Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ áp dụng căn cứ ly hôn tại tòa án nhân dân quận thanh xuân – thành phố hà nội ...

Tài liệu áp dụng căn cứ ly hôn tại tòa án nhân dân quận thanh xuân – thành phố hà nội

.PDF
85
127
123

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƢ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI TRẦN NGUYỄN THỊ TÂM ĐAN ĐỀ TÀI ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƢ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI TRẦN NGUYỄN THỊ TÂM ĐAN ĐỀ TÀI ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60380103 Ngƣời hƣớng dẫn khóa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ Hà Nội - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này Tác giả luận văn Trần Nguyễn Thị Tâm Đan MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014.................................................................. 5 1.1. Khái niệm chung về ly hôn và căn cứ ly hôn .............................................. 5 1.1.1. Định nghĩa ly hôn ..................................................................................... 5 1.1.2. Định nghĩa căn cứ ly hôn ......................................................................... 6 1.2. Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ......................... 7 1.2.1. Khái quát quy định về căn cứ ly hôn trong pháp luật Việt Nam.............. 7 1.2.2. Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ..... 19 1.3. Các trường hợp áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 .... 21 1.3.1. Áp dụng căn cứ ly hôn khi hai vợ chồng thuận tình ly hôn ................... 21 1.3.2. Áp dụng căn cứ ly hôn khi một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn ............... 30 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN .................................................................................. 43 2.1. Kết quả đạt được trong việc áp dụng căn cứ ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội ............................................................. 43 2.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân ................................................... 45 2.2.1. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn khi hai vợ chồng thuận tình ly hôn .... 46 2.2.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn khi một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn...... 47 CHƢƠNG 3: NHỮNG VƢỚNG MẮC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KHI ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 ............................................................................................ 52 3.1. Những vướng mắc khi áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 .................................................................................................. 52 3.1.1. Quy định của pháp luật hiện hành về căn cứ ly hôn còn chung chung, trừu tượng, xem xét đánh giá mức độ trầm trọng của mâu thuẫn chưa đầy đủ và toàn diện, khó áp dụng trong thực tiễn xét xử ............................................. 52 3.1.2. Hiện tượng ly thân đang có xu hướng phát triển ở Việt Nam, có thể được coi là một căn cứ để giải quyết ly hôn .................................................... 54 3.1.3. Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn chưa quy định căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt tù ......................... 56 3.2. Kiến nghị hoàn thiên việc áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ............................................................................................ 56 3.2.1. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần lượng hóa các tiêu chí về nội dung căn cứ ly hôn theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình để Tòa án áp dụng thuận lợi, tránh lạm dụng, tùy tiện khi giải quyết ly hôn. ................................................................. 56 3.2.2. Ly thân như một căn cứ khi xem xét giải quyết ly hôn. .......................... 60 3.2.3. Quy định rõ hơn trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù ............................................................................... 64 3.2.4. Tăng cường phát triển án lệ, trong đó có án lệ về quan hệ hôn nhân. .. 65 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài. Theo học thuyết Mác - Lênin, hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) là những hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Trong xã hội có giai cấp, các quan hệ hôn nhân và gia đình cũng thể hiện tính giai cấp sâu sắc. Quan hệ HN&GĐ là mối quan hệ tất yếu trongxã hội. Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, Nhà nước luôn bằng pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ. Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng. Gia đình còn là nơi những thành viên cùng chia sẻ tình thương, kinh nghiệm, những giá trị truyền thống đạo đức, trách nhiệm, sự gắn bó và niềm tự hào về gia đình. Từ xưa đến nay, gia đình luôn là tổ ấm mang lại giá trị hạnh phúc, sự bình yên trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên trong xã hội. Sự an bình của mỗi gia đình là tiền đề quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, là nền tảng để mỗi cá nhân vươn tới hoàn thiện, góp sức mình vào việc xây dựng xã hội phồn vinh, tiến bộ. Quan hệ gia đình là tổng hòa các quan hệ nhân thân và các quan hệ tài sản, các quan hệ này có sự ràng buộc lệ thuộc lẫn nhau và tác động qua lại một cách hài hòa. Trong một gia đình thực sự bền vững và hạnh phúc thì mỗi thành viên trong gia đình đều tìm thấy sự thỏa mãn nhu cầu về vật chất, tình cảm của mình. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng lại bắt nguồn từ quan hệ nhân thân giữa hai con người với đặc trưng là sự phát sinh quyền, nghĩa vụ khi họ kết hôn trở thành vợ chồng của nhau. 2 Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, quan hệ giữa con người với con người, trong đó có quan hệ HN&GĐ cũng bị tác động mạnh mẽ. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân, lý do khác nhau, các trường hợp có yêu cầu ly hôn ở nước ta gia tăng theo thời gian. Theo số liệu thống kê của Tòa án các cấp, trong cả nước, hàng năm số lượng các vụ việc về HN&GĐ mà Tòa án đã thụ lý giải quyết khoảng trên 100.000 vụ việc, chủ yếu là các vụ việc ly hôn và tranh chấp về tài sản, về con chung. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ việc ly hôn là Tòa án nhân dân, cần phải đưa ra những phán quyết chính xác hợp lý trong việc xét xử bác đơn xin ly hôn hay chấp nhận yêu cầu ly hôn của vợ chồng. Để làm được điều đó, một trong những yêu cầu là phải có các văn bản pháp luật hướng dẫn chặt chẽ cụ thể, hợp lý đối với việc thực hiện và áp dụng căn cứ ly hôn trong xét xử ly hôn. Các văn bản hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn phải cụ thể, thống nhất; thể hiện, phản ánh được tính đa dạng, phức tạp trong quan hệ hôn nhân khi giải quyết ly hôn. Đồng thời phải có tính khả thi để đảm bảo thực tế một cách đúng đắng về yêu cầu ly hôn và bản chất hôn nhân của các đương sự. Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo đảm ổn định cuộc sống gia đình trong xã hội. Tuy nhiên, qua giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình của ngành Tòa án cho thấy, quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về căn cứ ly hôn với nội dung chưa có sự thống nhất khi áp dụng, chưa phù hợp với thực tiễn, có những quy định mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác hoặc chưa phù hợp, thiếu rõ ràng dẫn tới những cách hiểu khác nhau; có những quy định chưa bảo đảm được quyền,lợi ích của các đương sự. Một số vấn đề mới phát sinh trong xã hội chưa được pháp luật về hôn nhân và gia đình điều chỉnh. Việcnghiên cứu đề tài: “Áp dụng căn cứ ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân - Thành phố Hà Nội ” sẽ góp phần làm rõ thêm về lý luận và 3 thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn tại Tòa án nói chung, ở TAND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội nói riêng. Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định, việc nghiên cứu đề tài cũng góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về căn cứ ly hôn và việc áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ, việc ly hôn hiện nay ở nước ta. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.  Mục đích nghiên cứu đề tài: Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích về mặt lý luận căn cứ ly hôn, phân tích nội dung căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 cũng như việc áp dụng căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.  Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài - Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để quy định về căn cứ ly hôn; phân tích nội dung căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, có sự so sánh với các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn trước đây. - Phân tích việc áp dụng căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 qua thực tiễn xét xử tại các Tòa án trên địa bàn quận Thanh Xuân. - Đưa ra một số kiến nghị và hướng hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ ly hôn. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài.  Đối tƣợng nghiên cứu - Nghiên cứu các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về căn cứ ly hôn; - Nội dung căn cứ ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 - Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn qua một số bản án, quyết định giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 4  Phạm vi nghiên cứu đề tài - Đề tài nghiên cứu quy định về căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014, có sự so sánh với các quy định trong hệ thống pháp luật HN&GĐvề căn cứ ly hôn ở Việt Nam. - Đánh giá và phân tích thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 để giải quyết ly hôn tại TAND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. - Luận văn không nghiên cứu việc áp dụng căn cứ ly hôn đối với trường hợp ly hôn có yếu tố nước ngoài. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài. Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài. Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp… Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa; xem xét nội dung quy định về căn cứ ly hôn và vấn đề áp dụng pháp luật về căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại TAND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 5. Kết cấu luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Lý luận về căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Chương 2: Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tại Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội Chương 3: Những vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện khi áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 5 CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 1.1. Khái niệm chung về ly hôn và căn cứ ly hôn 1.1.1. Định nghĩa ly hôn Ly hôn là một hiên tượng xã hội,vì vậy nó mang tính giai cấp sâu sắc. Cụ thể, đối với quy định của pháp luật về ly hôn ở nhà nước phong kiến, tư sản quy định có thể cấm ly hôn (không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ chồng được sống tách biệt nhau (biệt cư) bằng chế định ly thân; bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi của vợ chồng; hoặc thường quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ chồng (các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất quan hệ hôn nhân đã tan vỡ). Ngược lại, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình.Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các thành viên trong gia đình. Ly hôn là một hình thức để chấm dứt hôn nhân do Tòa án (cơ quan nhà nước có thẩm quyền) công nhận sự thuận tình ly hôntheo yêu cầu của hai vợ chồng hoặc theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng. Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, giải quyết ly hôn; có vai trò quan trọng trong việc góp phần tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật. Phán quyết ly hôn của Tòa án được thể hiện dưới hai hình thức: Quyết định hoặc bản án ly hôn. Nếu hai vợ chồng thuận tình ly hôn (cùng thực sự tự 6 nguyện ly hôn) và đã thỏa thuận được với nhau giải quyết tất cả các nội dung của quan hệvợ chồng như về tài sản chung và con chung khi ly hôn; xét thấy quyền và lợi ích chính đáng của vợ, con chưa thành niên được bảo đảm thì Tòa án công nhận cho vợ chồng thuận tình ly hôn; hoặc ra bản án ly hôn trong trường hợp một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn khi hôn nhân đã tan vỡ (tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được). Thực chất của ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đã giải thích: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. 1.1.2. Định nghĩa căn cứ ly hôn Các Mác viết: “Về mặt hôn nhân, nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện trong đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực chất, hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi. Việc Tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ có thể là việc ghi biên bản công nhận sự tan rã bên trong của nó. Quan điểm của nhà lập pháp là quan điểm của tính tất yếu”. Vậy, để chứng minh cho tính tất yếu này, Tòa án cần dựa trên những cơ sở nhất định. Căn cứ vào các cơ sở đó, khi xem xét, đánh giá thực trạng của mộtmối quan hệ hôn nhân, Tòa án có thể nhận định mối quan hệ hôn nhân đó đã tan vỡ hay chưa. Nhận định là yếu tố mang tính chủ quan, để đánh giá yếu tố chủ quan có chính xác hay không, chúng ta cần xem xét những hiện tượng khách quan phản ánh (quan hệ biện chứng giữa hiện tượng và bản chất). Những hiện tượng ấy phải có mối quan hệ biện chứng với bản chất tan vỡ của quan hệ hôn nhân, phản ánh bản chất của hôn nhân. Bản chất quan hệ hôn nhân đã tan vỡ bộc lộ ra bên ngoài bằng nhiều hiện tượng khác nhau, mỗi hiện tượng chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất. 7 Nhà nước công nhận quyền tự do ly hôn, tuy nhiên việc ly hôn phải dựa trên bản chất của mối quan hệ hôn nhân, đồng thời đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của vợ, chồng và các bên liên quan. Như vậy, để đảm bảo những yếu tố trên, nhà lập pháp dự liệu những cơ sở, căn cứ giải quyết ly hôn và yêu cầu kiểm soát việc ly hôn thông qua Tòa án. Tòa án khi giải quyết ly hôn phải áp dụng chính xác nội dung căn cứ ly hôn và chỉ được quyết định cho vợ chồng ly hôn khi thực chất quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Từ những phân tích trên, có thế đưa ra định nghĩa căn cứ ly hôn như sau: Căn cứ ly hôn là những cơ sở, lập luận dựa trên nhưng biểu hiện mang tính khách quan của một mối quan hệ hôn nhân mà dựa vào đó, trên cơ sở yêu cẩu của một bên hoặc cả hai vợ chồng, Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc bản án xét xử cho ly hôn. Cũng có thể hiểu “căn cứ ly hôn là những tình tiết hây điều kiện được quy định trong pháp luật, chỉ khi có những tình tiết hay điều kiện đó, Tòa án mới được xử cho ly hôn”. 1.2. Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 1.2.1. Khái quát quy định về căn cứ ly hôn trong pháp luật Việt Nam Ly hôn là một hiện tượng của xã hội, là một mặt (mặt trái) của quan hệ hôn nhân khi hôn nhân đã tan vỡ. Trong xã hội có giai cấp, ly hôn cũng thể hiện tính giai cấp. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với xã hội mà Nhà nước luôn bằng pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, trong đó có vấn đề ly hôn. Đối với kết hôn, pháp luật quy định trong những điều kiện nào thì hai bên nam, nữ được xác lập quan hệ hôn nhân; đối với việc chấm dứt quan hệ hôn nhân, pháp luật cũng quy định trong những điều kiện, căn cứ nào thì mới cho phép chấm dứt quan hệ hôn nhân. Hệ thống pháp luật về HN&GĐ ở Việt Nam quy định về căn cứ ly hôn với những nội dung khác nhau qua từng thời kỳ. 8 Thời kỳ phong kiến Pháp luật phong kiến Việt Nam đã hình thành từ lâu (Thời nhà Lý có Bộ luật Hình thư năm 1042; thời nhà Trần có Quốc Triều Thông Chế năm 1230,…; thời Hồ có Đại Ngu Quan Chế Hình Luật năm 1401). Tuy nhiên, những hệ thống pháp luật nêu trên chỉ chủ yếu tập trung vào việc củng cố bộ máy của triều đình và những quy định liên quan đến ruộng đất. Còn quy định liên quan đến ly hôn chỉ được quy định bắt đầu từ thời Hậu Lê (Giai đoạn 1427-1789), cụ thể là Bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi là Bộ Quốc triều hình luật) được ban hành dưới triều đại vua Lê Thánh Tông và sau đó là thời Nguyễn với Bộ luật Gia Long (hay còn gọi là Hoàng Việt Luật Lệ. Căn cứ ly hôn thời kỳ này thường được gọi là “duyên cớ ly hôn” hay “các trường hợp ly hôn”. Duyên cớ ly hôn trong pháp luật phong kiến thể hiện sự bất bình đẳng rõ nét (Trọng nam kinh nữ và bảo vệ quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân). Duyên cớ ly hôn thời kì này gồm: rẫyvợ, hai bên thỏa thuận và trường hợp khác. Rẫy vợ là việc người chồng đơn phương bỏ vợ. Đoạn 164 Bộ luật Hồng Đức và Điều 108 Bộ luật Gia Long đều qui định người chồng có quyền bỏ vợ khi vợ phạm vào tội thất xuất - bảy lỗi của người vợ như sau: Vô tử (không có con), đố kị (ghen tuông), dâm dật (người vợ có hành vi lẳng lơ, dâm đãng), không kính trọng bố mẹ chồng, bất hòa (không hòa thuận với anh em), trộm cắp (không bỏ vợ thì vạ lây đến nhà chồng), ác tật (bị bệnh phong hủi). Sự trọng nam khinh nữ được thể hiện qua việc không có con lỗi đương nhiên là của người vợ và duyên cớ còn lại qui vào lỗi của người vợ và không áp dụng đối với người chồng. Tuy nhiên, pháp luật phong kiến cũng qui định chế độ utam bất khứ’ để bảo vệ người phụ nữ: người chồng không được bỏ vợ cho dù vợ phạm thất xuất trong trường hợp khi lấy nhau vợ chồng nghèo nhưng về sau giàu có (tiền bần tiện, hậu phú quý), hoặc khi vợ đã đế tang nhà 9 chồng ba năm (dữ canh tam niên tang), hoặc khi lấy nhau vợ còn bà con họ hàng nhưng khi bỏ nhau vợ không còn nơi nương tựa (hữu sở thú, vô sở quy). Qui định này thể hiện sự quan tâm tới số phận người phụ nữ, cũng thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam. Qui định này xuất phát từ truyền thống về tình nghĩa vợ chồng phù hợp với đạo lí của người Việt Nam, bảo vệ những quyền lợi cơ bản tối thiểu cho người vợ. Pháp luật phong kiến qui định khi vợ hoặc chồng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ vợ chồng thì bắt buộc phải ly hôn. Như vậy, việc bắt buộc ly hôn được coi là hình phạt cho những hành vi vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng. Điều 308 Bộ luật Hồng Đức qui định: “phàm người chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại thì mất vợ (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng). Nếu vợ đã có con thì cho hạn 1 năm. Vĩ việc quan phải đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ, mà lại ngăn cản người khác lấy vợ mình, thì phải tại biếm”. Đồng thời, Điều 108 Bộ luật Gia Long thì qui định khi vợ chồng phạm phải điều “ nghĩa tuyệt ” thì buộc phải ly hôn. “ Nghĩa tuyệt ” có thể do lỗi của vợ (mưu sát chồng), lỗi của người chồng (chồng bán vợ) hoặc là lỗi của hai vợ chồng. Riêng trường họp vợ phạm phải nghĩa tuyệt mà chồng không bỏ thì chồng cũng bị phạt 80 trượng. Bộ luật Hồng Đức coi các trường hợp thất xuất đông thời là các trường hợp của nghĩa tuyệt (ân nghĩa vợ chồng bị đoạn tuyệt), bắt người chồng phải bỏ vợ nếu người vợ phạm phải bảy trường hợp trên. Trong khi đó, Bộ luật Gia Long phân biệt rạch ròi giữa thất xuất và nghĩa tuyệt. Tuy phạm phải một trong các trường hợp của “thất xuất” nhung nếu người vợ ở trong trường hợp “tam bất khứ” (ba trường họp người chồng không thể bỏ vợ được) thì người chồng không được phép bỏ vợ. Pháp luật phong kiến cho phép vợ chồng thỏa thuận ly hôn trong trường hợp không hợp tính tình. Tuy nhiên, do chế độ gia trưởng dưới thời Nguyễn nên vai trò của người đàn ông hoàn toàn áp đảo vai trò của người phụ nữ cả 10 trong quan hệ hôn nhân và quan hệ xã hội, vị trí của vợ và chồng không ngang bằng, ly hôn do sự thuận tình, một giao dịch đòi hỏi vợ chồng đều có quyền bày tỏ ý chí trở thành một chế định không thích hợp với tư duy pháp lí thời kỳ này. Như vậy, các căn cứ ly hôn thời kì này được xây dựng dựa trên lỗi của vợ hoặc chồng, chủ yếu là dựa vào lỗi của người vợ hoặc chồng. Quyền tự do ly hôn của vợ chồng cũng không được đảm bảo khi pháp luật qui định một số trường hợp bắt buộc vợ chồng phải ly hôn mà bỏ qua ý chí của vợ chồng. Nhà nước đã can thiệp quá sâu vào quan hệ hôn nhân của vợ chồng, coi ly hôn như một chế tài áp dụng đối với vợ chồng khi vợ chồng có “lỗi”. Căn cứ ly hôn thời kì này thế hiện rõ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân. Qua đó cho thấy địa vị thấp kém của người phụ nữ trong xã hội và gia đình phong kiến. - Thời kỳ Pháp thuộc (từ năm 1858 đến trước năm 1945) Từ năm 1858 đến trước năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Thời kì này, thực dân Pháp chia nước ta thành ba miền, mỗi miền áp dụng một bộ dân luật để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Ở Bắc Kì áp dụng qui định của Bộ dân luật năm 1931 ở Trung Kì áp dụng qui định của Bộ dân luật năm 1936, ở Nam Kì áp dụng Bộ dân luật giản yếu năm 1883. Nội dung và kĩ thuật lập pháp của ba bô dân luật này vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp ( 1804) (còn gọi là Bộ luật Napôlêông), vừa thể hiện quan điểm lạc hậu của giai cấp phong kiến Việt Nam. Bộ dân luật Bắc Kì và Trung Kì qui định căn cứ ly hôn dựa vào lỗi của vợ chồng. Hai bộ luật này qui định những duyên cớ ly hôn riêng cho người chồng (dựa vào lỗi của vợ), những duyên cớ ly hôn cho người vợ (dựa vào lỗi của người chồng) và những duyên cớ ly hôn chung cho cả hai vợ chồng. 11 Điều 118 Bộ dân luật Bắc Kì và Điều 117 Bộ dân luật Trung Kì qui định duyên cớ ly hôn của người chồng là những lỗi của vợ như sau: Vợ phạm gian; vợ bỏ nhà chồng mà đi, tuy đã buộc về mà không về; vợ thứ đánh chửi, bạo hành vợ chính. Điều 119 Bộ dân luật Bắc Kì và Điều 118 Bộ dân luật Trung Kì qui định duyên cớ ly hôn của người vợ khi người chồng có những lỗi sau: Người chồng không thi hành nghĩa vụ nuôi nấng vợ con tùy theo kế sinh nhai; người chông bỏ nhà đi quá hai năm (theo Bộ dân luật Bắc Kì) và quá một năm (theo Bộ dân luật Trung Kì) mà không có duyên cớ chính đáng và không cấp dưỡng cho vợ con; hoặc chồng không có lí do chính đáng mà đuối vợ ra khỏi nhà mình; chồng làm trái trật tự vợ chính, vợ thứ. Cả hai vợ chồng có thế xin ly hôn khi có những duyên cớ qui định tại Điều 120 Bộ dân luật Bắc Kì và Điều 119 Bộ dân luật Trung Kì như sau: Bên nọ quá khắc hành hạ, chửi rủa thậm tệ đối với bên kia, hoặc với tổ phụ bên kia; một bên can án trọng tội; một bên vô hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia không thể ở chung được; vì một bên tâm thần mà ai cũng biết hoặc phải ở suốt đời trong bệnh viện. Tại Nam Kì, Bộ dân luật giản yếu Nam Kì năm 1883 qui định quyền ly hôn chỉ do người chồng quyết định và quyền ly hôn này được hạn chế bởi chế đô “tam bất khứ” kế thừa từ cổ luật phong kiến Việt Nam, còn người vợ thì không có quyền yêu cầu ly hôn. Ngoài ra, luật còn ghi nhận quyền xin ly hôn trong trường hợp chồng bỏ lửng vợ: “Nếu chồng vô cớ 5 tháng không về với vợ thì người vợ có quyền đi tố cáo và người chồng sẽ bị mất vợ, nếu họ đã có con cái với nhau thì cho thời hạn đó là một năm... ” (Bộ dân luật giản yếu Nam Kì năm 1883, thiên thứ VI). Qui định này thể hiện rõ trách nhiệm của người chồng, thể hiện sự kế thừa pháp luật phong kiến nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ, ràng buộc nghĩa vụ của người chồng đối với gia 12 đình. Qui định này tương đối tiến bộ, có ý nghĩa giúp giải thoát cho người vợ, bảo vệ quyền lợi cho người vợ trong chừng mực nhất định. Pháp luật qui định về căn cứ ly hôn thời kì này vừa có sự kế thừa pháp luật phong kiến trên cơ sở những phong tục, tập quán lạc hậu, vừa có sự tiếp thu kỹ thuật lập pháp của pháp luật Cộng hòa Pháp, phản ánh những đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền lợi giai cấp. Nhìn chung vẫn duy trì chế độ bất bình đẳng trong quan hệ giữa vợ và chồng, củng cố quyền của người gia trưởng, qui định nhiều căn cứ đế người chồng được yêu cầu ly hôn hơn người vợ. Căn cứ ly hôn thời kì này vẫn được qui định dựa vào lỗi của vợ chồng, không dựa vào bản chất của quan hệ vợ chồng. - Thời kì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (từ năm 1945 đến năm 1954) Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ năm 1945 đến 1950, do điều kiện lịch sử nên Nhà nước ta chưa ban hành ngay luật cụ thể thể điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Sắc lệnh số 47) cho phép tạm thời áp dụng những qui định trong pháp luật cũ có chọn lọc, theo nguyên tắc không trái với lợi ích của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và lợi ích của nhân dân lao động. Bên cạnh Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật; trong đó đã ghi nhận quyền tự do kết hôn của các con đã thành niên; ngày 17/11/1950, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 159/SL qui định về vấn đề ly hôn (Sắc lệnh số 159/SL), trong đó đã xóa bỏ sự bất bình đẳng về các duyên cớ ly hôn. Điều 2 Sắc lệnh số 159/SL qui định Toà án có thế cho phép vợ hoặc chồng ly hôn trong những trường hợp sau: Ngoại tình; một bên can án phạt giam; một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa khỏi; một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng; vợ chồng tính tình không được hoặc đối xử với nhau đến nổi không thể sống chung được. 13 Sắc lệnh số 159/SL đã xóa bỏ những duyên cớ ly hôn dựa trên lỗi của mỗi bên vợ chồng mà qui định duyên cớ ly hôn áp dụng chung cho cả vợ và chồng. Bên cạnh việc qui định duyên cớ ly hôn dựa vào yếu tố lỗi thì Sắc lệnh số 159/SL đã dần hướng tới căn cứ vào thực chất của quan hệ vợ chồng. Điều này được thể hiện qua duyên cớ ly hôn qui định tại khoản 5 Điều 2 sắc lệnh số 159/SL: “Vợ chồng tính tình không hợp hoặc đổi xử với nhau đến nỗi không thể song chung được”. Thực tế vợ chồng chung sống với nhau mà tính cách không họp, luôn có những mâu thuẫn, bất đồng thì khó có thể duy trì đời sống chung. Trong trường hợp này thì ly hôn chính là giải pháp đế giải phóng cho vợ chồng khỏi cuộc hôn nhân đã tan vỡ. Cả hai Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL đã góp phần không nhỏ vào việc xóa bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, đề ra một số nguyên tắc chung, giải phóng phụ nữ khỏi vị thế bất bình đẳng trong quan hệ giữa vợ và chồng, thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nội dung của hai sắc lệnh này đã thể hiện tính dân chủ và tiến bộ của một nền pháp chế mới. Tuy nhiên, căn cứ ly hôn thời kì này vẫn được qui định chủ yếu dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng mà chưa hoàn toàn dựa trên bản chất của quan hệ vợ chồng. - Thời kỳ từ năm 1954 đến trƣớc năm 1975 Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975, do đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau nên ở mỗi miền có một hệ thống pháp luật khác nhau. Ở miền Bắc, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 (còn gọi là Đạo luật số 13 về hôn nhân và gia đình) được Quốc hội khóa I thông qua ngày 29/12/1959 và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 13/01/1960. Lần đầu tiên, tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ ly hôn được qui định dựa trên bản chất của quan hệ vợ chồng. 14 Điều 25 Luật HN&GĐ năm 1959 qui định về căn cứ ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn như sau: “Khi hai bên vợ chồng xin thuận tình ly hôn, thì sau khi điều tra, nếu xét đúng là hai bên tự nguyện xin ly hôn, Toà án nhân dân sẽ công nhận việc thuận tình ly hôn” Điều 26 Luật HN&GĐ năm 1959 qui định trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: “Khi một bên vợ hoặc chồng xỉn ly hôn, cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hoà giải. Hoà giải không được, Toà án nhân dân sẽ xét xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, thì Toà án nhân dân sẽ cho ly hôn”. Ớ miền Nam, chế độ hôn nhân và gia đình giai đoạn này được qui định trong ba văn bản: Luật gia đình ngày 02/01/1959 (luật số 1 - 59) dưới chế độ Ngô Đình Diệm; Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng dưới chế độ Nguyễn Khánh; Bộ dân luật ngày 20/12/1972 dưới chê độ Nguyễn Văn Thiệu. Những văn bản này đều qui định căn cứ ly hôn trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng, đặc biệt Luật gia đình dưới chế độ Ngô Đình Diệm đã cấm vợ chồng ly hôn (Điều 55). Sắc luật số 15/64 dưới chế độ Nguyễn Khánh và Bộ dân luật dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu qui định căn cứ ly hôn dựa trên những “lỗi” sau: Vì sự ngoại tình của người phối ngẫu; Vì người phối ngẫu bị kết án trọng hình về thường tội; Vì sự ngược đãi, bạo hành hay nhục mạ, có tính cách thậm từ và tái diễn khiến vợ chồng không thể ăn ở với nhau nữa. Miền Bắc trong hoàn cảnh cải cách xây dựng Xã hội Chủ nghĩa qui định căn cứ ly hôn dựa vào thực trạng quan hệ vợ chồng phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Miền Nam dưới chế độ thực dân nửa phong kiến vẫn chịu ảnh hưởng của pháp luật tư sản, qui định căn cứ ly hôn dựa vào yếu tố “lỗi” – một yếu tố mang tính chủ quan vad dùng các sự việc khách quan để đánh giá. 15 Do ở hai miền đất nước với hai bộ máy chính quyền, sự ảnh hưởng của giai cấp thống đã dẫn đến căn cứ ly hôn ở hai miền được qui định khác nhau. - Thời kì từ năm 1975 đến nay Tính đến thời điểm hiện tại, đã có bốn Luật HN&GĐ đã được ban hành lần lượt qua các năm 1959, 1986, 2000 và 2014. “Tuổi thọ” của Luật HN&GĐ nhìn qua có thể thấy bền hơn một số luật khác. Điều này chứng tỏ tính ổn định của Luật HN&GĐ. Thứ nhất, Luật HN&GĐ năm 1959 được áp dụng trong phạm vi cả nước theo Nghị quyết số 76/CP ngày 25/3/1977 của Hội đồng Chính phủ. Cụ thể, nguyên tắc chung khi xác định căn cứ ly hôn đều là dựa vào bản chất quan hệ vợ chồng. Thứ hai, Điều 40 Luật HN&GĐ năm 1986 qui định về căn cứ ly hôn như sau: “Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, thì Toà án nhân dân công nhận cho thuận tình ly hôn. Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thế kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn.” Thứ ba, Luật HN&GĐ năm 2000, Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “1.Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.” So với các Luật HN&GĐ thời kỳ trướckhông tách biệt căn cứ ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn và trường hợp ly hôn theo yêu cầu một bên
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất