Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ảnh hưởng của phương tây trong nghệ thuật kiến trúc việt nam triều nguyễn (1802 ...

Tài liệu ảnh hưởng của phương tây trong nghệ thuật kiến trúc việt nam triều nguyễn (1802 1945)

.PDF
61
11
69

Mô tả:

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA LỊCH SỬ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI ẢNH HƯỞNG CỦA PHƯƠNG TÂY TRONG NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC VIỆT NAM TRIỀU NGUYỄN (1802 – 1945) GVHD : TS. NGUYỄN DUY PHƯƠNG SVTH : NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG LỚP : 15CLS Đà Nẵng, tháng 04 năm 2019 MỤC LỤC MỤC LỤC BẢNG LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề ........................................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 2 3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu ............................................................ 3 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu ..................................................................................... 3 3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 3 3.3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 4 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................... 4 4.1. Nguồn tƣ liệu .................................................................................................. 4 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................ 4 5. Đóng góp của đề tài ............................................................................................... 5 6. Cấu trúc của đề tài ................................................................................................. 5 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC VỚI PHƢƠNG TÂY CỦA KIẾN TRÚC VIỆT NAM TRIỀU NGUYỄN .................................................... 6 1.1.Tổng quan dƣới thời Nguyễn và bối cảnh đất nƣớc đầu thế kỷ XIX .................. 6 1.2. Sự xâm nhập của phƣơng tây đến Việt Nam trong các thế kỷ XVII-XIX ....... 11 1.3. Thái độ ứng xử của triều Nguyễn đối với phƣơng Tây.................................... 18 CHƢƠNG 2 KIẾN TRÚC VIỆT NAM TRIỀU NGUYỄN VỚI NHỮNG ẢNH HƢỞNG CỦA PHƢƠNG TÂY ................................................................................. 23 2.1.Kiến trúc thành lũy ............................................................................................ 23 2.2. Kiến trúc nhà ở ................................................................................................. 33 2.3.Công trình kiến trúc khác .................................................................................. 38 2.3.1.Cung An Định ............................................................................................. 38 2.3.2.Lăng Khải Định .......................................................................................... 41 2.3.3.Đấu trƣờng Hổ Quyền ................................................................................ 43 2.4.Đánh giá chung ................................................................................................. 45 2.4.1.Tích cực ...................................................................................................... 45 2.4.2.Hạn chế ....................................................................................................... 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 49 MỤC LỤC BẢNG Bảng 2.1: Thống kê các thành đƣợc xây dƣới triều Nguyễn trong thế kỷ XIX Bảng 2.2: Những đặc diểm cơ bản của nhà ở thị dân Hà Nội qua các giai đoạn LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đƣợc bài khóa luận tốt nghiệp Ảnh hưởng của phương Tây trong nghệ thuật kiến trúc Việt Nam triều Nguyễn Năm (1802 – 1945), em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến đến thầy cô khoa Lịch Sử Trƣờng Đại học Sƣ phạm Đà Nẵng đã tạo điều kiện cho em tham gia làm bài khóa luận và đặc biệt là cô Nguyễn Duy Phƣơng đã trực tiếp hƣớng dẫn, diều dắt, giúp đỡ em với những chỉ dẫn tài liệu khoa học quý giá trong suốt quá trình triển khai nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Với điều kiện thời gian cũng nhƣ kinh nghiệm còn hạn chế bài khóa luận này không thể tránh đƣợc những thiếu sót em rất mong nhận đƣợc sự chỉ bảo đóng góp ý kiến của các thầy cô để bài khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Đà Nẵng ngày 23 tháng 04 năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Quỳnh Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề Mỗi một quốc gia đều có những đặc điểm riêng, những nền văn hóa mang bản sắc dân tộc riêng, đƣợc thể hiện rõ qua nếp sống cùng với môi trƣờng sinh hoạt. Một trong những yếu tố thể hiện một cách rõ nét nền văn hóa riêng của mỗi dân tộc đó chính là kiến trúc, nhà ở, nơi diễn ra các hoạt động sống chủ yếu của con ngƣời. Qua mỗi một giai đoạn khác nhau, kiến trúc lại chịu nhiều ảnh hƣởng từ các yếu tố khác nhau, nhƣ là: ảnh hƣởng từ các nền văn hóa khác, sự phát triển của xây dựng, đặc trƣng vùng miền…. Và cũng nhƣ thế, kiến trúc Việt Nam qua các thời đại lại có những biến chuyển khác nhau. Kiến trúc là một bộ phận của văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc theo định nghĩa của UNESCO: " Tổng thể sống động các hoạt động sang tạo của con ngƣời đã diễn ra trong quá khứ cũng nhƣ đang diển ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ, các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thị hiếu, thẩm mỹ. Nền văn minh Việt Nam là sự tổng hợp của gần một ngàn năm văn hóa Trung Hoa, gần chín trăm năm văn hóa Việt Nam và gần một trăm năm văn hóa từ Pháp. Gần một thế kỷ hiện diện của ngƣời Pháp ở Việt Nam (1859-1954) đã đặt một nét đậm ảnh hƣởng tới lịch sử, văn hóa và kiến trúc Việt. Song song với giai đoạn này là sự tồn tại và trị vì của triều Nguyễn. Triều Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam kéo dài gần một thế kỷ (1802 – 1945), để lại cho đất nƣớc Việt Nam hình dáng lãnh thổ hôm nay, những di sản văn hoá đã đƣợc cả thế giới công nhận, những thành tựu khoa học, văn hoá nghệ thuật đồ sộ…. triều Nguyễn xứng đáng đƣợc nhìn nhận lại, đƣợc xem nhƣ bất kỳ một triều đại phong kiến nào của đất nƣớc ta, có thịnh có suy. Tuy nhiên, hiện nay nghiên cứu về những ảnh hƣởng của phƣơng Tây trên lĩnh vực kiến trúc vào Việt Nam trong giai đoạn này vẫn còn thiếu vắng những nghiên cứu mang tính toàn diện và hệ thống, tƣ liệu để nghiên cứu về vấn đề này còn rất hạn chế. Tất cả những ảnh hƣởng trên phƣơng diện kiến trúc với phƣơng Tây diễn ra trên đất nƣớc Việt Nam chỉ đƣợc ghi chép tóm lƣợc trong sử sách nhƣ các sự việc, 1 thiếu hẳn sự miêu tả cụ thể phản ánh một cách cụ thể. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, mặc khác, từ mong muốn cá nhân muốn tìm hiểu sâu hơn về những nội dung lịch sử văn hóa triều Nguyễn, tôi chọn đề tài “ Ảnh hưởng của phương Tây đối với nghệ thuật kiến trúc Việt Nam triều Nguyễn (1802-1945)”. 2. Lịch sử vấn đề Lịch sử triều Nguyễn là mảng đề tài thú vị, thu hút nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và trên thế giới. Nhiều công trình, bài viết đã công bố trên các phƣơng tiện truyền thông khác nhau. Có hàng trăm tác giả nƣớc ngoài là các nhà dân tộc học, văn hóa học, sử học thuộc các quốc tịch khác nhau nghiên cứu về triều Nguyễn. Nhiều công trình nghiên cứu của các học giả nƣớc ngoài đƣợc công bố dịch sang tiếng Việt nhƣ Tyoshiriru Tsuboi với công trình Nƣớc đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1992), Nola Kole (1994) với Nineteenth Century Vietnamese confucianization in Historial perspective: Evidence from the Palace examinations (1463-1883) (Nho giáo hóa ở Việt Nam thế kỷ XIX trong tiến trình lịch sử: bằng chứng từ các cuộc thi đình (14631883), Li Tana (1999) với Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII,.... Một điểm chung của các công trình nghiên cứu kể trên là các học giả nƣớc ngoài về triều Nguyễn là có một hệ thống tài liệu tham khảo rất phong phú, công phu. Bên cạnh đó, còn có các tham luận của các học giả nƣớc ngoài về các vấn đề liên quan đến văn hóa triều Nguyễn tại các hội thảo quốc tế về Việt Nam học (1998 và 2004) và Hội thảo về Chúa Nguyễn và vƣơng triều Nguyễn 2008). Ở trong nƣớc, hàng loạt các cuộc hội thảo đã đƣợc tổ chức đã tập hợp đƣợc đông đảo ý kiến của giới nghiên cứu về nhà Nguyễn nói chung văn hóa triều Nguyễn nói riêng. Liên quan đến vấn đề văn hóa, nghệ thuật có một số công trình nghiên cứu về mĩ thuật, kiến trúc, âm nhạc, văn chƣơng, nghệ thuật của triều Nguyễn. Đáng chú ý là các công trình Mỹ thuật Huế (Nguyễn Tiến Cảnh chủ biên), Từ Ngọ Môn đến Thái Hòa Điện (Huỳnh Minh Đức, dịch và chú giải), Bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích cố đô Huế nhằm giữ gìn bản sắc dân tộc (Phan Tiến Dũng 1997), Âm nhạc cung đình triều Nguyễn (Trần Kiều lại Thủy, 1997), Nhã nhạc triều Nguyễn (Vĩnh Phúc, 2 2010), Đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn (Trần Đức Anh Sơn, 2008), triều Nguyễn một cách nhìn (Trần Đức Anh Sơn, 2008),… Liên quan đến vấn đề tôn giáo dƣới triều Nguyễn có các công trình: Sự du nhập của đạo Thiên Chúa vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX (Nguyễn Văn Kiểm, 2001), công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802-1883) (Nguyễn Quang Hƣng, 2007), chính sách tôn giáo thời Tự Đức (Nguyễn Ngọc Quỳnh, 2009)… Liên quan đến vấn đề quan hệ tiếp xúc với văn hóa bên ngoài dƣới triều Nguyễn có các công trình: Bang giao Đại Việt - Chúa Nguyễn (Nguyễn Thế Long, 2005), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nƣớc phƣơng Tây triều Nguyễn (18021858) (Trần Nam Tiến, 2006),… Có thể nói việc nghiên cứu về triều Nguyễn đã đạt đƣợc những thành tựu đáng ghi nhận. Đây là những tham khảo hết sức quý giá đối với bài nghiên cứu, tuy nhiên, đa số các học giả, các công trình kể trên đều tiếp cận triều Nguyễn dƣới góc độ sử học, vì vậy ngƣời đọc tiếp nhận ở đó trƣớc tiên và chủ yếu là những sự kiện những kiến giải cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của triều đại này. Những vấn đề liên quan đến lĩnh vực kiến trúc cũng đƣợc bàn tới ở các mức độ khác nhau nhƣng về cơ bản các nhà nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở việc trình bày những công trình kiến trúc của triều Nguyễn, chƣa đi sâu vào cách xây dựng và đặc điểm kiến trúc của những công trình đó. Nghiên cứu một cách cụ thể, hệ thống về sự ảnh hƣởng của phƣơng Tây đối với nghệ thuật kiến trúc Việt Nam dƣới triều Nguyễn vẫn còn là vấn đề bỡ ngỡ mà chƣa có học giả, nhà nghiên cứu, công trình khoa học nào nói đến, đây cũng chính là nội dung chủ yếu mà bài nghiên cứu sẽ tập trung vào giải quyết. 3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là sự ảnh hƣởng phƣơng Tây trong kiến trúc ngƣời Việt xây dựng dƣới triều Nguyễn (1802-1945). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Thời gian nghiên cứu: Từ năm 1802 đến năm 1945. Đây là thời kì tồn tại của triều Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. 3 Không gian nghiên cứu: đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu ảnh hƣởng của phƣơng Tây đối với nghệ thuật kiến trúc Việt Nam dƣới triều Nguyễn. Xuất phát từ nguồn tài liệu, thời gian và năng lực còn hạn chế nên tôi chỉ nêu đƣợc sự ảnh hƣởng trên một số phƣơng diện kiến trúc thành lũy, kiến trúc nhà ở, … 3.3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu sự ảnh hƣởng của phƣơng Tây đối với nghệ thuật kiến trúc Việt Nam dƣới triều Nguyễn, đƣa đến cái nhìn toàn diện sâu sắc hơn về kiến trúc nƣớc nhà lúc bấy giờ. Từ đó đề xuất những giải pháp bảo tồn những di sản kiến trúc có yếu tố phƣơng Tây của triều Nguyễn trong giai đoạn hiện nay. 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tƣ liệu Nguồn tƣ liệu chính mà đề tài khai thác là cuốn Lịch sử kiến trúc Việt Nam của Ngô Huy Quỳnh, đồng thời còn có các bộ địa chí, sử sách thời nhà Nguyễn là nguồn tƣ liệu gián tiếp đề cập đến sự ảnh hƣởng của phƣơng Tây đến nghệ thuật kiến trúc dƣới triều Nguyễn. Thành quả của các công trình nghiên cứu của các bậc tiền bối, học giả đi trƣớc nhƣ phần lịch sử nghiên cứu vấn đề đã trình bày. 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phƣơng pháp đƣợc sử dụng trong nghiên cứu Phƣơng pháp chung bài nghiên cứu vận dụng chủ yếu theo phƣơng pháp lịch sử dựa theo quan điểm duy vật biện chứng của học thuyết Mác-Lênin, các hiện tƣợng giao lƣu văn hóa đƣợc xem xét theo một trật tự thời gian cùng với những tác động của nó đến với đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đứng trên lập trƣờng chủ nghĩa Mác-Lênin để xem xét đánh giá sự vật hiện tƣợng. Phƣơng pháp cụ thể : Tiến hành phƣơng pháp lịch sử là chủ yếu, tôi sẽ kết hợp vận dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, sau đó tiến hành phƣơng pháp sƣu tầm, thu thập và xử lý thông tin qua sách báo, tạp chí, công trình nghiên cứu để làm sáng tỏ vấn đề. 4 5. Đóng góp của đề tài Về mặt khoa học: đây là công trình nghiên cứu có tính chất hệ thống cụ thể và hoàn chỉnh về các vấn đề văn hóa dƣới triều Nguyễn. Nghiên cứu đề tài này giúp tôi hệ thống hóa, đi sâu vào tìm hiểu kiến thức mang tính cơ bản, góp phần làm rõ nét hơn sự đa dạng phong phú của kiến trúc nƣớc nhà lúc bấy giờ, sự ảnh hƣởng của phƣơng tây đối với kiến trúc Việt Nam dƣới triều Nguyễn. Về mặt tƣ liệu từ nhiều nguồn tƣ liệu khác nhau để đề tài phục dựng lên bức tranh văn hóa nghệ thuật và tác động của văn hóa đối với các mặt của đất nƣớc. Đồng thời tôi hi vọng đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo cho quá trình học tập, cho những ai quan tâm đến vấn đề này. 6. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu chia làm 2 chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở hình thành quá trình tiếp xúc với phƣơng Tây của kiến trúc Việt Nam triều Nguyễn Chƣơng 2: Kiến trúc Việt Nam triều Nguyễn với những ảnh hƣởng của phƣơng Tây 5 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC VỚI PHƢƠNG TÂY CỦA KIẾN TRÚC VIỆT NAM TRIỀU NGUYỄN 1.1.Tổng quan dƣới thời Nguyễn và bối cảnh đất nƣớc đầu thế kỷ XIX Triều Nguyễn đƣợc thành lập trong một bối cảnh lịch sử đầy biến động. Trên thế giới, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản là những hoạt động ráo riết tranh giành thị trƣờng và xâm chiếm thuộc địa của các nƣớc thực dân phƣơng Tây. Điều đó đã đe dọa trức tiếp đến chủ quyền của các quốc gia phƣơng Đông, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa, trong quá trình xâm chiếm thuộc địa, các nƣớc tƣ bản còn đem đến vùng đất mới những sản phẩm của nền văn minh phƣơng Tây. Đó không chỉ là tàu đồng, súng trƣờng, đại bác mà còn có cả những tri thức khoa học, những công nghệ, kỹ thuật mới, lối sống mới và cả những luồng tƣ tƣởng mới, dẫn đến sự “va chạm của các nền văn minh”, giữa văn minh nông nghiệp của phƣơng Đông và văn minh công nghiệp của phƣơng Tây. Ở trong nƣớc, sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến Lê – Mạc, Trịnh – Nguyễn, Tây Sơn – Nguyễn đã đƣa đến những hệ quả hết sức bất lợi cho sự phát triển của một quốc gia: loạn ly và chia cắt, cát cứ và phân lập, nội chiến và chống ngoại xâm,… Đặc biệt, cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã chia cắt đất nƣớc thành Đàng Trong và Đàng Ngoài tạo nên một sự khác biệt khá lớn về thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là một thử thách lớn đối với các vị vua đầu triều Nguyễn, khi mà lãnh thổ cƣơng vực, tiền tệ, đơn vị đo lƣờng… thống nhất từ mục Nam Quan đến mũi Cà Mau nhƣng phng tục tập quán, lối sống, nếp sống thì lại khác biệt. Sau hơn 200 năm đất nƣớc chia cắt trong cục diện “Đàng Trong, Đàng Ngoài”, Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX thực sự là một quốc gia thống nhất với sự hoàn chỉnh cƣơng vực quốc gia, thống nhất thị trƣờng tiền tệ, có thể xây dựng kinh tế xã hội mạnh mẽ, mở rộng những quan hệ giao thƣơng quốc tế, canh tân đất nƣớc, vƣợt qua sự can thiệp xâm lƣợc của các thế lực thực dân phƣơng Tây... Nhƣng ngay từ đầu, triều Nguyễn đã bộc lộ điểm yếu cơ bản về chính trị là: khác với các triều đại trƣớc thƣờng đƣợc thiết lập trên cơ sở thắng lợi của những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hoặc sau khi hoàn thành những nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia... ;còn triều Nguyễn, vƣơng triều cuối cùng lại đƣợc dựng lên bằng một cuộc nội chiến mà kẻ thắng đã dựa vào thế lực ngoại bang, và nhƣ vậy về khách quan là đi ngƣợc lại nguyện vọng và quyền lợi của 6 dân tộc. Do vậy, triều Nguyễn không chỉ phải đối diện, giải quyết những vấn đề hậu chiến tƣơng tự các chính quyền phong kiến trƣớc đó mà vấn đề còn mới mẻ, phức tạp hơn nhiều, thậm chí chƣa có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam, đó là: xóa bỏ những mặc cảm về sự chia cắt đất nƣớc gần hai thế kỉ để tạo nên sự hòa hợp dân tộc; quan hệ, ứng xử bang giao không chỉ với những nƣớc láng giềng quen thuộc nhƣ: Xiêm La, Vạn Trƣợng, Ai Lao hay Trung Hoa nữa… mà còn có các nƣớc phƣơng Tây nhƣ Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Mỹ… là những nƣớc có hệ tƣ tƣởng khác biệt, có trình độ văn minh cao hơn, và đang đầy dã tâm xâm lƣợc, mở rộng thuộc địa. Chính vì thế, nhìn toàn cục bức tranh kinh tế, chính trị, xã hội dƣới triều Nguyễn là đa dạng, phức tạp, đôi khi nhƣ tự mâu thuẫn giữa cái tiến bộ và bảo thủ, lạc hậu, giữa cái mạnh và cái yếu... Về tình hình kinh tế: kinh tế nông nghiệp dĩ nhiên vẫn đƣợc coi là nền tảng. Quỹ ruộng đất công là một vấn đề nan giải của triều Nguyễn, nó ảnh hƣởng đến thu nhập quốc khố, Gia Long đã ra lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ này để đảm bảo nông dân ai cũng có đất cày. Khi nhân dân liên tục thất thu, triều đình thƣờng phải giảm thuế, miễn thuế và phát chẩn. Vua Minh Mạng đã định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, công tƣợng (thợ làm quan xƣởng) cùng các hạng dân đinh, phẩm trật cao thấp đều có khẩu phần nhƣng quan lại, cƣờng hào giành đƣợc những phần tốt hơn. Ngƣời già, ngƣời tàn tật thì đƣợc nửa phần. Cô nhi, quả phụ đƣợc một phần ba [1, tr.457]. Tại miền Nam, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục việc khai hoang và phục hóa, từ thời các chúa Nguyễn để lại nhƣ việc khẩn hoang, mở rộng, phát triển nông nghiệp. Ruộng đất tƣ ở Nam Kì rất lớn nhƣng chính quyền không thể chạm tay vào bởi lực lƣợng đại địa chủ Gia Định đã từng ủng hộ Nguyễn Ánh trong thời kì nội chiến. Vấn đề khẩn hoang ta không thể không nhắc đến hai tên tuổi Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phƣơng. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định. Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lƣợc sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phƣơng tổ chức vào năm 18531854, lập đƣợc 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả 6 tỉnh. Doanh điền là hình thức khai hoang có sự kết hợp giữa triều đình và nhân dân, thực hiện di dân để lập ấp mới. Hình thức này bắt đầu đƣợc thực hiện từ năm 1828 dƣới thời vua Minh Mạng theo đề 7 nghị của Nguyễn Công Trứ. Bản thân Nguyễn Công Trứ cũng là cha đẻ của hai huyện Tiền Hải (Thái Bình), và Kim Sơn (Ninh Bình). Năm Minh Mạng thứ 21(1840), theo sổ đinh, nƣớc ta có 711510 suất đinh với 4063892 mẫu ruộng. Năm 1847, sổ đinh tăng lên 925184, sổ điền là 4279013 mẫu, bình quân 4 mẫu ruộng một suất đinh [23, tr 425]. Nhƣng với sự thắng thế của giai cấp địa chủ cƣờng hào, ruộng tƣ ngày càng lấn ruộng công làng xã, khiến cho số dân mất đất phải đi lƣu tán ngày càng đông và trở thành một hiện tƣợng xã hội trầm trọng. Để khắc phục những khó khăn này, thực ra nhà Nguyễn cũng có những chính sách tích cực, tiêu biểu là chính sách khẩn hoang. Nhà Nguyễn cũng lƣu ý việc đào thêm một số con kênh, nhƣng điều đó không bù đắp đƣợc việc chểnh mãng đê điều khiến cho nạn vỡ đê liên tiếp xảy ra. Với chế độ phong kiến, địa tô luôn là nguồn lợi hàng đầu của quốc gia. Chính sách địa tô của nhà Nguyễn có lợi cho bọn địa chủ cƣờng hào, ruộng công bị đánh thuế nặng, mất ý nghĩa truyền thống loại ruộng này ở làng xã. Mức tô Bắc và Trung quá cao so với Nam Kỳ. Có thể ở Nam Kỳ, vùng đất mới, Nhà nƣớc đang khuyến khích khẩn hoang, mức tô phải nhẹ hơn nhƣng đây lại quá chênh lệch, lộ rõ ý đồ chính trị của nhà Nguyễn. Tổng thu về địa tô của nhà Nguyễn quả là không ít, cùng với thuế đinh tạo nên sức mạnh kinh tế cho giai cấp thống trị. Về công thương nghiệp: Triều Gia Long, Minh Mạng, công thƣơng nghiệp tƣơng đối phát triển. Nhà nƣớc đã cho phép tƣ nhân đúc vàng bạc, trong số những chủ mỏ khai mỏ, thấp thoáng đã có tên ngƣời Việt. Nhƣng về cơ bản, xu hƣớng độc quyền công thƣơng của nhà nƣớc vẫn chế ngự, đại thƣơng không thể phát triển đƣợc. Nếu nói về chủ tƣ nhân trong ngành này, chỉ có một số Hoa kiều là có thể lực mà thôi.... Thủ công nghiệp nhân dân không có tính bứt phá, sáng tạo bởi kĩ thuật lạc hậu, nhà nƣớc lại trƣng thu thợ giỏi về phục vụ triều đình, đặc biệt trong các ngành nhƣ khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa… tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho Hoàng gia, nên tạo ra hai mảng đối lập. Chính quyền Trung ƣơng đã tập trung xây dựng hệ thống các xƣởng thủ công Nhà nƣớc, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xƣởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ công, nhƣ ti Vũ khố chế tạo quản lý 57 cục (làm đất, đúc, kim 8 hoàn, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,…). Ti Thuyền đảm nhiệm các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trong phạm vi cả nƣớc . Bên cạnh đó là các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thƣơng bác hoả dƣợc [17, tr 450]. Nghề đóng tàu rất phát triển, sản phẩm có cả thuyền gỗ lẫn các loại tàu lớn bọc đồng. Một sĩ quan ngƣời Hoa Kỳ, tên John White đã công nhận: “ Ngƣời Việt Nam quả là những ngƣời đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác”. Dù chậm tiến so với thế giới nhƣng nhiều máy móc tiên tiến đã đƣợc ra đời và ứng dụng vào thời đó, có thể điểm tên nhƣ máy cƣa xẻ gỗ, máy tƣới ruộng… và cả máy hơi nƣớc. Trong ngành khai mỏ, đến nửa đầu thế kỉ XIX, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công trong các mỏ Nhà nƣớc. Thế kỷ XIX đƣợc coi là thế kỷ bản lề với xã hội châu Á. Lúc đó, trƣớc áp lực của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây, việc mở cửa, khai phóng những nhân tố kinh tế tƣ bản chủ nghĩa là con đƣờng duy nhất đúng để tăng sức mạnh bảo vệ nền độc lập. Nhà Nguyễn ở phƣơng diện kinh tế cũng đã không làm đƣợc việc đó. Về tình hình chính trị xã hội: ngay từ khi thiết lập vƣơng triều, Gia Long đã bộc lộ quyết tâm xây dựng một nhà nƣớc phong kiến tập quyền, chuyên chế mạnh. Trong sự thắng thế của nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn đã ngầm chứa đựng những mầm mống suy sụp của vƣơng triều này. Tuy nhiên, triều Nguyễn khá mạnh so với các quốc gia phong kiến khác ở khu vực Đông Nam Á nên trong chính sách đối ngoại, bên cạnh việc xin phƣơng Bắc phong vƣơng, chịu cống nạp, nhà Nguyễn không ngại đối đầu với các nƣớc Xiêm trong vấn đề “bảo hộ” Cao Miên (1811) và biến Cao Miên thành một tỉnh (1835) đổi tên Nam Vang thành Trấn Tây thành. Năm 1827, nhà Nguyễn cũng đã buộc Lào thần phục... Những xung đột xã hội đan cài và ngày càng căng thẳng đã dẫn tới hiện tƣợng xã hội nổi bật ngay đầu triều Nguyễn là sự bùng nổ liên tục của các phong trào nông dân khởi nghĩa mà tiêu biểu là khởi nghĩa của Phan Bá Vành. Bên cạnh những xung đột xã hội thời Nguyễn là những mƣu toan chính trị của các thế lực chống đối trong triều thì còn có các thế lực bên ngoài... 9 Về quân sự: nhà Nguyễn coi trọng việc binh bị. Nét mới trong nghệ thuật quân sự thời Nguyễn là đã bắt đầu có ảnh hƣởng của tƣ tƣởng phƣơng Tây. Một ngƣời Pháp lúc đó nhận xét: “những cuộc hành quân của vua xứ Nam kỳ giống kỳ lạ với các cuộc hành binh thời Đệ nhất Cộng hòa Pháp, giống kỳ lạ về việc tổ chức và vũ khí, nhất là chịu ảnh hưởng của các nhà quân sự Pháp cuối thế kỷ XVIII...”. Quân đội tuy đông nhƣng kém về luyện tập, vũ khí thiếu và lạc hậu. Một trong những thành quả Gia Long đạt đƣợc sau nhiều năm nội chiến với Tây Sơn là quân đội tƣơng đối mạnh với trang bị và tổ chức kiểu phƣơng Tây. Đến thời Minh Mạng, ông tổ chức quân đội theo kiểu mẫu phƣơng Tây, hƣớng đến tiêu chí “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, số lƣợng ngƣời cầm cờ từ 40 ngƣời giảm xuống 2 ngƣời trong đội ngũ đơn vị 1 vệ (500 ngƣời). Vua còn thuê các sĩ quan huấn luyện Tây Dƣơng nên phƣơng thức tác chiến đƣợc các học giả Mãn Thanh ghi nhận là giống hệt kiểu Pháp. Quân đội Nguyễn triều thời điểm đó, có thể coi là lực lƣợng quân sự tân tiến hiện đại nhất ở khu vực Đông Á, hơn hẳn các nƣớc lân bang nhƣ Trung Hoa, Thái Lan, Campuchia. Sang thời Tự Đức, công tác quốc phòng bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Một nguyên nhân quan trọng là vấn đề tài chính. Bộ binh đƣợc trang bị thô sơ: 50 ngƣời mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Chất lƣợng bảo trì vũ khí cũng kém. Về thuỷ binh, không có thêm tàu hơi nƣớc mới nào, thuỷ quân yếu ớt đến mức không đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Đời sống quân lính không đƣợc quan tâm thoả đáng, lƣơng thực lại bị ăn bớt. Bởi vậy nhuệ khí của quân sĩ suy giảm. Quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn không hề vƣợt quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong kiến. Việc giảng dạy binh pháp không hƣớng tới học hỏi phƣơng Tây nữa mà quay về Binh thƣ yếu lƣợc của Hƣng Đạo Đại vƣơng. Chính vì Pháp bỏ xa Đại Nam về khoảng cách vũ khí tân tiến, quân đội thiện chiến, nên nhà Nguyễn dần dà trở nên sợ hãi. Về tình hình văn hóa tư tưởng: Do nhiều lý do chủ quan và khách quan, trong sinh hoạt văn hóa, thời Nguyễn cũng đã có nhiều thành tựu độc đáo phát huy truyền thống văn hiến Việt Nam. Nhƣng trong lĩnh vực tƣ tƣởng, chủ yếu là Tống Nho vẫn đƣợc đề cao, thậm chí đƣợc coi là hệ tƣ tƣởng chính thống, vua nhà Nguyễn nói chung là hệ quy chiếu duy nhất, “xƣa hơn nay”, “nội Hạ ngoại Di”... 10 Do sự thâm nhập ngày càng mạnh của Thiên Chúa Giáo từ thế kỷ XVI, truyền thống “Tam giáo đồng quy” bị đe dọa nghiêm trọng. Trong thời Nguyễn, đặc biệt khi cuộc chiến tranh xâm lƣợc của thực dân Pháp đã nổ ra, có ba vấn đề tƣ tƣởng chi phối từ cung đình xuống dân chúng đó là các vấn đề: Chính đạo hay Tà giáo (Nho giáo hay Thiên Chúa Giáo?), Chiến hay Hòa (đánh Pháp hay đầu hàng?), Duy tân hay Thủ cựu (ủng hộ cải cách hay không?). Tiếc rằng, nhiều sĩ phu yêu nƣớc quay lƣng lại với xu hƣớng cải cách và ủng hộ việc “cấm” đạo của triều đình, đƣợc thi hành ngày càng gay gắt từ thời Minh Mạng, một chính sách tui có hạt nhân hợp lý và có ý nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia, nhƣng lợi bất cập hại trong thực tiễn. Nhƣ vậy, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam dù đã có những mặt phát triển, có những thành tựu mở mang kinh tế và văn hóa theo sự lớn mạnh về tầm vóc lịch sử dân tộc đầu thế kỷ XIX, nhƣng nó không giải quyết đƣợc xu thế khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỉ XVIII, đặc biệt khi làm sóng thực dân phƣơng Tây ngày càng đến gần. 1.2. Sự xâm nhập của phƣơng tây đến Việt Nam trong các thế kỷ XVII-XIX Đến trƣớc các cuộc phát kiến địa lý thế kỷ XV, hai nền văn hóa Đông Tây bị khu biệt một cách tƣơng đối. Bao quanh Phƣơng Tây lúc đó là biển cả, phía đông bị chặn lại bởi thế giới Hồi Giáo ở Bán đảo Tiếu Á mênh mông yêu sa mạc, vì sa mạc mang lại cho họ sự tự do và nhiều thứ lợi nhuận do cƣớp bóc từ các thƣơng đoàn của mạch đƣờng tơ lụa trên đất liền. Sự nhận thức của Phƣơng Tây về thế giới Phƣơng Đông xa xôi rất mơ hồ. Phải đến thế kỷ XV, khi mà nhiều cuộc phát kiến địa lý lớn diễn ra rất thành công, cơ hội tiếp xúc và giao lƣu giữa Đông và Tây mới thật sự mở ra. Khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, cung cấp những phƣơng tiện cơ bản, cần thiết cho các chuyến thám hiểm, cũng nhƣ cho các thƣơng – giáo đoàn tới phƣơng Đông, tạo tiền đề và cơ sở vật chất quan trọng giúp cho “hai nửa” văn hóa đó xích lại gần nhau. Trên phƣơng diện kinh tế, ngay từ giữa thế kỷ XV, những mầm mống kinh tế tƣ bản đã manh nha xuất hiện trong lòng nền kinh tế phong kiến Tây Âu. Sự phát triển kinh tế hàng hóa tƣ bản trong giai đoạn đầu tự do cạnh tranh khiến thị trƣờng truyền thống của các thƣơng nhân nơi đây trở lên chật hẹp, thúc đẩy họ tìm kiếm thị trƣờng mới ở phƣơng Đông. 11 Trên phƣơng diện tôn giáo, sự chia rẽ của đạo Ky tô, khiến Giáo hội La Mã bị mất dần vai trò ở châu Âu. Vì vậy, nhu cầu hƣớng ra vùng đất rộng lớn ngoài châu Âu, mong muốn tìm lại vị thế đang mất dần của mình, thúc đây các Giáo hội Âu châu tìm đến phƣơng Đông truyền bá đức tin. Trong khi đó, phƣơng Đông – một vùng đất rộng lớn, có vị trí địa lý thuận lợi nằm trên con đƣờng hàng hải thế giới, cũng với nền văn hóa hài hòa, cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp xúc Đông – Tây diễn ra. Thế kỷ thứ XVII và XVIII, đặc biệt là thế kỷ thứ XVII, là thời gian hình thành của giai cấp tƣ sản Âu Tây. Sau các cuộc phát kiến địa lý, tìm ra những đất mới ở Mỹ, Á, Phi, tƣ sản Âu Tây càng phát triển mạnh mẽ. Giai cấp tƣ sản thành hình, lấn vào chính quyền, xây dựng chế độ quân chủ độc đoán và chuẩn bị cho cuộc cách mạng tƣ sản. Tùy tƣơng quan lực lƣợng giữa tƣ sản và quý tộc bấy giờ trong mỗi nƣớc mà phong trào tƣ tƣởng chống Giáo hội, xây dựng một hệ thống lý tính khoa học có tính chất quyết liệt hoặc dung hòa với tƣ tƣởng tôn giáo. Đồng thời, thế kỷ XVII-XVIII ở phƣơng Tây cũng thừa hƣởng thành quả rực rỡ của khoa học kỹ thuật sau thời kỳ trung cổ. Trong khi đó ở phƣơng Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, chế độ phong kiến bƣớc vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Ở Việt Nam, sự tranh giành quyền lực của các thế lực phong kiến đã dẫn đến kết cuộc Nam – Bắc phân tranh. Mà kéo theo đó là chiến tranh tƣơng tàn, nhân dân ly tán, sống trong bần cùng, khổ cực. Trong hoàn cảnh đó, ý thức hệ Nho giáo – ý thức hệ chủ đạo của chế độ phong kiến và xã hội Việt Nam thời điểm đó, đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử. Đây là cơ hội và thuận lợi cho sự giao lƣu tiếp xúc văn hóa càng xuất hiện rộng rãi. Việt Nam có vị trí địa lý nằm ở rìa đông bán đảo Đông Dƣơng, là ngã tƣ đƣờng giao thoa các nền văn hóa lớn, là một nhịp cầu nối chính yếu giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo… Là quốc gia ven biển, vùng đất tiếp xúc đầu tiên với các tác nhân của cuộc tiếp xúc Đông – Tây. Đồng thời, ở Việt Nam còn có yếu tố thuận lợi, xuất phát từ đặc tính văn hóa của ngƣời Việt là văn hóa mở, sẵn sàng đón nhận yếu tố mới. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII cũng là một nhân tố thuận lợi cho cuộc tiếp xúc với văn hóa phƣơng Tây đƣợc diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Sự tranh giành quyền lực của các thế lực phong kiến Việt Nam thế kỷ XVII, thúc đẩy cả 12 chúa Trịnh và chúa Nguyễn tích cực, chủ động giao thƣơng và thiết lập quan hệ với các giá trị của phƣơng Tây, đặc biệt là về quân sự và khoa học kỹ thuật. Từ thế kỷ XV, đã có những ngƣời phƣơng Tây đầu tiên đến Việt Nam. Ngay từ đầu công nguyên, song chỉ từ thế kỷ XVI, XVII trở đi thì quá trình giao lƣu và tiếp xúc văn hóa mới thực sự đƣợc bắt đầu. Trong những thế kỷ đầu của quá trình giao lƣu này, vai trò chủ yếu thuộc về các nhà buôn và các giáo sĩ ngƣời châu Âu. Đối với Bồ Đào Nha: Thời điểm ngƣời Bồ Đào Nha có mặt ở Việt Nam là lúc chính quyền phong kiến Việt Nam đang bị chia rẽ bởi ba thế lực là nhà Mạc, vua Lê và họ Trịnh. Vì thế, dù ngƣời Bồ có đến miền Bắc vào năm 1523, đó là chuyến đi của Duatre Coelho nhƣng các thƣơng nhân chƣa có điều kiện tiếp xúc và thiết lập quan hệ giao thƣơng với chính quyền phong kiến Việt Nam, vì lúc này Việt Nam không có một nhà nƣớc phong kiến tập quyền mạnh để có thể thiết lập mối quan hệ chính thức với bên ngoài. Theo Li Tana thì ngƣời phƣơng Tây đầu tiên đến với Đàng Trong có thể là ngƣời Bồ Đồ Nha. Theo GS. Lê Văn Hảo có viết: "Năm 1516 Fernand Perez, năm 1524 Duatre Coelho ngƣời Bồ đã lần lƣợt đến Đại Việt để khảo sát một số vùng biển. Năm 1535, Antonio De Faria cho tàu tiến vào vịnh Hàn rồi chú ý ngay đến vị trí ƣu tú của vùng biển Cửa Đạ. De Faria là ngƣời đầu tiên nói đến Faifo (Hội An)". Đầu thế kỷ XVI, tàu buôn người Bồ đã đến và thiết lập buôn bán với người Việt. Năm 1524, Duarte Coelho ngƣời Bồ đƣợc cử làm đại diện để thiết lập thƣơng mại với ngƣời Việt. Năm 1535, Antonie de Faria cũng đã vào cửa Hàn, và đã để ý đến Hội An. Sau đó, khoảng năm 1540, thƣơng nhân Bồ Đào Nha từ Macao hoặc Nam Dƣơng đến Hội An vào tháng chạp hoặc tháng giêng bán, mua hàng nhƣ tơ, lụa, hồ tiêu, gỗ quý, qua tay các đại lý Hoa kiều hay Nhật kiều ở Hội An rồi quay thuyền về các căn cứ trên. Năm 1555, ngƣời Bồ lập trụ sở thƣơng mại ở Áo Môn (Macao), liên lạc buôn bán lại càng tiến triển ở cửa Hàn (Đà Nẵng) và cửa Hội An. Nguyễn Hoàng từ khi vào trấn thủ đất Thuận Hóa, và sau khi chiếm cả trấn Quảng Nam, muốn thế lực mạnh để đƣơng đầu với họ Trịnh, đã tìm cách lôi cuốn ngƣời Bồ đem đạn dƣợc, khí giới vào bán cho mình. Trong quá trình giao thƣơng với nƣớc ta, Bồ Đào Nha không tiến hành lập thƣơng điếm, tuy không để lại ngƣời buôn bán thƣờng trực, nhƣng họ rất muốn độc quyền 13 buôn bán với nƣớc ta. Năm 1584, đã có nhiều ngƣời Bồ Đào Nha sống ở Đàng Trong, việc buôn bán giữa ngƣời Bồ Đào Nha và Đàng Trong phụ thuộc vào quan hệ buôn bán giữa Macao và Nhật Bản. Về phía ngƣời Bồ, việc buôn bán với Đàng Trong trở nên quan trọng từ 1640, khi họ giảm bớt việc buôn bán với Nhật và hƣớng về Đông Nam Á. Về phía họ Nguyễn, việc buôn bán với họ Nguyễn chỉ có ý nghĩa thực sự khi xảy ra chiến tranh với họ Trịnh bởi vì đại bác là mặt hàng quan trọng nhất trong việc trao đổi với hai bên. Hội An là trung tâm tập trung và phân phối hàng hóa, Hội An xuất khẩu một số sản phẩm của địa phƣơng đứng đầu là kỳ nam hƣơng và vàng. Các thƣơng nhân Bồ Đào Nha chỉ thông qua các trung gian để gom hàng hóa hoặc giao dịch. Họ mua nhiều hàng hóa rẻ ở Việt Nam và bán ở các nƣớc châu Âu. Với tƣ cách là những ngƣời phƣơng Tây đầu tiên đến Việt Nam, ngƣời Bồ Đào Nha đã cậy có một nền hàng hải khỏe vào bậc nhất và hung hăng đến chiếm đất để buôn bán. Sau khi thành lập trung tâm buôn bán ở Hội An, ngƣời Bồ Đào Nha đã phát triển buôn bán với Đàng Ngoài. Ngƣời Bồ Đào Nha luôn muốn độc quyền ở Đàng Trong, nhƣng vào đầu thế kỷ XVII, ngƣời Bồ Đào Nha đã dần suy yếu nên hoạt động thƣơng mại của Bồ Đào Nha ở Đại Việt cũng chấm dứt khi mà ngƣời Hà Lan thiết lập thƣơng điếm của mình ở cả Hội An, Phố Hiến và Thăng Long-Kẻ Chợ của cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Về hoạt động truyền giáo, vào năm 1523, những cuộc tiếp xúc truyền giáo giữa ngƣời Việt và ngƣời Bồ Đào Nha đã diễn ra, nhƣng chỉ là những ý định bƣớc đầu, mãi đến năm 1544 một giáo sĩ ngƣời Bồ là Fernão Mander Pinto đi qua xứ Bắc để tham khảo tình hình, đến năm 1556, Fernão Mander Pinto lại đi qua bờ biển Việt Nam và tiến hành cắm cột thánh giá ở Cù Lao Chàm (thuộc Quảng Nam ngày nay). Dƣới thời vua Lê Anh Tông, nhà vua cởi mở cho việc truyền đạo của các giáo sĩ, và cũng trong thời gian này, các giáo sĩ dóng thánh Phanxico đã gửi thƣ lên nhà vua để xin truyền giảng, tuy nhiên, việc thiếu hụt các thừa sai khiến các giáo sĩ chần chừ, khất lại một thời gian nên việc truyền đạo không đƣợc tiến hành nhanh chóng và “bắt nhịp” cùng ý muốn của nhà vua. Dù vậy, theo một số tài liệu thì ngƣời ta vẫn tìm thấy những cột thánh giá ở Thanh Hóa. Cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ thứ XVII, các giáo sĩ ngƣời Bồ còn truyền giáo ở cả Thăng Long, nhƣng trong thời gian này, việc truyền giáo ở Macao và Philippines, Trung Quốc có nhiều bƣớc tiến triển, và công cuộc truyền giáo ở Đại Việt thƣờng xuyên liên lạc với các nơi này. 14 Cũng chính từ công cuộc truyền giáo, các giáo sĩ phải tiến hành học tiếng địa phƣơng, phiên âm và truyền giảng tiếng địa phƣơng, đó là lý do để giáo sĩ Alexandre de Rhodes – một giáo sĩ ngƣời Pháp, hoạt động truyền giáo dƣới danh nghĩa là giáo phận của Bồ Đào Nha đã dần hoàn thiện cuốn từ điển Việt-Bồ-La để dễ dàng trong việc truyền đạo, về sau, ngƣời Việt Nam từ nền tảng đó làm chữ Quốc Ngữ hoàn thiện nhƣ ngày hôm nay. Đối với Hà Lan: So với Bồ Đào Nha thì Hà Lan có nhiều thuận lợi cho việc buôn bán với Đại Việt. Công ty Đông Ấn Hà Lan đƣợc thành lập năm 1602, có tiềm lực lớn lao và đƣợc chính phủ bảo trợ mạnh mẽ. Trong những năm 1601, 1613 và 1617 đã có những thuyền buôn đầu tiên của VOC cập bến, thăm thú vùng Đàng Trong. Nhƣng, phải đến năm 1633, Hà Lan mới chính thức có quan hệ buôn bán với Đàng Trong sau sự kiện Paulus Traudenius ở Batavia cử đại diện của mình đến Hội An thƣơng thuyết. Kết quả là một thƣơng điếm của Hà Lan đƣợc thành lập ở Hội An do Duijcker đứng đầu và C.Caesar làm phụ tá. Ngƣời Hà Lan đã xây dựng cho các Chúa Nguyễn một xƣởng đúc súng ở vùng phụ cận Huế vào thế kỷ XIX. Ở miền Bắc Việt Nam, ngƣời Hà Lan là những ngƣời châu Âu chiếm vị trí thống trị trong giai đoạn đầu tiếp xúc này. Vào năm 1637, họ Trịnh đã mời họ mở mộtb trung tâm xuất nhập khẩu ở Phố Hiến (gần thị xã Hƣng Yên, tỉnh Hƣng Yên ngày nay). Các thƣơng nhân ngƣời Nhật, Trung Quốc và Xiêm đã kéo đến Phố Hiến thành lập trung tâm thƣơng mại quốc tế ở nơi này. Tuy nhiên mối quan hệ giữa Chúa Nguyễn và ngƣời Hà Lan có nhiều mâu thuẫn vì một số hành động quân sự của ngƣời Hà Lan với Đàng Trong nên thƣơng gia Hà Lan đã bị các chúa Nguyễn trục xuất nhiều lần. Đối với Anh: Ngay từ đầu thế kỷ XVII, nằm chung trong chiến lƣợc thăm dò Đông Á, ngƣời Anh đã chú ý tới việc đặt quan hệ với Việt Nam. Nền thƣơng mại bạc Nhật Bản đổi tơ lụa Trung Hoa đã lôi cuốn các hoạt động thƣơng mại của thƣơng nhân phƣơng Tây vì lợi nhuận cao. Tuy nhiên, vì không đƣợc phép buôn bán trực tiếp với Trung Quốc, nên ngƣời Anh thƣờng phải tới một số hải cảng Đông Nam Á, trong đó có Hội An của Đàng Trong Việt Nam để thu mua tơ lụa do các Hoa thƣơng đem tới đó. Năm 1613, Tempest Peacock và Walter Cawarden đƣợc cử từ thƣơng điếm Hirado tới Hội An mang theo một bức thƣ của vua James I (1603-1625) gửi chúa Đàng Trong và hàng hóa. Tuy nhiên, chuyến đi đã không thu đƣợc kết quả. 15 Năm 1672, ngƣời Anh đƣợc chính quyền Đàng Ngoài chính thức cho phép lập thƣơng điếm tại Phố Hiến. Công việc kinh doanh của thƣơng điếm ít thuận lợi dù sau đó đƣợc chuyển lên Kẻ Chợ (1683). Việc chấm dứt hoạt động của thƣơng điếm Anh tại Kẻ Chợ (1697) có nhiều nguyên nhân từ cả phía Việt Nam và phía Anh cũng nhƣ chịu tác động của tình hình ngoại thƣơng khu vực và quốc tế. Từ việc coi Việt Nam là một mắt xích trực tiếp của hệ thống thƣơng mại Đông Á trong thế kỷ XVII, thì từ giữa thế kỷ XVIII, Việt Nam chỉ đóng vai trò là một thị trƣờng trung chuyển, một khu vực “ngoại vi” của nền thƣơng mại với Trung Quốc. Trên thực tế, Anh không đủ thực lực để trải rộng ra trên toàn khu vực Ấn Độ và Đông Á. Về phía Việt Nam, sự đề kháng của chính quyền nhà Nguyễn chính là nguyên nhân quan trọng để Anh không thể chính thức bƣớc chân vào đất nƣớc. Dƣới tác động của hoàn cảnh, Anh đã nhìn nhận Việt Nam và Đông Á bằng một tƣ duy chính trị - chiến lƣợc nhiều hơn là bằng quan điểm đặt ƣu tiên cho những vấn đề kinh tế - thƣơng mại Đối với Pháp, với Pháp thì “những việc mua bán tham gia đầu tiên chỉ đƣợc thực hiện sau khi thành lập các giáo đƣờng Gia Tô”. Những hoạt động truyền giáo của ngƣời Pháp ít nhiều đe dọa sự tồn tại của các nguyên lý đạo đức - chính trị Nho giáo, cơ sở vững chắc của xã hội cổ truyền Việt Nam. Do vậy vào năm 1630 Chúa Trịnh đã trục xuất giáo sĩ Alexandre de Rhodes và thực hiện cấm đạo. Bƣớc sang đầu thế kỷ XIX, việc thâm nhập truyền giáo của Pháp đƣợc đánh giá trên vai trò của Pigneau de Béhaine, mặc dù việc liên hệ giữa giáo sĩ này với Nguyễn Ánh đã diễn ra ngay từ những năm cuối của thế kỷ XVIII, đến đầu thế kỷ XIX, việc can thiệp ngày càng sâu của giáo sĩ này với Nguyễn Ánh, sau này là giám mục Adran. Một điều phải thừa nhận rằng là các giáo sĩ đã một phần mang khoa học kỹ thuật phƣơng Tây đến Việt Nam nhƣ việc xây dựng kinh thành Huế với lối kiến trúc Vauban của Pháp, xƣởng đúc tiền, các chiến hào quân sự và cách đúc súng đồng, mà ngày nay ta có Cửu vị thần công ở Huế, các tàu chiến, súng và kỹ thuật quân sự của Pháp... Ngƣời Pháp cũng tiến hành hoạt động thƣơng mại với Việt Nam, ngƣời Pháp đến Việt Nam muộn so với các nƣớc phƣơng Tây khác (Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh), nhƣng việc buôn bán của ngƣời Pháp không phải là sự buôn bán theo mùa nhƣ ngƣời Bồ Đào Nha, mà họ buôn bán thông qua hoạt động của Công ty Đông Ấn Pháp (La 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất