Nội dung của các hình phạt chính thể hiện đầy đủ nhất mục đích trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới cũng như giáo dục người khác tôn trọng pháp luật. Bên cạnh đó, hình phạt bổ sung giữ vai trò củng cố, hỗ trợ cho hình phạt chính, nhưng không thể thay thế hình phạt chính. Chế định hình phạt bổ sung trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam được ra đời từ rất sớm. Ngay từ khi bắt đầu xây dựng nền móng pháp luật hình sự của Nhà nước kiểu mới (năm 1945), Nhà nước ta đã quyết định vẫn tạm thời giữ lại một số đạo luật hình sự, trong đó có chế định hình phạt bố sung của chế độ cũ với việc đưa vào đó nội dung giai cấp mới. Trải qua quá trình phát triển của lịch sử lập pháp (từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015), chế định hình phạt bổ sung luôn được kế thừa, bổ sung và hoàn thiện. Điều đó khẳng định chế định hình phạt bổ sung có ý nghĩa lớn trong hệ thống pháp luật. Hình phạt bổ sung không có vai trò quyết định như hình phạt chính nhưng vai trò nổi bật của hình phạt bổ sung thể hiện ở tác dụng phòng, chống tội phạm, hỗ trợ, củng cố và tăng cường hiệu quả của hình phạt chính. Bên cạnh đó, hình phạt bổ sung còn có tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục người bị kết án, góp phần đa dạng hóa các hình phạt trong pháp luật hình sự. Tuy nhiên, từ thực tiễn xét xử của ngành Tòa án tỉnh Hải Dương thấy việc áp dụng hình phạt bổ sung vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định như tỷ lệ các bị 1 cáo bị áp dụng hình phạt bổ sung còn ít; chỉ áp dụng với một số tội phạm nhất định; việc nhận thức pháp luật và áp dụng các quy định về hình phạt bổ sung giữa các Thẩm phán và giữa các Tòa án còn chưa thống nhất, đồng bộ; một số Thẩm phán áp dụng hình phạt bổ sung không đúng quy định… Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó xuất phát từ việc quy định của pháp luật, từ ý thức chủ quan, trình độ chuyên môn của người áp dụng pháp luật, từ sự hướng dẫn, giải thích của cấp trên chưa kịp thời, đầy đủ… Những điều đó đã làm giảm hiệu quả của áp dụng hình phạt bổ sung, làm cho hình phạt bổ sung không phát huy được mục đích, ý nghĩa của nó trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong bối cảnh nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư pháp là bảo đảm để Toà án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm thì việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về hình phạt bổ sung, thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Hải Dương, tìm ra được những tồn tại, hạn chế, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng hình phạt bổ sung có ý nghĩa rất quan trọng về lý luận và thực tiễn. Với những lý do trên, người viết đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là đề tài luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến áp dụng hình phạt bổ sung đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành nhưng việc nghiên cứu còn chưa nhiều, phạm vi nghiên cứu còn hẹp, quy mô nhỏ (chỉ dừng lại ở từng quy định cụ thể của hình phạt bổ sung hoặc trong một địa phương nhất định). Qua tìm hiểu, người viết thấy có một luận án tiến sỹ, một số luận văn thạc sỹ, một cuốn sách chuyên khảo, một số bài viết trên tạp chí đã nghiên cứu về những vấn đề này. Có thể chia những công trình nghiên cứu, bài viết trên thành các nhóm sau: - Nhóm thứ nhất: Hệ thống sách chuyên khảo viết về hình phạt bổ sung có cuốn “hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam” của TS. Trịnh Quốc Toản viết tháng 7 năm 2011. Đây là công trình nghiên cứu tổng hợp và tương đối toàn 2 diện về hình phạt bổ sung trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam. Cuốn sách đã phân tích khá chi tiết những vấn đề mang tính lý luận về hình phạt nói chung và hình phạt bổ sung nói riêng, so sánh đặc điểm của hình phạt với các biện pháp cưỡng chế hình sự khác và đưa ra các tiêu chí phân loại hình phạt bổ sung, bên cạnh đó đã đánh giá toàn diện các quy định về hình phạt bổ sung để chỉ ra những thiếu sót, hạn chế trong lý luận và thực tiễn áp dụng và đề xuất những kiến nghị sửa đổi Bộ luật hình sự. - Nhóm thứ hai: Hệ thống các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ luật học: Luận án tiến sỹ luật học của nghiên cứu sinh Trịnh Quốc Toản năm 2010 với đề tài “các hình phạt bổ sung trong Luật hình sự Việt Nam”; luận văn “hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng” - luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Trúc Phương, 2016; luận văn “hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh” - luận văn thạc sỹ luật học của Văn Bảo Quốc, 2015; luận văn “hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” - luận văn thạc sỹ luật học của Huỳnh Thị Hồng Vân, 2015; Luận án tiến sỹ của nghiên cứu sinh Trịnh Quốc Toản đã phát triển trên cơ sở cuốn sách chuyên khảo “hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam” của chính tác giả; còn đối với các luận văn khác, tùy vào từng đối tượng và mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, mỗi tác giả cũng chỉ tập trung nghiên cứu về từng lĩnh vực liên quan đến hình phạt, có tác giả chỉ nghiên cứu một loại hình phạt cụ thể như hình phạt tiền, hoặc có tác giả nghiên cứu hình phạt bổ sung ở một địa phương nhất định. - Nhóm thứ ba: Hệ thống các bài viết, đề tài khoa học được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Điểm mới trong Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt bổ sung” của Đào Lệ Thu trong tạp chí Luật học số 03/2000; “Về khái niệm và đặc điểm của hình phạt bổ sung trong luật hình sự” của Trịnh Quốc Toản trong tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25/2009; “Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự năm 1999 và hướng dẫn hoàn thiện” của TS. Dương Tuyết Miên trong tạp chí Tòa án nhân dân số 8 kỳ II tháng 4/2009; “Bàn về hình phạt bổ sung đối với người bị xét xử được hưởng án treo theo Bộ luật hình sự năm 1999” của Huỳnh Văn Út trong tạp chí Tòa án nhân dân số 11 kỳ 1 tháng 6/2013…Các bài viết 3 này cũng chỉ nghiên cứu từng khía cạnh nhỏ quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt bổ sung. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hải Dương chưa có bài viết, công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề áp dụng hình phạt bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hải Dương. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về hình phạt bổ sung, nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2017, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, sau đó luận văn đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả của áp dụng hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt bổ sung; đánh giá khái quát quá trình hình thành và phát triển của chế định hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam. - Phân tích các loại hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. - Đánh giá thực trạng áp dụng hình phạt bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hải Dương trong 05 năm gần đây, chỉ ra những mặt tích cực cũng như hạn chế, tồn tại và nguyên nhân. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của áp dụng hình phạt bổ sung. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu về vấn đề áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam và về lý luận quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2013 đến năm 2017. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận của luận văn chủ yếu là những kiến thức của khoa học của luật học về hình phạt bổ sung được người viết lựa chọn làm cơ sở lý luận trong việc nghiên cứu luận văn. 4 Ngoài ra các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực pháp luật hình sự; những thành tựu của khoa học, triết học, xã hội học, luật học, các học thuyết chính trị pháp lý. Phương pháp nghiên cứu của đề tài là những kiến thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, người viết còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, lịch sử, phương pháp thống kê, khảo sát (người viết đã phân tích các quy định của pháp luật, phân tích các ví dụ, dẫn chứng minh họa, có sự tống hợp, đối chiếu so sánh các quy định của pháp luật, so sánh cách thức áp dụng của các địa phương khác nhau; đồng thời thống kê các số liệu cụ thể…). Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, người viết còn tham khảo ý kiến chuyên gia và nghiên cứu các bản án, hồ sơ vụ án, các báo cáo tổng kết của ngành Tòa án. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa khoa học: Việc nghiên cứu thành công luận văn là cơ sở cho việc bổ sung các quan điểm lý luận về hình phạt nói chung và hình phạt bổ sung nói riêng. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài có thể được vận dụng trong thực tiễn xét xử, áp dụng hình phạt bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Hải Dương, giúp cho các Thẩm phán có cái nhìn toàn diện, thấy được vị trí, vai trò của hình phạt bổ sung và những hạn chế, thiếu sót trong quá trình áp dụng để khắc phục trong thời gian tới. Ngoài ra, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy trong các trường nghiệp vụ của ngành luật ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt bổ sung Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Hải Dương Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt bổ sung trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 5 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT BỔ SUNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của áp dụng hình phạt bổ sung 1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt bổ sung 1.1.1.1. Khái niệm hình phạt bổ sung Hệ thống hình phạt của nước ta hiện nay được áp dụng đối với hai đối tượng, đó là người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội. Đối với mỗi đối tượng áp dụng hình phạt, hình phạt lại được chia ra làm hai nhóm: nhóm hình phạt chính và nhóm hình phạt bổ sung. Chưa có khái niệm về hình phạt bổ sung được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự nên hiện nay còn có khá nhiều quan điểm khác nhau về hình phạt bổ sung. Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam, hình phạt bổ sung được hiểu là “hình phạt được Tòa án quyết định thêm đối với người bị Tòa án quyết định hình phạt chính. Tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể, trong bản án, kèm theo hình phạt chính, Tòa án có thể tuyên một hoặc một số hình phạt bổ sung” [11, tr 113]. PGS.TS. Trần Văn Độ trong bài “một số ý kiến về quyết định hình phạt bổ sung” đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 7 năm 1990 cho rằng: “Hình phạt bổ sung là hình phạt được áp dụng kèm theo hình phạt chính nhằm tăng cường hiệu quả của việc áp dụng hình phạt, đáp ứng mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng”. [13, tr 8]. TS. Uông Chu Lưu trong cuốn “Hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam” thì quan niệm: “Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong Bộ luật hình sự, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội, phản ánh sự đánh giá của nhà nước về hành vi phạm tội và người đã thực hiện hành vi đó” [23, tr 229]. Còn GS.TS Võ Khánh Vinh trong cuốn “Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam” lại định nghĩa: “Hình phạt bổ sung là hình phạt được bổ sung thêm vào hình phạt chính và không được tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm theo một hình phạt chính. Tùy theo từng trường hợp cụ thể của vụ án, kèm theo một hình phạt chính, Tòa án có thể tuyên một hoặc vài hình phạt bổ sung”[59, tr 113]. 6 Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về hình phạt bổ sung, nhưng có thể khẳng định các tác giả đều đưa ra một số điểm thống nhất khi quan niệm về hình phạt bố sung như sau, đó là một dạng hình phạt nhẹ hơn hình phạt chính, được Tòa án tuyên kèm với hình phạt chính mà không được tuyên độc lập, để hỗ trợ tăng cường sự răn đe, giáo dục của hình phạt chính đối với người bị kết án. Việc áp dụng hình phạt bổ sung có thể là bắt buộc hoặc tùy nghi. Kế thừa các quan niệm về hình phạt bổ sung nêu trên, đồng thời căn cứ vào các quy định của hình phạt bổ sung Việt Nam hiện hành, có thể hiểu hình phạt bổ sung như sau: Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được quy định trong luật hình sự, do Tòa án tuyên kèm theo hình phạt chính trong bản án đối với một số tội phạm nhằm tăng cường hiệu quả của hình phạt chính. Người phạm tội có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. 1.1.1.2. Khái niệm áp dụng hình phạt bổ sung Áp dụng hình phạt là một loại hình áp dụng pháp luật. Nếu như áp dụng pháp luật nói chung là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước, thông qua cơ quan, cán bộ nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền, tổ chức cho các chủ thể thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ do pháp luật quy định hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật thì áp dụng hình phạt lại là một loại áp dụng pháp luật đặc biệt. Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân, đấu tranh phòng và chống tội phạm, Nhà nước ta sử dụng nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Hình phạt được Nhà nước sử dụng như là công cụ hữu hiệu, cần thiết và không thể thay thế trong cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án áp dụng theo một trình tự đặc thù. Trong mọi trường hợp không được áp dụng hình phạt đối với những hành vi không được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm, và tất nhiên cũng 7 không được áp dụng một loại hình phạt nào đó nếu hình phạt ấy không được quy định trong hệ thống hình phạt hoặc không được quy định trong chế tài của điều luật mà hành vi bị xử phạt thỏa mãn. Và chỉ có Tòa án mới có quyền áp dụng hình phạt, ngoài Tòa án không có một cơ quan nào khác có quyền xét xử và quyết định hình phạt. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [31, tr. 54]. Tòa án áp dụng hình phạt theo một trình tự đặc thù, đó là tố tụng hình sự. Toàn bộ quá trình đưa đến việc Tòa án xét xử, định tội và quyết định hình phạt với người phạm tội phải trải qua một quá trình tố tụng nghiêm ngặt do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Điều này có nghĩa hình phạt không thể được áp dụng đối với các thành viên trong gia đình cũng như những người thân khác của người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại khác nếu họ không thực hiện những hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự. Như vậy, áp dụng hình phạt là việc Tòa án theo trình tự luật định quyết định một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất được quy định trong Bộ luật hình sự đối với người hoặc phạm nhân thương mại phạm tội trong bản án. Từ khái niệm áp dụng hình phạt, ta có thể khái niệm áp dụng hình phạt bổ sung như sau: Áp dụng hình phạt bổ sung là việc Tòa án theo trình tự luật định quyết định một hoặc một số hình phạt bổ sung được Luật quy định cùng với một hình phạt chính đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội trong bản án. 1.1.2. Đặc điểm của áp dụng hình phạt bổ sung Nghiên cứu hình phạt bổ sung cho thấy, việc áp dụng hình phạt bổ sung ngoài những đặc điểm của áp dụng hình phạt nói chung như áp dụng hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước gắn với tội phạm; được luật quy định; được Tòa án áp dụng theo trình tự luật định; chỉ áp dụng chính với người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội thì việc áp dụng hình phạt bổ sung còn có những đặc điểm đặc trưng riêng sau: 8 Thứ nhất, hình phạt bổ sung không được áp dụng độc lập với mỗi loại tội phạm cụ thể mà chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính khi nhân danh Nhà nước tuyên bố bản án kết tội đối với người bị kết án. Toà án có thể áp dụng một trong các hình phạt chính được quy định trong điều luật về tội phạm cụ thể: “Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung” (khoản 3 Điều 32 Bộ luật hình sự) [33, tr. 27]; “Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung” (khoản 3 Điều 33 Bộ luật hình sự) [33, tr. 27]. Đây là một đặc điểm quan trọng của áp dụng hình phạt bổ sung, giúp phân biệt sự khác nhau rõ nét nhất giữa loại hình phạt này với hình phạt chính. Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam được phân chia thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính và hình phạt bổ sung được phân biệt chủ yếu dựa vào khả năng áp dụng độc lập của từng loại hình phạt đối với các trường hợp phạm tội cụ thể. Theo đó, về nguyên tắc, hình phạt chính luôn luôn được áp dụng độc lập, không phụ thuộc vào các loại hình phạt khác. Đối với mỗi một tội phạm, Toà án chỉ có thể áp dụng một hình phạt chính. Trong khi đó hình phạt bổ sung không được áp dụng độc lập mà chỉ có thể được áp dụng kèm theo hình phạt chính. Nếu bị cáo không bị áp dụng hình phạt chính thì Toà án cũng không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ. Trong trường hợp một người bị kết án về nhiều tội, thì hình phạt bổ sung của tội nào chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính của tội ấy, không tuyên hình phạt bổ sung chung chung cho tất cả các tội. Đặc điểm đặc thù này của áp dụng hình phạt bổ sung xuất phát chính từ chức năng của hình phạt bổ sung là củng cố, tăng cường hiệu quả của việc áp dụng hình phạt, tức là hình phạt bổ sung giúp cho việc xử lý tội phạm được toàn diện và triệt để, tăng cường thêm tác dụng phòng ngừa riêng và răn đe chung của hình phạt chính. Mặt khác, nếu giả sử hình phạt bổ sung được áp dụng độc lập thì do mức độ trừng trị, cưỡng chế của nó ít nghiêm khắc, nên mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung cũng khó đạt được trong thực tiễn áp dụng và thi hành. Mặc dù chỉ được áp dụng bổ sung cho hình phạt chính, nhưng hình phạt bổ sung có ưu điểm nổi bật thể hiện trong vai trò phòng ngừa tội phạm, tức là việc áp dụng hình phạt bổ 9 sung có hiệu quả loại trừ các điều kiện phạm tội. “Hình phạt bổ sung tác động trực tiếp vào hoàn cảnh khách quan làm cho người phạm tội mất đi các điều kiện xã hội có thể để tái phạm. Các điều kiện xã hội có thể là chức vụ công tác, nghề nghiệp chuyên môn, nơi cư trú, điều kiện đi lại hay tiền bạc tài sản của người bị kết án” [54, tr. 230]. Thứ hai, áp dụng hình phạt bổ sung là áp dụng biện pháp cưỡng chế Nhà nước ít nghiêm khắc hơn so với áp dụng hình phạt chính. Như đã trình bày ở trên, việc quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm là giúp cho việc xử lý tội phạm được triệt để, bổ sung hỗ trợ hình phạt chính, đảm bảo thực hiện được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, củng cố thêm kết quả của hình phạt chính đã đạt được. Vì thế, nhìn chung hình phạt bổ sung là ít nghiêm khắc hơn hình phạt chính, nó được quy định luôn đi kèm và bổ sung cho hình phạt chính. Chúng ta không phủ nhận một thực tế là khi xem xét đánh giá, so sánh riêng lẻ giữa một số hình phạt bổ sung với hình phạt chính, cho thấy mức độ nghiêm khắc của hình phạt bổ sung có khi còn cao hơn hình phạt chính. Ví dụ: Hình phạt tịch thu tài sản so với hình phạt tiền với tính chất là hình phạt chính hoặc cải tạo không giam giữ; hình phạt quản chế với hình phạt cảnh cáo. Tuy vậy, nhìn một cách tổng thể thì hình phạt chính vẫn là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc hơn nhiều so với hình phạt bổ sung. Do đó, khi xét xử, trong khi quyết định hình phạt bổ sung, Tòa án cần phải xem xét cân nhắc kỹ lưỡng về tình hình cụ thể của vụ án, kết hợp hài hoà các ưu điểm của hình phạt chính và hình phạt bổ sung, qua đó, tăng cường được hiệu quả của hình phạt bổ sung, đảm bảo được tốt khả năng cá thể hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt. Thứ ba, việc áp dụng hình phạt bổ sung được quy định bắt buộc hoặc tuỳ nghi áp dụng. Việc áp dụng hình phạt bổ sung có thể ở dạng tuỳ nghi hoặc bắt buộc là một đặc điểm đặc thù riêng của áp dụng hình phạt bổ sung. Trong trường hợp điều luật về tội phạm cụ thể quy định cho phép tuỳ nghi áp dụng hình phạt bổ sung thì Toà án phải lựa chọn việc áp dụng hình phạt bổ sung cho phù hợp. Khi xem xét quyết định hình phạt bổ sung, Toà án cần phải cân nhắc các tình tiết cụ thể của vụ án, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân người 10 phạm tội và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa để quyết định có áp dụng hay không áp dụng hình phạt bổ sung. Ví dụ: Khoản 4, Điều 263 Bộ luật hình sự quy định về việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ như sau: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm” [33, tr. 285]. Như vậy, trong trường hợp này điều luật quy định tuỳ nghi, tức là “có thể bị” áp dụng thì Toà án phải căn cứ toàn diện các tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội cũng như điều kiện áp dụng hình phạt bổ sung cụ thể để lựa chọn một hoặc áp dụng tất cả các hình phạt bổ sung tại khoản 4 Điều 263. Đối với các trường hợp luật quy định việc áp dụng hình phạt bổ sung là bắt buộc, tức là “còn bị” thì trong khi quyết định hình phạt, Toà án phải áp dụng hình phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính. Ví dụ: Khoản 5 Điều 353 Bộ luật hình sự quy định: “ Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm” [33, tr. 414]. Việc quy định hai phương thức áp dụng hình phạt bổ sung như trên giúp cho việc thực hiện nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, bảo đảm sự phân hóa trách nhiệm hình sự một cách triệt để. Thứ tư, Toà án có thể áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính đối với mỗi tội phạm. Chúng ta biết, mặc dù hình phạt chính là loại hình phạt được tuyên độc lập, nhưng về nguyên tắc đối với mỗi tội phạm, Toà án chỉ có thể tuyên một hình phạt chính mà điều luật về tội phạm ấy có quy định (trừ trường hợp áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng). Còn đối với hình phạt bổ sung, luật quy định không được áp dụng độc lập đối với mỗi tội phạm cụ thể và không được áp dụng với tất cả các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Tòa án chỉ có thể áp dụng kèm theo hình phạt chính một hoặc nhiều hình phạt bổ sung đối với một tội phạm cụ thể (khoản 3 Điều 32, khoản 3 Điều 33 Bộ luật hình sự). Đây là đặc điểm đặc thù của áp dụng hình phạt bổ sung so với áp dụng hình phạt chính. Ví dụ, đối với tội nhận hối lộ quy định tại Điều 354 Bộ luật hình sự thì người phạm tội ngoài việc bị áp 11 dụng hình phạt chính là “phạt tù” hoặc “tử hình” thì còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, Tòa án chỉ có thể áp dụng hình phạt bổ sung đối với một người trong một bản án kết tội về một tội phạm mà người đó thực hiện, nhưng chỉ trên cơ sở điều luật về tội phạm có quy định. Thứ năm, hình phạt bổ sung không được áp dụng đối với người bị kết án là người dưới 18 tuổi phạm tội. Người dưới 18 tuổi là người chưa có sự phát triển đầy đủ về thể chất, tâm lý, nhân cách, năng lực trí tuệ, nhân sinh quan và thế giới quan để hình thành toàn bộ những đặc điểm tâm sinh lý của một người bước vào độ tuổi thành niên. Do đó, Bộ luật hình sự quy định nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội và Bộ luật hình sự cũng quy định riêng về trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với những người dưới 18 tuổi phạm tội. Tại đoạn 3 khoản 6 Điều 91 Bộ luật hình sự quy định: “Không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” [33, tr. 67]. Đây là quy định thể hiện rõ nét nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam. Mặt khác, thực tiễn cho thấy nếu áp dụng hình phạt bổ sung đối với người bị kết án là người dưới 18 tuổi sẽ dẫn tới hiệu quả của hình phạt không cao hoặc không đạt được. Trong lứa tuổi này, đa số các em trong lứa tuổi từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi chưa có hoặc có nhưng hạn chế về nghề nghiệp, tiền, tài sản... không đảm bảo cho việc thi hành hình phạt bổ sung. 1.1.3. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt bổ sung Thực tiễn cho thấy, một hệ thống hình phạt có nhiều loại hình phạt có tính chất nghiêm khắc khác nhau, có công dụng khác nhau, có chế độ chấp hành khác nhau thì việc xử lý hình sự càng chính xác và do đó hiệu quả của hình phạt đạt được càng cao. Đa dạng hóa hình phạt trong hệ thống hình phạt là điều kiện đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn xét xử của các tòa án các cấp, bảo đảm cho việc xét xử bình đẳng, công bằng. Vì vậy, sự hiện diện của hình phạt bổ sung trong Luật hình sự bên cạnh hình phạt chính làm cho hệ thống hình phạt cân đối hơn, tương xứng 12 hơn, hoàn thiện hơn, và việc áp dụng hình phạt bổ sung bên cạnh áp dụng hình phạt chính đáp ứng tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, phù hợp với xu hướng phát triển chung của hệ thống hình phạt hiện đại; nó giúp cho việc cá thể hóa hình phạt, đảm bảo cho sự tác động có sự lựa chọn với người bị kết án, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của họ. Hay nói cách khác, áp dụng hình phạt bổ sung tạo điều kiện cho Tòa án thực hiện việc cá thể hóa hình phạt, lựa chọn biện pháp phù hợp để xử lý triệt để và công bằng đối với người bị kết án nhằm đạt được mục đích của hình phạt. Bên cạnh đó, việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người bị kết án sẽ củng cố, hỗ trợ và tăng cường cho kết quả đạt được do việc áp dụng hình phạt chính. Thực tiễn cho thấy, không phải người bị kết án nào sau khi chấp hành xong hình phạt chính sẽ có thể tái hoà nhập cộng đồng, trở thành người công dân bình thường không cần phải chịu sự tác động bắt buộc nào nữa từ phía nhà nước. Do đó, sự phối hợp nhịp nhàng giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong quyết định hình phạt với những người phạm tội sẽ củng cố, hỗ trợ và tăng cường kết quả đạt được do áp dụng hình phạt chính, nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực của hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Mục đích của hình phạt nói chung không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Để đạt được mục đích này, không chỉ cần áp dụng hình phạt chính mà trong một số trường hợp còn cần áp dụng cả hình phạt bổ sung. Áp dụng hình phạt bổ sung không chỉ có vai trò, ý nghĩa ở mặt tăng cường yếu tố cưỡng chế, trừng trị của hình phạt chính mà nó còn tạo ra khả năng tác động bằng nhiều biện pháp pháp lý hình sự đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội, mỗi biện pháp lại có khả năng tác động riêng đến từng loại quyền và lợi ích của đối tượng bị áp dụng. Mỗi loại hình phạt bổ sung đều có khả năng đưa lại những hạn chế về quyền và lợi ích nhất định đối với người bị kết án. Chính thông qua cơ chế đó tạo nên sức 13 mạnh tổng hợp của hình phạt nhằm đạt được những mục đích cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Khi áp dụng hình phạt chính đối với người bị kết án, Nhà nước hướng chủ yếu vào mục đích trừng trị, giáo dục, cải tạo phòng ngừa tội phạm. Còn khi áp dụng các hình phạt bổ sung thì Nhà nước nghiêng về mục đích phòng ngừa riêng nhiều hơn, nhưng không có nghĩa việc áp dụng hình phạt bổ sung vượt ra ngoài các mục đích chung của hình phạt. Bên cạnh tác dụng phòng ngừa tội phạm, hình phạt bổ sung vẫn còn có tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục người bị kết án. Có thể nói, hình phạt bổ sung có ưu điểm nổi bật thể hiện trong vai trò phòng ngừa tội phạm, tức là việc áp dụng hình phạt bổ sung có hiệu quả hạn chế hoặc loại trừ các điều kiện phạm tội. Trong cuốn “Hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam” của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý đã viết "Hình phạt bổ sung tác động trực tiếp vào hoàn cảnh khách quan làm cho người phạm tội mất đi các điều kiện xã hội có thể để tái phạm. Các điều kiện xã hội có thể là chức vụ công tác, nghề nghiệp chuyên môn, nơi cư trú, điều kiện đi lại hay tiền bạc tài sản của người bị kết án” [53. Tr. 230]. Thông qua việc tác động đến người bị kết án bằng cách tước bỏ những điều kiện xã hội, áp dụng hình phạt bổ sung còn có tác dụng răn đe đối với các thành viên khác trong xã hội, góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân. Mặc dù là loại hình phạt này có nội dung trừng trị không cao như hình phạt chính nhưng nó thể hiện sự lên án mạnh mẽ của nhà nước, đồng thời chủ động loại trừ điều kiện tái phạm của người bị kết án, làm tăng thêm hiệu quả của hình phạt. Mặt khác, trong thực tế khi áp dụng hình phạt bổ sung, chúng ta thấy hình phạt bổ sung có vai trò phòng ngừa cao. Ví dụ: hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng xét thấy nếu để người bị kết án vẫn đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc làm công việc mà người bị kết án đã lợi dụng hoặc lạm dụng để phạm tội thì có nguy cơ họ lại tiếp tục sử dụng để tái phạm, gây nguy hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ; hình phạt cấm cư trú được áp dụng với nội dung không cho phép người bị kết án làm ăn, sinh sống ở một hoặc một số địa phương nhất định nhằm ngăn ngừa người bị kết án lợi dụng sự thông thuộc địa bàn hoặc đặc điểm địa bàn để gây ra tội phạm mới; 14 hoặc tịch thu tài sản với nội dung là tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của người bị kết án nhằm mục đích trực tiếp ngăn ngừa họ lợi dụng tiềm lực kinh tế của mình để tiếp tái phạm, trục xuất là buộc người nước ngoài phạm tội phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam với mục đích ngăn ngừa họ sử dụng lãnh thổ nước ta để phạm tội mới gây thiệt hại cho an ninh, trật tự an toàn xã hội của đất nước ... Ngoài ra, áp dụng hình phạt bổ sung còn có ý nghĩa nâng cao vai trò tích cực của chính quyền địa phương, các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và công dân trong công tác phòng, chống tội phạm. Đối với đa số các hình phạt bổ sung, khi thi hành đều đòi hỏi có sự tham gia tích cực của các đoàn thể và quần chúng nhân dân. Ví dụ: Khi thi hành các bản án có hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; quản chế; cấm cư trú; tước một số quyền công dân thì vai trò của chính quyền địa phương, của các cơ quan, tổ chức và công dân là rất quan trọng. Các cơ quan, tổ chức này chính là những cơ quan thi hành hình phạt. Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội, các đoàn thể, người thân của người bị kết án là những cá nhân, tổ chức góp phần giáo dục, ngăn ngừa người bị kết án tiếp tục phạm tội mới. Mặt khác, quá trình thi hành hình phạt bổ sung ở địa phương còn có mục đích gián tiếp tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho những thành viên khác trong xã hội, nâng cao ý thức tuân theo pháp luật trong quần chúng nhân dân. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về hình phạt bổ sung 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 Đây là giai đoạn từ khi bắt đầu xây dựng nền móng pháp luật hình sự của Nhà nước kiểu mới đến trước khi chấm dứt hoàn toàn việc áp dụng pháp luật của chế độ thực dân - phong kiến. Giai đoạn này Nhà nước ta chưa xây dựng được hệ thống pháp luật hình sự mới, nên bên cạnh việc xóa bỏ một bộ phận các đạo luật hình sự thời kỳ thực dân - phong kiến, Nhà nước Việt Nam mới đã quyết định vẫn tạm thời giữ lại một số đạo luật hình sự, trong đó có chế định hình phạt bố sung của chế độ cũ với việc đưa vào đó nội dung giai cấp mới. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 về việc tạm thời áp dụng các đạo luật hiện hành trước khi ban hành các bộ luật thống nhất của cả nước với yêu cầu là các đạo luật này chỉ 15 được áp dụng khi nó không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Điều 12). Chiểu theo Sắc lệnh này, một số hình phạt bổ sung được quy định trong ba Bộ luật hình sự của chế độ cũ vẫn tiếp tục giữ hiệu lực áp dụng ở ba kỳ (Bộ luật hình sự Bắc Kỳ, Bộ luật hình sự Trung Kỳ và Bộ luật hình sư Pháp tu chính). Các hình phạt bổ sung trong các Bộ luật hình sự đó là: Tịch thu tài sản (tịch thu toàn sản hoặc tịch thu đặc định), buộc phải bồi thường chi phí hay tổn hại, cấm quyền, tước quyền công dân, lưu sứ, quản thúc, câu thúc thân thể, niêm yết tên tuổi phạm nhân nơi công cộng. Bên cạnh việc giữ lại một bộ phận pháp luật hình sự của chế độ thực dân phong kiến, Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền móng của pháp luật hình sự kiểu mới bằng việc ban hành các văn bản pháp luật hình sự, mà chủ yếu là các sắc lệnh để kịp thời bảo vệ các thành quả của cách mạng. Trong các văn bản pháp luật hình sự này, hình phạt bố sung đã được quy định và từng bước hoàn thiện. Ví dụ như hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại Sắc lệnh số 68 ngày 30/11/1945 về các tội vi phạm thể lệ trưng thu, trưng dụng, trưng tập. Sau đó hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung và quy định cụ thể trong Sắc lệnh số 45 ngày 5/4/1946 quy định các tội vi phạm thể lệ về lạc quyên, xổ số; Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/4/1948 quy định các tội tổ chức đánh bạc, tội đánh bạc, tội gá bạc; Sắc lệnh số 123/SL ngày 27/10/1949 về vi phạm thể lệ chữa bệnh, chế thuốc; Sắc lệnh số 89/SL ngày 22/5/1950 cấm việc cho vay lãi chồng thành gốc; Nghị định số 150/TTg ngày 5/3/1952 của Thủ tướng Chính phủ về tội phạm vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện; Hình phạt tịch thu tài sản được quy định là hình phạt bổ sung cũng quy định tại Sắc lệnh số 68 ngày 30/11/1945 về các tội vi phạm thể lệ trưng thu, trưng dụng, trưng tập. Sau đó tịch thu tài sản được quy định trong Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946; Sắc lệnh số 163 ngày 23/3/1946 tổ chức Tòa án binh lâm thời đặt tại Hà Nội; Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 truy tố các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ; Sắc lệnh số 133 ngày 20/01/1953 về trừng trị tội phản cách mạng; Hình phạt cấm hành nghề hoặc công việc nhất định được quy định tại Sắc lệnh số 157/SL ngày 16/8/1946. Theo sắc lệnh này, hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính, còn biện pháp bắt phải đóng cửa hiệu bào chế 16 là hình phạt bổ sung; Hình phạt tước quyền công dân được quy định tại Sắc lệnh số 106/SL ngày 5/6/1950 về tội trốn tránh nghĩa vụ tòng quân. Điều 2 của Sắc lệnh quy định những người bị kết án phạt tù có thể bị tước tất cả quyền công dân… Như vậy, trong vòng 10 năm (từ 1945 đến năm 1955), bên cạnh việc tạm thời giữ hiệu lực pháp luật của một số văn bản pháp luật hình sự liên quan đến hình phạt bổ sung của thời kỳ thực dân - phong kiến, nhiều văn bản pháp luật hình sự và cả các văn bản pháp luật khác có tính chất hình sự quy định về tội phạm và hình phạt của chế độ mới đã được ban hành, thể hiện thành quả mang tính sáng tạo, nhân văn và các nguyên tắc, tư tưởng tiến bộ của nhân loại, các giá trị văn hóa, đạo đức, truyền thống của dân tộc, phản ánh nhu cầu khách quan của xã hội, những đòi hỏi của quá trình xây dựng Nhà nước kiểu mới và đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong quá trình xây dựng nền móng của hệ thống pháp luật hình sự kiểu mới, nhà làm luật rất chú ý đến vai trò và công dụng của các hình phạt bổ sung, nên ngay trong những văn bản pháp luật hình sự đầu tiên được ban hành, hình phạt bổ sung đã được quy định áp dụng đối với từng loại tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, dù đã có một số quy định về hình phạt bổ sung nhưng pháp luật hình sự trong thời kỳ này vẫn còn nhiều hạn chế như không có sự phân biệt rạch ròi giữa hình phạt chính với hình phạt bổ sung; các hình phạt bổ sung trong các văn bản pháp luật còn quy định chung chung, không nêu rõ được nội dung, phạm vi, điều kiện, thời hạn áp dụng đối với từng loại hình phạt. 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1985 Giai đoạn này, pháp luật của nước ta đã xóa bỏ các quy định của chế độ thực dân - phong kiến, do đó các chế định về hình phạt bổ sung cũng được quy định phù hợp với tình hình mới. Từ năm 1955 đến năm 1985 (trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành), Nhà nước ta đã ban hành nhiều sắc lệnh, pháp lệnh quy định về những loại tội phạm, nhóm tội phạm cụ thể và đường lối xử lý đối với các tội phạm đó, trong đó có những văn bản pháp luật hình sự quan trọng như: Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/06/1956 về trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, cản trở việc thực hiện chính sách, kế 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan