Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự vi...

Tài liệu áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bình phước

.PDF
92
41
77

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THÀNH LONG ÁP DỤNG ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THÀNH LONG ÁP DỤNG ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng dẫn của GS.TS Võ Khánh Vinh . Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi có tham khảo một số bài viết, công trình nghiên cứu và các tài liệu liên quan của các tác giả, cơ quan Nhà nước, những số liệu trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Việc sử dụng các nguồn tham khảo được trích dẫn, chỉ ra trong Danh mục tài liệu tham khảo. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên. TÁC GIẢ LÊ THÀNH LONG MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ....7 1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội ...................................................................................................................7 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội ......................................................................................26 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC ...............49 2.1. Tổng quan kết quả thụ lý và giải quyết các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên phạm tội ...............................................................................................49 2.2. Kết quả áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Phước.....................................................................................................51 Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ÁN TREO ĐÚNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ...............................................64 3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng án treo đúng đối với người chưa thành niên phạm tội .................................................................................................................64 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng án treo đúng đối với người chưa thành niên phạm tội .................................................................................................................67 KẾT LUẬN ..............................................................................................................78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................80 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự NCTN : Người chưa thành niên NCTNPT : Người chưa thành niên phạm tội TNHS : Trách nhiệm hình sự TAND : Tòa án nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Bảng 2.1. Thống kê số vụ án hình sự có bị cáo là người chưa thành niên đã thụ lý trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ năm 2011 đến 2015...............................................50 Bảng 2.2. Các tội phạm mà bị cáo là người chưa thành niên thực hiện đã thụ lý và giải quyết trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ năm 2011 đến 2015...............................50 Bảng 2.3. Tình hình áp dụng án treo của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước đối với NCTNPT từ năm 2011 đến năm 2015…..…………………………………………52 Bảng 2.4. Tình hình áp dụng án treo của các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh Bình Phước từ năm 2011 đến năm 2015 ...................................................................54 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em có vai trò đặc biệt quan trọng đối với gia đình và xã hội. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu thương gắn bó với con cháu, con cháu không chỉ là nguồn hạnh phúc mà còn là niềm mong ước, là nơi gửi gắm những ước mơ, niềm tin và sự hãnh diện. Vì vậy, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ em. Nhiều chủ trương, chính sách ra đời hướng tới mục tiêu vì lợi ích tốt nhất cho sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức của trẻ em. Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chính sách tầm chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng và đã đào tạo được những lớp người giàu lòng yêu nước, có sức khỏe, có văn hóa, hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn đất nước đổi mới, cùng với nhiều chính sách kinh tế, xã hội được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (ngày 20-2-1990), là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này. Điều đó đã làm thay đổi khá nhanh nhận thức và hành động đối với trẻ em về thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam. Chúng ta đã ban hành luật, chính sách, văn bản hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy chuẩn, chương trình hành động, chương trình mục tiêu, các dự án, xây dựng tổ chức bộ máy, bố trí và đào tạo cán bộ quản lý, xây dựng và phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Nhờ đó công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã có những chuyển biến tích cực. Sự nghiệp này được kết tinh bởi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức; …” Tuy nhiên, vấn đề người chưa thành niên phạm tội hiện nay vẫn đang thu hút sự quan tâm của xã hội và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong những năm gần đây, tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật, người chưa thành niên phạm tội gia tăng, sự trẻ hóa của tội phạm chưa thành niên đòi hỏi phải có những biện pháp thích hợp, không chỉ nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội mà còn nhằm để bảo vệ sự phát triển bền vững của cộng đồng trong tương lai. Trong khi đó BLHS năm 1 1999 là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Các tội phạm rất phong phú và đa dạng, khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm, đảm bảo được các nguyên tắc phân hóa TNHS, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, BLHS quy định một hệ thống hình phạt rất phong phú, đa dạng và có tính phân hóa cao để áp dụng đối với từng tội phạm, từng người phạm tội. Mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có nghĩa là hoàn trả cho xã hội con người đã trở nên vô hại, không còn nguy cơ tái phạm. Tuy nhiên, để đạt được mục đích đó, ngoài việc áp dụng hình phạt - biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất - trong một số trường hợp nhất định sẽ có hiệu quả cao hơn nếu áp dụng biện pháp khác, không cần bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù. Một biện pháp được áp dụng nhiều trong thực tiễn là án treo. Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập, thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật hình sự là nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tính ưu việt của chế định án treo chính là ở sự kết hợp đó. Tuy nhiên, thực tiễn vận dụng án treo đối với NCTNPT trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong thời gian qua bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, còn làm bộc lộ những hạn chế nhất định trong cả pháp luật thực định và trong quá trình áp dụng các quy định đó. Chẳng hạn như việc vận dụng các quy định về điều kiện cho hưởng án treo hiện nay ở một số tòa án huyện, thị còn không chuẩn xác, đó là cho hưởng án treo cả những đối tượng đã có tiền án, tiền sự hoặc ngược lại những người có nhân thân tốt nhất thời phạm tội đáng được xử treo nhưng lại xử giam, có nơi có lúc còn xử quá nhẹ dưới mức 3 năm tù để rồi cho bị cáo được hưởng án treo. Việc thi hành, giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước ở nhiều xã, phường, thị trấn còn chưa chặt chẽ, thậm chí có nơi không thực hiện việc quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Việc phối hợp giữa Tòa án với cơ quan thực hiện việc giám sát, giáo dục và gia đình người được hưởng án treo còn lỏng lẻo, mang tính hình thức dẫn tới việc quản lý, giám sát, giáo dục chưa hiệu quả do vậy vẫn còn trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách. 2 Từ những phân tích trên đây thì việc nghiên cứu một cách sâu rộng và toàn diện về chế định án treo đối với người chưa thành niên phạm tội cũng như thực tiễn áp dụng tại ở tỉnh Bình Phước là cần thiết góp phần hoàn thiện hơn các quy định về án treo và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trên thực tế. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn và nghiên cứu "Áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Án treo là một chế định đặc biệt của pháp luật hình sự và việc áp dụng chế định này có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội. Vì vậy, đề tài cũng đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ khác nhau. Ở cấp độ giáo trình, có: Giáo trình Luật hình sự của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội... Trong các giáo trình Luật hình sự này chế định án treo mới chỉ cập nhật ở mức độ cơ bản. Ở cấp độ bình luận khoa học, phân tích chuyên sâu, có: "Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự’’, của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, "Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam" (sách chuyên khảo của tập thể nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1995, "Chế định án tích và mô hình lý luận của nó" của GS.TSKH Lê Cảm; luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hữu Nhuận với đề tài: "Án treo trong luật hình sự Việt Nam" và một số cuốn sách chuyên khảo như "Án treo trong luật hình sự Việt Nam" của tác giả Phạm Thị Học, Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 1996, "Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam" của tác giả Lê Văn Luật do Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2007... Trong các cuốn bình luận khoa học Bộ luật hình sự và cuốn sách chuyên khảo nêu trên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở đề cập một cách tổng thể hoặc từng khía cạnh nào đó của chế định án treo. Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí như: "Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án treo", của Vũ Thế Đoàn, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/1990; "Án treo và thực tiễn áp dụng", của Đỗ Văn Chỉnh, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2007 và các số 12, 13, 14/2013; “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội” của tác giả Đinh Văn Quế (Tạp chí kiểm sát số 6/2007),… 3 Các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về án treo trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên ở góc độ nghiên cứu những lý luận cao của án treo đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng ở tỉnh Bình Phước thì chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Mục đích tổng quát của luận văn là làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận của án treo và áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam; xây dựng, đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả án treo đối với người chưa thành niên phạm tội trong thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Bình Phước. Quá trình nghiên cứu của luận văn là tiếp cận tổng thể đi từ cái chung đến cái cụ thể, từ lý luận đến đánh giá thực tiễn để từ đó để tìm ra những nguyên nhân tồn tại, thông qua đó đề ra được các giải pháp nhằm hoàn thiện chế định này. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng án treo đối với NCTNPT; Thực tiễn áp dụng án treo đối với NCTNPT trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Đồng thời thông qua việc nghiên cứu đề tài tác giả mong muốn đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng án treo đúng đối với NCTNPT. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng án treo đối với NCTNPT từ thực tiễn tỉnh Bình Phước. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung, đề tài nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật hình sự Việt Nam về người chưa thành niên phạm tội; Thực tiễn áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội; - Về thời gian, đề tài nghiên cứu việc áp dụng quy định pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng án treo đối với NCTNPT từ năm 2011 đến 2015; - Về không gian, đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng án treo đối với NCTNPT tại địa bàn tỉnh Bình Phước. 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu triển khai trên cơ sở hệ thống các quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về hình phạt và giáo dục, cải tạo con người; Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về pháp luật hình sự nói chung, chính sách hình sự nói riêng. Đặc biệt là các quan điểm về giáo dục, phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp thống kê hình sự; Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp dựa trên các số liệu, bản án, báo cáo, thống kê từ khảo sát thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bình Phước và nghiên cứu dưới góc độ của ngành, liên ngành, đa ngành. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa luận của luận văn Đây là một công trình khoa học dưới hình thức là một luận văn thạc sĩ luật học về áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Đề tài được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện nội dung chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam cùng những vấn đề liên quan, từ đó nâng cao nhận thức về án treo, tạo tiền đề cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Đồng thời định hướng cho việc áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội được chính xác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án treo đối với người phạm tội nói chung và đối với người chưa thành niên phạm tội nói riêng ở tỉnh Bình Phước, từ đó góp phần vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn bảo vệ thành công sẽ có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, có thể làm tư liệu tham khảo có giá trị trong việc xây dựng pháp luật hình sự, góp phần khắc phục những khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm nâng cao hiệu quả của chế định này. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 5 Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội Chương 2: Thực tiễn áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Phước Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên phạm tội 1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội Theo quy định của BLHS thì người chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm (Điều 12 của Bộ luật hình sự). Vấn đề đặt ra là tại sao pháp luật hình sự lại quy định người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự và người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất định? Quy định này của BLHS về mặt lý luận có thể hiểu, người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra vì người chưa đủ 14 tuổi trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó, họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm (rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng) chứ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Quy định này cũng thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Một trong những vấn đề quan trọng khi xác định một người phạm tội là người chưa thành niên để từ đó quyết định hình phạt và lựa chọn việc áp dụng loại hình phạt nào là dựa trên tuổi của người phạm tội. Từ những quy định nêu trên, có thể rút ra khái niệm như sau: Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm 7 hình sự chưa đầy đủ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, bị luật hình sự quy định là tội phạm. 1.1.1.2. Các đặc điểm của người chưa thành niên phạm tội Do là chủ thể đặc biệt nên NCTNPT có một số đặc điểm khác biệt so với người đã thành niên, như sau: - Sự biến đổi nhanh về thể chất và tinh thần Đây là giai đoạn NCTN có sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, sự biến đổi sâu sắc về đời sống tâm lý. Do vậy, NCTN thường có nhu cầu độc lập, mong muốn tự hành động, tự đưa ra quyết định theo cách phù hợp với nhận thức bản thân hơn là để thỏa mãn đòi hỏi của xã hội, được biểu hiện dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, bảo thủ, côn đồ như một cách khẳng định sức mạnh của bản thân mà lại thiếu kìm chế được cảm xúc, dễ bị lôi kéo kích động, thực hiện hành vi phạm tội. Ý nghĩa của đặc điểm này giúp cho gia đình, nhà trường và xã hội nắm bắt được tâm sinh lý của NCTN trong giai đoạn này, từ đó có những biện pháp phù hợp trong việc giáo dục, đào tạo nhằm ngăn ngừa tình trạng NCTN vi phạm pháp luật. - Dễ bị môi trường tác động Đối với những NCTN có điều kiện, mức sống bình thường thì hoạt động xã hội của họ ở giai đoạn này chủ yếu là môi trường học tập tại nhà trường. Tính cách của các em thường phát triển theo khuynh hướng thích chứng tỏ đã là người lớn và mong muốn người xung quanh thừa nhận; do vậy, thường gặp sai lầm trong khi muốn xử lý gấp mọi vấn đề khó khăn gặp phải, nhằm chứng tỏ sự trưởng thành của mình. Khác với người thành niên khi vi phạm pháp luật luôn có động cơ, mục đích cụ thể, những NCTN thường vi phạm pháp luật với suy nghĩ rất đơn giản, thậm chí chỉ do nguyên nhân hiếu thắng, không tự chủ, họ thường có xu hướng sử dụng bạo lực thể chất, như gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích... Như vậy, đặc điểm trước hết trong vi phạm pháp luật của NCTN hầu hết là do tác động của môi trường, điều này cũng giải thích vì sao động cơ, mục đích vi phạm pháp luật của NCTN thường là bộc phát, nhất thời và không rõ ràng. Cũng do hành động a dua, hùa theo bạn bè làm trái pháp luật, nên vi phạm pháp luật của NCTN còn có yếu tố vi phạm tập thể, tuy chưa đến mức vi phạm pháp luật có tổ 8 chức (vì thiếu dấu hiệu thống nhất ý chí, phân công thực hiện…), nhưng là cách thức nhiều người cùng thực hiện một loại hành vi trái pháp luật, điều này thể hiện rõ nhất trong các vụ gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép… Ý nghĩa của đặc điểm này giúp ta khái quát được nguyên nhân cơ bản dẫn đến vi phạm pháp luật của NCTN, từ đó có biện pháp chủ động trong ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm, tội phạm ở các lứa tuổi chưa thành niên. - Nhận thức pháp luật hạn chế Đây là đối tượng còn rất non nớt về kiến thức xã hội và ý thức pháp luật, thường có trình độ văn hóa thấp, có quan niệm sai lệch về nghĩa vụ và trách nhiệm, họ không ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Nhiều trường hợp khi bị bắt các em vẫn chưa biết mình phạm tội, nhưng sau khi được giải thích thì các em tỏ ra rất ăn năn và hối hận về hành vi của mình. - Luôn có nhu cầu khám phá cái mới Do đây là độ tuổi mà các em bắt đầu có sự nhận thức về thế giới của người lớn, các em rất muốn khám phá thế giới tự nhiên, khám phá cuộc sống xã hội xung quanh mình. Sự tò mò, hiếu động, luôn tìm kiếm, khám phá những cái mới là đặc điểm dễ nhận thấy nhất ở các em trong giai đoạn này. Chính xu hường này sẽ hình thành ở các em những hứng thú tiêu cực nếu không có sự kiểm tra, giám sát, uốn nắn của gia đình và nhà trường. Một số em sẽ bắt đầu tập tành thực hiện những hành vi của người lớn nhằm để chứng tỏ bản lĩnh, để chứng minh mình đã trưởng thành trước người khác. Nếu không có sự giáo dục đúng đắn, NCTN rất dễ vi phạm pháp luật. - Cách thức thực hiện tội phạm đơn giản So với người thành niên, NCTN có hành vi vi phạm pháp luật đơn giản hơn nhiều. Các em này thường bị áp lực do lệ thuộc về vật chất, nên dễ bị người lớn xúi giục hoặc tự mình tham gia những việc làm trái pháp luật; có thể có đồng phạm cùng tham gia, nhưng chỉ là vi phạm pháp luật mang tính tổ chức giản đơn nên quyết tâm vi phạm pháp luật không cao… Và khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì hành vi vi phạm pháp luật của các em thường có đặc điểm dễ nhận thấy là hành động phạm pháp đơn giản, nhanh lẹ vội vã và ít có quyết tâm thực hiện đến 9 cùng nếu bị ngăn trở. Nghiên cứu thấu đáo đặc điểm này sẽ giúp xem xét dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật của NCTN. - Phạm vi thực hiện tội phạm hạn chế Theo quy định của pháp luật hình sự, một số tội danh không thừa nhận chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là NCTN. Vì lý do đó, NCTN chỉ có khả năng thực hiện hành vi phạm tội đối với một số tội phạm nhất định, hay nói theo quan điểm cấu thành tội phạm thì NCTN chỉ có thể có điều kiện xâm hại một số khách thể nhất định được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: Điều 116, BLHS quy định Tội dâm ô đối với trẻ em: “Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Quy định này từ đầu đã loại ngay chủ thể là NCTN ra khỏi cấu thành tội phạm. Nếu NCTNPT mà có hành vi dâm ô với trẻ em thì không chịu trách nhiệm hình sự mà có thể bị xử lý bằng các quy phạm pháp luật khác. Hoặc có những quan hệ xã hội mà dù có cố ý, NCTN cũng không thể tham gia, không thể có điều kiện thực hiện hành vi trái pháp luật, như trong các quan hệ pháp luật về chức vụ, về các hoạt động tư pháp hoặc quản lý kinh tế... Như vậy, hành vi phạm tội của NCTN còn có đặc điểm là chỉ có thể xảy ra trong những môi trường, hay nói cách khác là trong một số quan hệ xã hội nhất định. 1.1.2. khái niệm, bản chất pháp lý, những đặc điểm cơ bản của án treo và việc áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội 1.1.2.1. khái niệm án treo Án treo là một chế định pháp lý ra đời rất sớm trong quá trình xây dựng và phát triển pháp luật hình sự Việt Nam. Tại Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/12/1946, án treo được xác định là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Trước khi BLHS năm 1985 ra đời, án treo luôn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự. Các Pháp lệnh về trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh trừng trì các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; Sắc luật 003/SL của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam v.v… đều có quy định về chế định án treo. Quan niệm án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được coi là một quan niệm thống nhất trong các văn bản pháp luật và trong nhận thức chung của mọi người. Quy định về án treo tại Điều 44 Bộ luật hình sự 1985 là quy 10 định được pháp điển hóa đầu tiên của Pháp luật hình sự Việt Nam. Mặc dù BLHS có những thay đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng chế định án treo vẫn được quy định như là một chế định truyền thống, không thể thiếu của pháp luật hình sự Việt Nam. Về áp dụng chế định án treo, Tòa án nhân dân tối cao và các ngành có liên quan đã ban hành rất nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện. Đơn cử một số văn bản sau đây: - Thông tư số 2308-NCPL ngày 01/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án áp dụng án treo; - Nghị quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, trong đó phần II của Nghị quyết hướng dẫn về án treo; - Thông tư số 01/NCP2 ngày 06/4/1988 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về việc áp dụng án treo; - Nghị quyết số 01/89/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về án treo; - Công văn số 140/NCPL ngày 05/7/1990; - Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong đó có hướng dẫn cụ thể về căn cứ cho hưởng án treo, thời gian thử thách của án treo, tổng hợp hình phạt; - Công văn số 36/NCPL ngày 30/4/1992 của Tòa án nhân dân tối cao về yêu cầu các Tòa án nhận thức đúng đắn về án treo; - Công văn số 596/CT-HS ngày 30/12/1992 với tinh thần là nhắc nhở Tòa án các cấp áp dụng án treo đúng quy định của pháp luật; - Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; - Công văn số 99/TANDTC ngày 01/7/2009 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng về án treo (Điều 1). - Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Ngoài ra, còn có các Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 01/02/1990 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ 11 Công an), Bộ Tư pháp; Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/12/1991 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung, trong đó có một số hướng dẫn về án treo. Như vậy, vấn đề áp dụng án treo luôn là vấn đề được quan tâm tương đối đặc biệt trong suốt quá trình ra đời, phát triển. Một nét nổi lên là ở mỗi giai đoạn khác nhau thì các hướng dẫn về án treo có những điểm không thật đồng nhất với nhau, tạo ra sự nhận thức khác nhau trong áp dụng pháp luật về án treo. Đây cũng là vấn đề bình thường của quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự, hoàn thiện từ những quy định riêng, nhóm quy định hoặc toàn thể các quy định để tạo ra một bộ luật tương đối hoàn chỉnh. BLHS 1999, tại điều 60 quy định "Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm" [15]. Như vậy, án treo là một biện pháp không buộc người bị phạt tù phải chấp hành hình phạt tại trại giam, không buộc họ phải cách ly khỏi xã hội, họ được tự cải tạo, giáo dục trong môi trường xã hội trong một thời gian thử thách nhất định với sự giám sát, giáo dục và giúp đỡ của các cơ quan hoặc chính quyền địa phương cùng gia đình người bị kết án. Hiện nay đã có nhiều ý kiến khác nhau về án treo. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Án treo là án tù không phải thi hành ngay, nhưng sẽ thi hành nếu trong thời gian quy định người bị kết án lại phạm tội và bị xử án lần nữa". Quan điểm này chưa nêu rõ được bản chất pháp lý của án treo. Từ điển Bách khoa toàn thư Mở (Wikipedia) định nghĩa: Án treo là chế định pháp lý hình sự liên quan đến việc chấp hành hình phạt. Án treo được hiểu là việc tạm thời miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, hình phạt đối với người vi phạm luật ở mức độ ít nghiêm trọng, khi bị xử phạt tù không quá ba năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (từ 2 tình tiết trở lên), và xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được, Tòa án có thể miễn chấp hành tại trại giam mà có thể tự cải tạo dưới sự giám sát, quản lý và giáo dục tại địa phương cư trú của chính quyền sở tại. 12 Có nhà khoa học quan niệm ngắn gọn và đầy đủ "Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định" [4, tr. 810]. Gần đây, có tác giả thể hiện bản chất pháp lý và ý nghĩa của việc cho hưởng án treo khi viết: Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện kèm theo một thời gian thử thách đối với người phạm tội, do Tòa án áp dụng khi có những điều kiện do Bộ luật hình sự quy định, xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội mà vẫn bảo đảm công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cũng như yêu cầu giáo dục, cải tạo người phạm tội . Như vậy, từ những quan điểm trên đây có thể hiểu: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được áp dụng đối với người bị phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ xét thấy không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù. Việc áp dụng án treo là cần thiết, nó không những thể hiện được những nguyên tắc công bằng, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt mà còn thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện rõ phương châm trừng trị kết hợp với cải tạo giáo dục, thể hiện sự khoan hồng và nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Người phạm tội được hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt tù trong trại giam, không bị mất tự do, họ vẫn được làm ăn sinh sống trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian thử thách người phạm tội bị hạn chế một phần quyền tự do của mình so với những người bình thường khác, đó là phải chịu sự quản lý, giám sát, giáo dục của gia đình và cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú và họ luôn bị răn đe là nếu phạm tội mới thì họ sẽ không được hưởng án treo nữa mà phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước tổng hợp với hình phạt của bản án mới. Án treo vẫn đảm bảo tính răn đe nhưng lại có tác dụng khuyến khích người phạm tội vì nếu họ cải tạo tốt, không vi phạm điều kiện thử thách thì sẽ không phải chấp hành hình phạt tù. 13 Vì người được hưởng án treo được tự giáo dục, cải tạo ngay trong môi trường xã hội nơi họ vẫn sinh sống và lao động nên nó thu hút đông đảo thành viên trong xã hội tham gia theo dõi, giúp đỡ, giáo dục và cải tạo người phạm tội, góp phần xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội. Điều này có hiệu quả rất cao, giúp người bị kết án thêm tin yêu vào cuộc sống, khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp vốn có của chính mình. Việc xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội cũng chính là góp phần nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Trong luật hình sự, hình phạt tù có tính nghiêm khắc, răn đe cao và mang tính giáo dục, cải biến quan niệm, lối sống của phạm nhân một cách sâu sắc. Tuy nhiên, việc áp dụng nó không phải là tối ưu trong mọi trường hợp, nhất là trong điều kiện cơ sở vật chất trại giam còn hạn chế, chật hẹp và điều kiện cải tạo, giáo dục người phạm tội trong trại giam nhiều nơi chưa được thực hiện tốt. Qua thực tiễn cho thấy thì tỷ lệ người bị phạt tù chiếm một tỷ lệ rất lớn trong số các loại hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với các bị cáo, bởi lẽ đây cũng là một trong những loại hình phạt rất nghiêm khắc mà Tòa án vận dụng. Nếu tất cả các bị án phạt tù này đều được đưa đi thi hành tại các trại cải tạo thì sẽ là một gánh nặng rất lớn đối với nhà nước về vấn đề con người quản lý giáo dục, về cơ sở vật chất là rất tốn kém. Hơn nữa, theo kết quả điều tra xã hội học và tội phạm học thì trong một số trường hợp người phạm tội vào chấp hành hình phạt tù trong trại giam đã chịu ảnh hưởng xấu của những phạm nhân khác nên hình thành những nhân cách xấu hơn trước khi vào tù và khi ra tù họ trở thành những người còn hung tợn và dễ dàng phạm tội hơn. 1.1.2.2. Bản chất pháp lý của án treo Theo quy định của các văn bản pháp luật trên thì có thể thấy một người bị phạt tù được hưởng án treo thực hiện theo trình tự: Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Như vậy, việc xem xét cho hưởng án treo là một bước của hoạt động quyết định hình phạt, được đặt ra trong trường hợp bị phạt tù từ 3 năm trở xuống. Tòa án đã quyết định một hình phạt đối với người phạm tội, sau đó nếu hình phạt tù là tù từ ba năm trở xuống, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ nếu xét thấy không cần phải 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan