BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TS. NGUYÊN XUÂN MINH
AN TOÀN KHU (ATK) TRUNG ƯƠNG
TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC PHÁP (1945 - 1954)
LỜI GIỚI THIỆU
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm
lược kéo dài 9 năm đã giành được thắng lợi to lớn, đánh dấu bằng chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ (71511954) và việc kí Hiệp định Giơnevơ
(21/7/1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Thắng lợi của kháng chiến đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu, trong đó có bài học về xây dựng, bảo vệ An toàn khu (ATK), nơi cư trú
và hoạt động của các cơ quan đầu não kháng chiến.
An toàn khu (gọi tắt là ATK) Trung ương là một vùng an toàn, nằm
sâu trong căn cứ địa Việt Bắc, chủ yếu thuộc địa phận Nam Chợ Đồn (Bắc
Cạn), Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái Nguyên), Sơn Dương,
Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang). Đó là nơi ở và làm việc của các cơ
quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng tư lệnh - Tổng chỉ
huy và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm
1947 - 1954.
An toàn khu Trung ương ở Việt Bắc có tầm quan trọng đặc biệt đối
với sự nghiệp kháng chiến của dân tộc. Nó là một trong những nhân tố có
tính chất quyết định đối với thắng lợi của kháng chiến. Nhưng cho đến nay,
trong nhận thức của người dân Việt Nam, nói đến cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, hầu như phần lớn chỉ biết đến Chiến khu Việt Bắc, ít người
biết đến ATK Trung ương trong trong vùng đất nổi tiếng này.
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cán bộ,
sinh viên bộ môn Khoa học Xã hội - Nhân văn nói chung và Khoa Lịch sử
nói riêng, chúng tôi xin được giới thiệu tập chuyên đề: An toàn khu (ATK)
Trung ương trong kháng chiến chống thực dân Pháp (]945 - 19S4).
Công trình đã được Hội đồng khoa học cấp Nhà nước nghiệm thu năm
1996. Mặc dù được Hội đồng đánh giá vào loại Tốt, nhưng trải qua hơn 10
năm, với những nguồn tư liệu mới, chắc chắn công trình này cồn có những
hạn chế, thiếu sót. Mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của bạn
đọc.
Xin chân thành cảm ơn.
Tác giả.
CHƯƠNG I
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH AN TOÀN KHU
TRUNG ƯƠNG TRONG CĂN CỨ ĐỊA VIỆT BẮC
I - VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC VÀ TRUYỀN THỐNG CỦA
VIỆT BẮC TRONG LỊCH SỬ CHỐNG NGOẬI XÂM
1. Việt Bắc - một địa bàn chiến lược hiểm yếu
Việt Bắc là tên gọi một vùng lãnh thổ thuộc một phần
thượng du và trung du Bắc Bộ; phía bắc và đông bắc giáp nước
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; phía đông nam giáp tỉnh Quảng
Ninh; phía nam giáp đồng bằng Bắc Bộ; phía tây giáp các tỉnh
thuộc Tây Bắc.
Nằm kề sát đất nước Trung Quốc rộng lớn vốn có mối quan
hệ chặt chẽ với cách mạng Việt Nam từ nhiều năm trước, cùng
chung một dải biên giới, với chiều dài 751km, đi qua địa phận 15
huyện, 97 xã (56.II), Việt Bắc có điều kiện thông thương quốc tế
thuận lợi.
Khu vực trung tâm của Việt Bắc gồm các tỉnh: Cao Bằng,
Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang. Khu
vực ngoại vi gồm một số địa phương thuộc các tỉnh: Vĩnh Yên,
Phúc Yên, Phú Thọ, Yên Bái và Bắc Giang. Việt Bắc có diện tích
tự nhiên khoảng 32.991 km2 (gần 1110 diện tích cả nước). Rừng
núi chiếm khoảng 90% diện tích của khu (127.7), chủ yếu ở các
tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Bắc Cạn và
phần lớn các lỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên, một phần phía bắc các
tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Giang.
Rừng Việt Bắc có nhiều loại gỗ, tre, nứa, cây cối rậm rạp,
xanh tết quanh năm.
Núi đồi Việt Bắc trùng điệp, phần lớn là núi đá vôi, ở ba
mặt: bắc, tây nam và đông đông nam là những dãy núi đá cao bao
bọc, tạo thành một phòng tuyến thiên nhiên hùng vĩ.
Trên các dãy núi đá có nhiều hang động. Đó chính là nơi ẩn
nấp và cất giấu lương thực, thực phẩm khá an toàn của bà con
các dân tộc trong vùng mỗi khi có giặc bên ngoài đến xâm lấn.
Hang Phượng Hoàng (Võ Nhai, Thái Nguyên) là một hang đá
rộng lớn, đã từng là nơi diễn ra cuộc chiến đấu quyết liệt của 75
chiến sĩ tự vệ cùng với 1500 dân chúng chống địch khủng bố hồi
tháng 11/1944 (83.63). Hang Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) là
một hang kín đáo, bí mật, đã từng gắn bó với cuộc đời hoạt động
của Nguyễn Ai Quốc trong những ngày đầu mới về nước. Các
hang động ở Bắc Sơn (Lạng Sơn), hang Kéo Quảng (Nguyên
Bình), động Bó Lình (Quảng Hoà, Cao Bằng) cũng đều gắn liền
với phong trào cách mạng ở địa phương. Quần thể hang động ở
Nà Pài (Xã Hằng Phúc, Chợ Đồn, Bắc Cạn) đã từng là nơi nhân
dân công du kích xã cất giấu lương thực phục vụ cuộc kháng
chiến chống Pháp trong những năm 1947 - 1954.
Ven theo các chân núi là các thung lũng chạy dài, khá bằng
phẳng, thuận lợi cho việc canh tác và xây dựng cơ quan công
xưởng.
Việt Bắc có nhiều sáng, suối, ao, hồ. Các con sông lớn (sông
Hồng, sông Đà, sông Lô...) đều phát nguyên từ Trung Quốc,
xuyên qua Việt Bắc đổ vào đồng bằng Bắc Bộ, rồi chảy ra biển.
Một số con sông (Kỳ Cùng, Bằng Giang...) bắt nguồn từ địa phận
Việt Bắc rồi chảy sang Trung Quốc. Những đoạn sông chảy qua
vùng thượng du thường có lòng hẹp. nhiều ghềnh thác hiểm trở
và độ dốc khá lớn. Vào mùa mưa, từ tháng 3 đến tháng 8, nước lũ
dâng cao đột ngột, dòng sông chảy xiết, ảnh hưởng không tốt đến
cơ động lực lượng và giao thông vận tải. Vào mùa khô, dòng
sông cạn, thuyền bè khó đi lại.
Việt Bắc thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
hàng năm vào khoảng 230C ở Vùng thấp, 200C đến 220C ở vùng
Cao trung bình (từ 200 trên 500 mét) và dưới 200C ở vùng có độ
cao từ 500 mét trở lên. Hàng năm, từ tháng 1đến tháng 4, thường
có gió mùa đông bắc. gây ra mưa phùn, sương mù dày đặc khắp
núi rừng.
Cùng với sông ngòi, khe suối, Việt Bắc có các đường bộ,
đường sắt được xây dựng từ thời thuộc Pháp. Những con đường
này phần lớn xuất phát từ Hà Nội, toả ra các hướng, đi qua các
tỉnh trong khu Việt Bắc đốn tận biên giới Việt - Trung. Quốc lộ
số 3, số 2, 13A, 1B, số 4 đều là những con đường huyết mạch nối
liền Việt Bắc với Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ. Những con
đường này có bề mặt hẹp, hầu hết được rải đá, có nhiều đèo dốc
quanh co khúc khuỷu. Nhiều đoạn đường chạy ven theo các sườn
núi cao, một bên là vách đá dựng đứng, một bên là sông sâu vực
thẳm.
Ngoài các con đường lớn là hệ thống đường đất nhỏ, dường
mòn ngang dọc, nối liền giữa các vùng trong khu với nhau, giữa
khu với các vùng lân cận và giữa các địa phương hai bên biên
giới Việt - Trung.
Với hệ thống các đường thuỷ, bộ, địa hình đốc, núi rừng
hiểm trở, việc giao thông - nhất là giao thông bằng phương tiện
cơ giới trên địa phận Việt Bắc gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
Ngược lại, địa thế đó rất thuận lợi cho hoạt động cách mạng
trong thời kỳ trứng nước, đặc biệt là cho việc thực hiện chiến
tranh du kích. Dựa vào địa hình phức tạp và hiểm trở của vùng
Việt Bắc, phong trào cách mạng có thể dễ dàng gây dựng cơ sở,
phát triển lực lượng, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn
có thể lui vào thố thủ, bảo toàn lực lượng.
Việt Bắc cũng là một địa bàn rất cơ động về chiến lược.
Thông qua hệ thống các con đường mòn, đường nhỏ xuyên rừng,
từ Việt Bắc, phong trào cách mạng Việt
Nam có thể dễ dàng liên lạc với quốc tế, trước hết là với
cách mạng Trung Quốc. Từ Việt Bắc, phong trào cách mạng có
thể mở rộng sang hướng Tây Bắc để liên lạc với cách mạng Lào.
ớ hướng đông, Việt Bắc nối liền với rừng núi Quảng Ninh, Đông
Triều, kéo dài xuống tận miền duyên hải. Về phía nam, Việt Bắc
áp sát thủ đô Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ. Vì thế, về mặt quân
sự mà xét, Việt Bắc là một nơi dụng binh lợi hại.
Nằm ở vị trí trung tâm Việt Bắc là 4 huyện tiếp giáp nhau:
Định Hoá Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Cạn), Sơn Dương và
Yên Sơn (Tuyên Quang).
Định Hoá là một huyện miền núi ở phía tây bắc tỉnh Thái
Nguyên; Phía bắc giáp huyện Chợ Đồn và Bạch Thông (Bắc
Cạn); Phía nam giáp huyện Đại Từ (Thái Nguyên); phía dông
giáp huyện Phú Lương ( Thái Nguyên); phía tây giáp huyện Sơn
Dương và Yên Sơn ( Tuyên Quang).
Sông, suối ở Định Hoá tuy nhiều, nhưng đều nhỏ, không
thuận lợi về giao thông. Việc đi lại trong huyện chủ yếu thông
qua các con đường mòn. Sau khi chiếm đóng Định Hoá (năm
1889), nhằm phục vụ mục đích cai trị, đàn áp, bóc lột, thực dân
pháp xây dựng con đường 38 chạy từ ki lô mét 31(quốc lộ 3) di
Chợ Chu; rồi từ đày chúng mở đường nối liền Thành Cóc (Sơn
Dương), đôn Nghĩa Tá (Chợ Đồn), đồn Quảng Nạp và Phú Mình
(Đại Từ).
Địa thế hiểm trở, núi rừng bạt ngàn là một trong những yếu
tố đảm bảo cho Định Hoá trở thành địa điểm xây dựng ATK
Trung ương, chủ yếu thuộc địa phận các xã: Phú Đình, Điềm
Mặc, Thanh Định, Định Biên. Bốn xã này đều cách xa trục
đường giao thông chính. Phía tây có dãy núi Hồng án ngữ, tạo
nên bức trường thành kiên cố. Nối liền các xã là những con
đường mòn nhỏ hẹp, kín đáo. Trong khu vực bốn xã có nhiều khe
suối chảy qua, rất thuận lợi cho việc sinh hoạt và trồng trọt. Xen
kẽ giữa các thôn, bản là những đồi cây rậm rạp, tạo thành bức
màn phủ kín đường đi lối lại và nhà ở bên trong.
Kề sát với khu vực bốn xã của Định Hoá, về phía tây, vượt
qua dãy núi Hồng là huyện Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang)
và về phía bắc, vượt qua đỉnh đèo Xo là huyện Chợ Đồn (Bắc
Cạn)
Sơn Dương là một khu vực bán sơn địa, ở vào một vị trí
thuận lợi. Về phía đông, Sơn Dương giáp tỉnh Thái Nguyên, phía
tây giáp tỉnh Phú Thọ,phía nam giáp tỉnh Vĩnh Yên, phía bắc
giáp huyện Yên Sơn. Rừng núi Sơn Dương khá hiểm trở, phía
đông có dãy núi Hồng nối liền với dãy núi Tam Đảo, phía nam có
dãy núi Lịch, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa huyện Lập Thạch
( Vĩnh Phú) và Sơn Dương; phía tây có sông Lô uốn khúc - một
dòng sông đã đi vào lịch sử với những chiến công oai hùng.
Vớt địa thế thuận lợi và có cơ sở quần chúng vững chắc từ
trước, các xã: Tân Trào, Lương Thiện, Bình Yên, Minh Thanh
(tức Minh Khai và Thanh La) thuộc Sơn Dương; Công Đã, Đạo
Viện, Kim Quan, Hùng Lợi, Trung Sơn thuộc Yên Sơn; Vinh
Quang, Xuân Quang thuộc Chiêm Hoá được Trung ương chọn
làm An toàn khu trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Khu vực ba xã tây nam huyện Chợ Đồn: Thành Công,
Thắng Lợi, Yên Thịnh là một vùng núi non trùng điệp. Khu vực
ba xã trên, nay thuộc địa phận của bảy xã nối liền nhau: Bình
Trung, Lương Bằng, Nghĩa Tá, Nam Bằng Lũng, Yên Thịnh,
Yên Thượng và bản Ty. Phía nam vùng này có đèo Xo (giáp
huyện Định Hoá) là một dãy núi lớn kéo dài từ Bình Trung (Tức
Thành Công) đến Lương Bằng, là ranh giới tự nhiên giữa Chợ
Đồn với các huyện Yên Sơn, Chiêm Hoá ( Tuyên Quang). Trên
dãy núi nổi lên ngọn núi Khau Nhót, Khau Ty, Khau Bươn.
Ngọn Khau Nhót cao chừng 500 - 600 mét, nằm ở địa phận
của Nghĩa Tá và Lương Bằng, tựa như bức trường thành. Theo
các con đường mòn, vượt Khau Bươn là sang địa phận Yên Sơn,
Chiêm Hoá, Xen kẽ giữa các núi cao có nhiều khe sâu và thung
lũng hẹp. Đó cũng chính là những "cửa ngõ" thông thương giữa
vùng Tây
Nam Chợ Đồn với vùng Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hoá
(Tuyên Quang), Định Hoá (Thái Nguyên).
Việt Bắc nói chung và khu vực 4 huyện: Định Hoá, Chợ
Đồn, Sơn Dương, Yên Sơn nói riêng có điều kiện tự nhiên khá
thuận lợi cho việc xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cấp tự
túc. Ruộng đất canh tác ở nơi này tuy không nhiều và không lốt
như vùng đồng bằng, nhưng do mật độ dân cư thấp, nên bình
quân diện tích chia cho đầu người ở đây nhiều hơn. Hơn nữa,
ngoài ruộng vườn, Việt Bắc còn có nhiều đồng cỏ, nương rẫy có
thể tận dụng để trồng lúa, ngô, khoai, sắn, các loại rau đậu, cây
ăn quả và chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Hệ thống sống suối ở Việt Bắc không những đảm bảo nhu
cầu canh tác và sinh hoạt của con người, mà còn là nguồn cung
cấp tự nhiên khá dồi dào về thuỷ sản.
Thiên nhiên ưu đãi khu Việt Bắc, dành cho nơi đây một
nguồn tài nguyên khá phong phú và toàn diện. Ngoài đất và rừng,
với nhiều loại lâm thổ sản có thể khai thác được như gỗ, tre, nứa,
song, mây, nấm hương, mộc nhĩ và các loại chim muông, thú
rừng, Việt Bắc còn dồi dào về khoáng sản và năng lượng.
Việt Bắc nằm trong vùng kiến tạo Hecxini - Inđôxini bao
quanh địa khối vòm sông Chảy. Nhiều đường đứt gãy theo nhiều
hướng là những nơi sinh khoáng quan trọng. Quan trọng hơn là
các đứt gãy phụ tạo nên nhiều loại khoáng sản liên quan đến các
đá xâm nhập Granitôit phổ biến trong khu, như các đứt gãy Lạng
Sơn - Thái Nguyên, đứt gãy Hà Giang - Bắc Cạn, có các mỏ đá
kim loại ở Chợ Điền, Chợ Đồn, Tuần Muội, mỏ kẽm ở Tràng
Đà, Lang Hit, mỏ thiếc ở Tĩnh Túc, mỏ Ăngtimoan ở Chiêm Hoá,
mỏ thuỷ ngân ở Hà Giang. Mỏ Trầm tích cũng phong phú. đáng
chú ý nhất là mỏ sắt Thái Nguyên, quanh dấy có nhiều mỏ than
(57.93). Mỏ vàng đều có rái rác ở nhiều nơi trong khu.
Sẵn có nguồn của cải phong phú đó, Việt Bắc có khả năng
đáp ứng một phần nhu cầu vật chất cho kháng chiến, đảm bảo
cho lực lượng kháng chiến có thể tồn tại và phát triển. Đối với
nước ta, trong điều kiện chưa có kinh tế hàng hoá, giao thông
khó khăn, lại bị đế quốc bao vây, phong tỏa, sự tồn tại nền
kinh tế tự nhiên như ở Việt Bắc, trong chừng mực nhất định, có
tác dụng tích cực đối với cuộc kháng chiến.
2. Việt Bắc - một vùng đất kiên cường, bất khuất.
Sinh sống ở vùng Việt Bắc có trên 1.200:000 dân (tính đến
trước Cách mạng tháng Tám), thuộc khoảng 30 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc tuy có phong tục tập quán riêng, nhưng họ sống
không tách biệt: mà thường cư trú xen kẽ với nhau trong cùng
một địa phương. Điều này thể hiện tính cộng đồng, thống nhất
vốn có từ lâu đời giữa nhân dân các dân tộc Việt Bắc. Đồng bào
các dân tộc Việt Bắc thực thà, chất phác, có quan hệ họ hàng,
quan hệ thân tộc rất sâu sắc. Trong nhiều dân tộc, người thủ lĩnh
hoặc tộc trưởng, gia trưởng có uy quyền rất lớn. Một số dân tộc ở
Việt Bắc thường có phong tục kết nghĩa anh em (hất tồng, có
nghĩa là kết nghĩa anh em, sống chết có nhau).Người dân Việt
Bắc có tỉnh cảm chân thực. Một khi đã tin yêu thì họ hết lòng,
sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn.
Sống gần gũi với thiên nhiên, người dân Việt Bắc rất yêu
thiên nhiên, nhưng chính họ là nạn nhân trực liếp của những tai
hoạ khủng khiếp và thường xuyên do thiên nhiên gây ra. Thời
tiết, khí hậu khắc nghiệt, mưa lũ cùng với thú dữ... luôn luôn đe
doạ đến cuộc sống và tính mạng của người dân miền núi.
Nhân dân các dân tộc Việt Bắc còn phải thường xuyên chịu
những hậu quả nặng nề do chiến tranh gây ra. Xưa kia, Việt Bắc
luôn luôn trở thành bãi chiến trường, nơi luôn phải đương đầu
với cuộc tấn công xâm lược của các thế lực phong kiến phương
Bắc. Có mỗi lần quân giặc tràn sang hoặc rút chạy, nhân dân các
dân tộc Việt Bắc đều chịu bao tai hoạ khủng khiếp: chém giết,
bắt bớ, cướp của, đốt phá...
Từ giữa thế kỷ XVI, trong thời kỳ Trịnh - Mạc phân tranh,
cuộc nội chiến ác liệt kéo dài trên nửa thế kỷ đã diễn ra giữa hai
tập đoàn phong kiến thù địch đó. Nhiều địa phương trong vùng
Việt Bắc cũng trở thành bãi chiến trường. Sách "Đại
Việt sử ký toàn thư" chép rằng: "Các xứ Kinh Bác, Thái
Nguyên, Lạng Sơn can qua rất động". Nạn nhân trực tiếp của
những cuộc chém giết ấy là nhân dân. Các tập đoàn phong kiến
đã không từ một thủ đoạn nào để vơ vét nhân lực, vật lực của
nhân dân để phục vụ cho cuộc tranh chấp quyền lực.
Dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân các dân tộc Việt
Bắc hết sức cực khổ. Ngoài những nỗi khổ của người dân nghèo
bị áp bức như ở nơi khác, đóng bào nơi đây phải chịu nhiều nỗi
nhục riêng. Họ phải sống trong tình trạng trình độ văn hoá, khoa
học thấp kém, phong tục tập quán lạc hậu và nạn mê tín dị đoan
còn rất nặng nề. Lợi dụng tình hình này, bọn đế quốc và tay sai ở
địa phương dùng cường quyền và thần quyền để cai trị, bóc lột
nhân dân.
Để dễ bề cai trị, thực dân Pháp ra sức thực hiện chính sách
chia rẽ dân tộc.
Chúng xuyên tạc, xúi giục, kích động, gây nên sự hằn thù
giữa anh tộc này với dân tộc khác. Chúng còn dung túng cho bọn
trộm cướp, thổ phỉ tự do hoành hành gây nên bao điều bất hạnh
cho nhân dân. Đồng bào các dân tộc ít người luôn sống trong nỗi
lo sợ bị hãm hại. Bởi vậy, một số dân tộc không thể chịu đựng
nổi sự chèn ép, áp bức, dã phải chuyển đến những vùng xa xôi,
hẻo lánh để sinh sống.
Không cam chịu cuộc đời nô lệ, nhân dân các dân tộc Việt
Bắc đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống lại cường quyền và áp
lực, chống lại các thế lực ngoại xâm.
Tờ khi thực dân Pháp xâm lược, các dân tộc Việt Bắc đã
đoàn kết cùng nhân dân cả nước liên lục tổ chức đấu tranh. Tiêu
biểu cho những phong trào đó là cuộc khởi nghĩa của Lương
Tuấn Tú ở Cao Bằng (1886 - 1895), của Hoàng Đình Kinh ở
Lạng Sơn ( 1886 - 1888), của đồng bào Tày Bắc Cạn do Phùng
Bá Chỉ lãnh đạo (1892 - 1896) và cuộc nổi dậy của đồng bào
Mang ở Hà Giang dưới sự chỉ huy của Hà Quốc Trượng ( 1894 1896). Đó là không kể đến cuộc nổi dậy của quần chúng nhân
dân do các đề, đốc, lãnh binh, thủ lĩnh lãnh đạo, nổ ra khắp vùng
Việt Bắc. Trong số này, nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa nông dân
Yên Thế do Hoàng Hoa
Thám lãnh đạo kéo dài gần 30 năm (1884 - 1913 ). Do biết
dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng Việt Bắc để đánh du kích,
phạm vi hoạt động của nghĩa quân Yên Thế lan rộng trong nhiều
tỉnh từ Bắc Giang qua Thái Nguyên, Phúc Yêu, Vĩnh Yên lên
Phú Thọ, Tuyên Quang.
Trong những năm đầu thế kỷ 20, phong trào đấu tranh vũ
trang ở Việt Bắc vẫn phát triển, (rong khi phong trào ở các tỉnh
miền xuôi có phần tạm lắng và chuyển sang hình thức khác. Năm
1900 nhân dân các dân tộc huyện Quảng Hoà, Hoà An (Cao
Bằng) cùng với các sĩ phu yêu nước và hội Tam Điểm của Lưu S
Đường đánh đồn Phía Mạ của Pháp ở Nước Hai (Hoà An, Cao
Bằng).
Năm 1906 - 1907, Chúng A Dệt - người dân tộc Ngái ở
Bằng Khẩu - đã cự tuyệt sự mua chuộc của giặc Pháp, kiên quyết
lãnh đạo nhân dân địa phương đấu tranh chống Pháp trong gần 3
năm. Năm 1911 - 1912, đồng bào Mông ở Mường Hưu, Mèo
Vạc. nổi dậy hoạt động khắp vùng Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên
Quang.
Cùng thời gian trên. nghĩa quân Hoàng Hoa Thám mả rộng
địa bàn hoạt động đến vùng Định Hoá. Con em đồng bào các dân
tộc trong vùng gia nhập nghĩa quân và chiến đấu dũng cảm. Ngày
1/4/1912, một cuộc giao chiến ác liệt giữa nghĩa quân và quân
pháp diễn ra trên đoạn đường từ Chợ Chu đi Quảng Nạp. Tiếp
đó, ngày 13/9/1912 một toán quân Pháp đi càn đã bị nghĩa quân
chặn đánh trên đoạn đường từ Chợ Chu đi Chợ Mới.
Trong thời gian tiếp theo, các hoạt động chống Pháp ở Việt
Bắc vẫn được duy trì. Năm 1914, nhân dân Bắc Cạn do Đội Kỳ,
Đội Thân và Lý Thảo Long lãnh đạo, nổi dậy đánh chiếm tỉnh lị;
sau đó rút vào Lũng Vài để chiến đấu đến cùng với giặc Pháp.
Ngày 4/8/1916 nhân dân Phố Ngữ (Phú Tiến, Định Hoá) chiến
đấu hỗ trợ cho cuộc nói dậy của một đoàn tù nhân bị quân Pháp
áp giải từ nhà lao Thái Nguyên đến nhà lao Chợ Chu (Định Hoá)
nổi dậy phá ngục, cướp vũ khí diệt địch, đồng thời tấn công nhà
Bưu điện,...
Đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, lạo nên
bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của Cách mạng nước ta.
Phong trào cách mạng ở các vùng dân tộc thiểu số cũng bước vào
thời kỳ mới. Một vài nơi ở Việt Bắc lần lượt xác dựng cơ sở
Đảng (xem chú thích ở cuối phần phụ lục) và cơ sớ cách mạng.
Định Hoá (Thái Nguyên) và Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên
Quang) là những ôm Phương sớm có đảng viên Cộng sản đến
hoạt động.Cuối năm 1937, một cơ sở cách mạng ra đời ở Quán
Vuông, gồm 7 người, do hai đảng viên (Vũ Hưng và Nguyên
Đình Chiêm) lãnh đạo. Bước sang năm 1938, cơ sở cách mạng
lan sang Bảo Cường Từ Quán Vuông - Bảo Cường, đường dây
liên lạc được nối liền với cơ sở La Bằng (Đại Từ).
Tại vùng Sơn Dương, Yên Sơn, ngay từ năm 1935, được sự
lãnh đạo của cán bộ cách mạng, nông dân thôn Khe Thuyền (xã
Văn Phú) tổ chức đấu tranh chống thuế. Năm 1939 vì bị bắt phu
làm đường từ xã Thái Bình đi Thành Cóc, đến Chợ Chu, nhân
dân các xã Kim Lộng (nay là Tân Trào), Khuổi Phát, Khuổi Chao
(Kim Quan) bản Pìlth, bản Pài áo Búc, Khuổi Mòn, Thác Ràng...
tổ chức đấu tranh. Cơ sở và phong trào cách mạng nhanh chóng
lan rộng ra các xã thuộc Sơn Dương và Yên Sơn.
Trong thời kỳ vận động Cách mạng tháng Tam ( 1939 1945), Việt Bắc là nơi xuất hiện những căn cứ địa đầu tiên, tạo
thế đứng cho phong trào cả nước.
Cuối năm 1940, căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai hình thành,
và nhanh chóng mở rộng ra các vùng xung quanh, thuộc địa phận
các tỉnh tạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang.
Đầu năm 1941, ngay sau khi về nước để trực tiếp lãnh đạo
phong trào cách mạng, Nguyễn ái Quốc đã chọn Cao Bằng làm
nơi thí điểm xây dựng các tổ chức Cứu quốc của Mặt trận Việt
Minh. Từ một khu vực nhỏ hẹp Nà Xác - Pác Bó - Lục Khu (Hà
Quảng), mà trung tâm là Pác Bó, phạm vi căn cứ địa phát triển
rộng ra cả các vùng Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Cuối năm
1943, thông qua những "con đường quần chúng", hai trung tâm
căn cứ địa Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai được nối liền với
nhau, tạo thành một khu liên hoàn vững chắc. Cùng thời gian
này, chiến khu Hoàng Hoa Thám ra đời, đánh dấu bước phát triển
mới của phong trào cách mạng ở Việt Bắc. Vùng Đại Từ, Định
Hoá, Sơn Dương trở thành trung tâm của phân khu B thuộc
Chiến khu Hoàng Hoa Thám.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (913/1945), Việt Bắc là nơi
có phong trào phát triển mạnh nhất so với toàn quốc. Tại đây,
ngay từ những ngày đầu tháng 3, tháng 4 năm 1945, nhiều nơi đã
xoá bỏ được chính quyền địch và thành lập chính quyền cách
mạng.
Ngày 14/3/1945, ủy ban Cách mạng lâm thời châu Sơn
Dương thành lập, đánh dấu thắng lợi to lớn của phong trào cách
mạng địa phương. Sau một thời gian ngắn, chính quyền cách
mạng lần lượt ra đời ở Chiêm Hoá, Yên Sơn.
Tại Định Hoá, chinh quyền cách mạng cũng được thành lập
từ 28/3/1945.
Do chịu ảnh hưởng của các trung tâm căn cứ địa cách mạng
Cao - Bắc - Lạng, Bắc Sơn - Võ Nhai và Đại Từ - Đỉnh Hoá Sơn Dương, phong trào cách mạng ở huyện Chợ Đồn, nhất khu
vực phía tây nam, phát triển rất nhanh chóng và vững chắc.
Cuối tháng 3/1945 nhân dân các xã trong huyện lần lượt nổi
dậy xoá bỏ chính quyền địch và giành quyền làm chủ. Đầu tháng
4!1945, Uỷ ban nhân dân lâm thời huyện Chợ Đồn thành lập và
ngay sau đó lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống mới.
Giữa tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã
đề ra nhiệm vụ xây đựng Việt Bắc thành khu căn cứ địa kháng
chiến kiểu mẫu để mở rộng chiến tranh du kích. Ngày 4/6/1945
khu giải phóng chính thức ra đời, bao gồm sáu tỉnh: Cao Bằng,
Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và
một số vùng thuộc các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh
Yên. Tân Trào (Sơn Dương,
Tuyên Quang) được chọn làm thủ đô khu giải phóng, trở
thành trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước. Chính từ
nơi đây, Hội nghị đại biểu Đảng toàn quốc ( 14 - 1518/1945 ) và
Quốc dân đại hội ( 16 - 17/8/1945) đã quyết định phát động tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Cũng chính từ
Tân Trào, ngày 16/8/1945, Giải phóng quân tiến về thị xã Thái
Nguyên để mở đường về Hà Nội.
Theo nghị quyết hội nghị cán bộ Việt Minh (6/1945), khu
giải phóng Việt Bắc phải trở thành một khu căn cứ địa vững chắc
về mọi mặt : chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá để làm bàn đạp,
giải phóng toàn quốc. Trong khu giải phóng, mười chính sách
của mặt trận Việt Minh được thực hiện.
Chính quyền cách mạng tịch thu ruộng đất của bọn thực dân
Pháp và tay sai phản động, các loại công điền, công thổ chia cho
dân cày nghèo, vận động đồng bào khai khẩn ruộng hoang, phát
triển sản xuất. Một số nơi trong khu giải phóng còn tổ chức giúp
nhau thóc giống, trâu cày. Những nhà có nhiều ruộng đất san xẻ
cho những gia đình thiếu ruộng để cùng sản xuất. Chính quyền
cách mạng và Mặt trận Việt Minh cũng hướng dẫn nhân dân cấy
đúng kỹ thuật, đảm bảo đủ phân, nước để nâng cao sản lượng.
Trong khu giải phóng, mỗi châu, huyện đều thành lập một
Ban giáo viên chính trị Ban này có nhiệm vụ tuyên truyền chủ
trương, chính sách của Uỷ ban chỉ huy khu giải phóng, của Mã.
trận Việt Milth, đồng thời đi xuống các xã mở các lớp huấn luyện
ngắn ngày. Mỗi xã có một nhà Hội đồng Cứu quốc. Cứ 15 ngày
một lần, dân chúng đều được nghe nói chuyện về tình hình nhiệm
vụ cách mạng hoặc bàn giao các công việc ở địa phương. Khắp
nơi trong khu giải phóng đều tràn ngập bầu không khí sinh hoạt
chính trị sôi nổi. Hoạt động tuyên truyền được đẩy mạnh. Báo chí
phát hành rộng rãi và trở thành một nhu cầu của nhân dân. Châu
nào cũng có một tờ báo địa phương. Toàn khu có tờ "Nước Nam
mới", "Quân giải phóng"; Cao - Bắc - Lạng có tờ "Việt Nam độc
lập"
Sự nghiệp văn hoá, giáo dục được quan tâm. Nhiều trường
cấp I được mở hoặc phục hồi. Riêng Chợ Đồn, nơi có phong trào
giáo dục mạnh nhất lúc đó, mở 5 lớp học cho con em đang vào
Dao ở vùng Cốc Phường, Nà Pa (Quảng Bạch), Kéo Màng (Bản
Thi), Nà Đeng nghĩa Tá), Bản Ca (Bình Trung).
Để đáp ứng phèng trào giáo dục nhiều nơi trong khu giải
phóng mờ các trường, lớp đào tạo giáo viên. Trường sư phạm sơ
cấp cứu quốc đảo thành lập ở Chiêm Hoá (Tuyên Quang), đào
tạo được 35 giáo viên; ở Chợ Đồn (Bắc Cạn) đào tạo được hơn
40 giáo viên. Hầu hết các huyện phủ, châu đều có một đội văn
nghệ. ờ một số nơi như: Chiêm Hoá, Yên Sơn, Sơn Dương, Chợ
Đồn... các đội văn nghệ được trang bị các loại nhạc cụ. Đội văn
nghệ đi xuống các xã gày dựng phong trào và dạy các bài ca cách
mạng cho nam nữ thanh niên (63, 65). Thông qua đó, thanh niên
được hướng dần vào các hoạt động cách mạng. Cuộc sống mới
được nhen nhóm và phát triển nhanh chóng, từng bước đẩy lùi
các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại. ánh sáng cách mạng toả
khắp vùng Việt Bắc và đem lại những đổi thay sâu sắc trong đời
sống kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc. Truyền thống
đoàn kết, thuỷ chung, kiên cường bất khuất hình thành qua nhiều
thế kỷ đấu tranh chống giặc ngoại xâm, càng được phát huy cao
độ.
Như vậy, vùng Việt Bắc nói chung và khu vực 4 huyện:
Định Hoá, Chợ Đồn, Sơn Dương, Yêu Sơn nói riêng không chỉ
có địa thế thuận lợi cho việc che giấu lực lượng và kho tàng, mà
còn có cơ sở quần chúng tốt. lại rất cơ động. Hơn nữa, nơi đây
vốn đã là căn cứ địa, là trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng
cả nước. Vùng đất 4 huyện có đầy đủ các yếu tố: địa lợi và nhân
hoà, vừa nằm sâu trong khu căn cứ địa Việt Bắc, lại vừa có điều
kiện thông thương với vùng trung du và đồng bâng. Trung ương
Đăng và Chính phủ đã phát hiện ra nơi đây có đủ những điều
kiện cần thiết của một An toàn khu vững chắc của cơ quan đầu
não kháng chiến.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA AN TOÀN KHU TRUNG ƯƠNG
TRONG CĂN CỨ ĐỊA VIỆT BẮC
Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (1419/1946) ký
chưa ráo mực, thực dân Pháp đã ngang nhiên bội ước. Chúng liên
tiếp gây ra các vụ khiêu khích và xâm lược ngày càng trắng trợn.
Cùng với vụ đánh chiếm Hải Phòng (20/11/1946), quân
Pháp tấn công ta ở Lạng Sơn. Với việc đánh chiếm hai cửa ngõ
đường biển và đường bộ quan trọng này, thực dân Pháp đã thực
sự bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô lớn đối với
miền Bắc nước ta.
Trước tình hình ấy, ngay từ tháng 10 - 1946, Hội nghị quân
sự toàn quốc của Đảng đã nhận định: "Nhất định không sớm thì
muộn, Pháp sẽ đánh mình, và mình cũng nhất định phải đánh
Pháp" (134.64). Trung ương Đảng kêu gọi toàn dân "Sẵn sàng
chiến đấu để tự vệ bất cứ lúc nào và chỗ nào".
Ban Thường vụ Trung ương Đảng tập trung chỉ đạo cả nước
chuẩn bị bước vào chiến tranh.
Nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trong khi tiềm lực
kinh tế. quân sự còn nhỏ yếu, sức dự trữ kháng chiến rất mỏng
manh. Ngược lại, thực dân Pháp có một đội quân viễn chinh nhà
nghề giầu kinh nghiệm đi xâm lược, được trang bị vũ khí hiện
đại. Nước Pháp là một cường quốc tư bản có nền công nghiệp
phát triển, nên tiềm lực kinh tế và quân sự rất mạnh.
Trong điều kiện đổ, muốn giành được thắng lợi, chúng ta
không thể : "Đem toàn lực dốc vào một vài trận hòng phân thắng
bại", mà phải có thời gian để chuyển hoá lực lượng. Đánh lâu dài
thì bên trong nhân dân đoàn kết, đồng lòng kháng chiến; bên
ngoài, nhân dân thế giới càng hiểu rõ sự nghiệp chính nghĩa của
ta, càng ra sức ủng hộ ta. Đánh lâu dài, chúng ta mới có điều kiện
bồi dưỡng và phát triển lực lượng, chuyển thiếu thành đủ, chuyển
yếu thành mạnh. Ngược lại, địch đánh lâu dài thì mục đích chiến
tranh phi nghĩa của chúng càng lộ rõ và do đó sẽ bị nhân dân
Pháp và nhân dân thế giới lên án, lực lượng của chúng bị tiêu hao
và tiêu diệt, mệt mỏi, tử mạnh chuyển thành yếu, từ thắng chuyển
thành bại.
Đảng ta coi kháng chiến lâu dài là bí quyết của thắng lợi.
Điều kiện cơ bản để thực hiện đường lối kháng chiến lâu dài
là phải bảo tồn và phát triển lực lượng kháng chiến, đồng thời
phải xây dựng được nền kinh tế có khả năng tự túc, tự cấp. Muốn
vậy, điều quan trọng là phải xây dựng được những khu căn cứ
vững chắc, an toàn, không chỉ có địa hình thuận lợi, mà phải có
cơ sở và phong trào quần chúng vững mạnh.
Lịch sử dân tộc và kinh nghiệm thành công của Cách mạng
tháng Tám đã nót lên tầm quan trọng của căn cứ địa. Các căn cứ
địa lúc bấy giờ, nhất là khu giải phóng Việt Bắc, là nơi đứng
chân của các cơ quan lãnh đạo, là chỗ dựa vững chắc để duy trì
và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, để giữ vững và mở
rộng chiến tranh du kích cục bộ, thúc đẩy cao trào kháng Nhật
cứu nước, góp phần quan trọng đưa cuộc Tổng khởi nghĩa tháng
Tám đến thắng lợi hoàn toàn.
Khi cả nước bước vào kháng chiến, vấn đề xây dựng lực
lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang trở thành nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu. Trong điều kiện ấy, không thể không nói đến vấn
đề căn cứ địa cách mạng, vấn đề hậu phương của chiến tranh
cách mạng. "Căn cứ địa là chỗ đứng chân của cách mạng, đồng
thời là chỗ dựa để xây dựng lực lượng và phát triển lực lượng vũ
trang, đẩy mạnh đấu tranh vũ trang cách mạng, trên ý nghĩa đó,
nó cũng là hậu phương của chiến tranh cách mạng" (47.l05)
Trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng lan rộng, hầu hết
các thành phố, thị xã, các đường giao thông quan trọng đang lần
lượt bị thực dân pháp chiếm đóng, thì vấn để giữ nông thôn, xây
dựng những vùng đất tự do đối với kháng chiến lại càng trở nên
cần thiết. Trên những vùng đất tự do ấy, phải tạo dựng được
những khu an toàn, chắc chắn và tiện lợi nhất cho việc đặt cơ
quan đầu não để lãnh đạo mọi hoạt động kháng chiến - kiến quốc
trong cả nước. Điều này càng trở nên quan trọng khi mà kẻ thù
đang có âm mưu và kế hoạch đánh úp cơ quan đầu não kháng
chiến hòng nhaanh chóng kết thúc chiến tranh.
Bởi vậy, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
với tầm nhìn chiến lược sáng suốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
phân công Phạm Văn Đồng cùng một số cán bộ ở lại Việt Bắc
một thời gian để củng cố căn cứ địa.
Cuối tháng 10 năm 1946, Trưởng ban tài chính Trung ương
Đảng Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc
để chuẩn bị địa điểm xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Một số
địa điểm thuộc huyện Định Hoá, Nam Chợ Đồn được chọn làm
nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Chính
phủ trong trường hợp phải rời khỏi thủ đô Hà Nội.
Tháng 11/1946, Trung ương Đảng quyết định thành lập dội
công tác đặc biệt, do Trần Đăng Ninh phụ trách. Đội gồm đại
biểu các ngành quân sự, an ninh, chính quyền đoàn thể, chuyên
lo việc nghiên cứu di chuyển và chọn địa điểm an toàn đặt các cơ
quan Trung ương. Công việc chuẩn bị cho các cơ quan Trung
ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận rời khỏi thủ đô Hà Nội cũng
được đẩy mạnh, nhất là từ sau vụ thực dân Pháp gây hấn ở Hải
Phòng và Lạng Sơn.
Giữa tháng 1211946, một số cán bộ trong Độ công tác đặc
biệt lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ. Sau một thời gian
khảo sát thực tế, cân nhắc kỹ mọi mặt, Đội quyết định chọn địa
phận các huyện: Định Hoá, Đại Từ, Võ Nhai, Phú Lương (Thái
Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Cạn), Sơn Dương, Yêu Sơn, Chiến Hoá
(Tuyên Quang), mà trung tâm là Định Hoá, Chợ Đồn, Sơn
Dương, Yên Sơn, làm nơi xây dựng An toàn khu (ATK) của
Trung ương.
Cùng thời gian trên, các cơ quan Trung ương rời khỏi Hà
Nội, chuyển dần về phía Tây Nam, thuộc địa phận các tỉnh Hà
Đông, Sơn Tây.
Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặt trụ sở làm việc tại các địa điểm: Vạn Phúc (Hà
Đông), Viên Nội (Thanh Oai, Hà
Đông), Chùa Thầy, Cần Kiệm (Quốc Oai, Sơn Tây). Phần
lớn các cơ quan, cơ sở hậu cần quân đội được chuyển ra vùng
ven các thành phố, thị xã, rồi chuyển dần lên Việt Bắc.
Ngày 26/12/1946, giữa lúc Hà Nội đang rực lửa chiến đấu,
tại một địa điểm thuộc Hà Đông, Hội đồng Chính phủ họp phiên
mở rộng. Sau khi nghe báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hộ
Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, mọi người đều tán thành kháng
chiến đến cùng để giành lại nền độc lập hoàn toàn cho dân tộc.
"Trong một gian phòng kín, bốn bề im lặng, dưới ánh sáng nhỏ
của ngọn đèn dầu, sau lời tuyên bố quyết chiến của Hồ Chủ tịch,
tất cả nắm tay giơ lên, biểu dương tất cả ý chí của cả dân toạ,
(51.5).
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi công tác ở Thanh Hoá
(19/2/1947), Chính phủ ra quyết định chọn Việt Bắc làm chiến
khu (51.40).
Hàng vạn trấn máy móc, nguyên vật liệu, lương thực, thực
phẩm... từ những vùng địch có thể đánh chiếm, được vận chuyển
về các khu vực an toàn. Quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn
khổ khăn, gian khổ để hoàn thành việc di chuyển trước khi chiến
sự lan tới.
Trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng lâu rộng và ác liệt,
để đảm bảo thực lực kháng chiến lâu dài, Trung ương đặc biệt coi
trọng việc dự trữ gạo, muối là hai khu cần thiết yếu nhất.
Nha tiếp tế (thuộc Bộ kinh tê) chuyên lo việc thu mua và dự
trữ thóc gạo. Bộ Tài chính đặt kho dự trữ thóc gạo ở nhiều địa
phương. Cục quân nhu cũng lập được hệ thống kho dự trữ ở các
tỉnh: Hà Đông, Ninh Bình, Sơn Tây, Phú Thọ, Thái Nguyên,
Tuyên Quang.
Cơ quan phân tán muối cũng được thành lập, trực thuộc Bộ
Tài chính, có nhiệm vụ tổ chức vận chuyển muối thuế của Nhà
nước và muối thu mua trên thị trường tự do về các địa điểm an
toàn.
Cùng thời gian trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho
Trưởng ban tài chính Nguyễn Lương Bằng chuyển gần hai vạn
tấn muối từ kho Văn Lý (Nam Định) lên Việc Bắc và Tây Bắc
trước khi địch đánh chiếm vùng duyên hải (59.68).
Công việc vận chuyển muối được tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ.
Đội vận chuyển muối được thành lập và khẩn trương nghiên cứu
chu đáo đường vận chuyển. Từ ngày 25/12/1946, công việc vận
chuyển muối bắt đầu được triển khai. Từ Văn Lí, muối được
chuyển ngược dòng sông Đáy vào Vân Đình lên Ba Thá, qua
sông Bùi đến cầu ái Mỗ (Sơn Tây), rồi ngược dòng sông Hồng
lên Phú Thọ, Tuyên Quang; và tiếp tục chuyên chở lên Lào Cai,
Sơn La, Hà Giang, Thái Nguyên, Bắc Cầu, Cao Bằng. Riêng Cục
quân nhu (Bộ Quốc phòng) cũng chuyển được trên 400 tấn muối,
2,5 triệu mét vải, 3000 bao tải bằng và nhiều tấn sợi lên căn cứ
địa Việt Bắc (62.91).
Việc hoàn thành vận chuyển muối là một trong những thắng
lợi quan trọng trong quá trình chuẩn bị xây dựng ATK Trung
ương ở Việt Bắc. Nó đảm bảo cung cấp đầy đủ muối ăn cho cán
bộ, bộ đội và nhân dân tại khu căn cứ ngay cả khi địch đánh
chiếm miền duyên hải.
Các máy móc, vật tư, các cơ quan y tế, giáo dục... cũng
được nhanh chóng chuyển lên căn cứ. Một khối lượng lớn máy
móc, dụng cụ, nguyên vật liệu... thuộc các tỉnh Ninh Bình trở ra,
được đưa về Phủ Lạng Thương, ứng Hoà và chuyển dần lên Việt
Bắc theo các tuyến đường: Hoà Bình - Hưng Hoá - Tuyên Quang
- Chiêm Hoá; Phủ Lạng Thương lên Thái Nguyên - Chợ Chu Chợ Đồn. Trong đợt tổng di chuyển đầu tiên, ta đã đưa lên căn cứ
địa Việt Bắc gần 40.000 tấn máy móc; nhờ vậy mà xây dựng
được 57 cơ sở sản xuất khi toàn quốc bước vào kháng chiến. Kho
bạc từ gà Nội cũng được kịp thời chuyển ra Chi Nê, sau đó lên
Đầm Hồng, Bản Thi (62.91).
Đầu năm 1947, đợt tổng di chuyển hoàn thành. Háu hết các
cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Quân đội, các
cơ quan kinh tế, văn hoá, giáo dục... đều lần lượt rời khỏi Thủ đô
lên Việt Bắc. Đó đồng thời cũng là quá trình thực hiện kế hoạch
nghi binh, đánh lạc hướng các mũi săn lùng của địch. Trong lúc
địch đang chú ý vào hướng Tây Nam Hà Nội thì cơ quan Trung
ương Đảng và nhà nước bí mật "thiên đô" lên hướng tây Bắc (62.
160). Nhờ vậy, từ cuối tháng 3, đầu tháng 4/1947, các cơ quan
Đảng, Nhà nước, Quân đội. .. đã có mặt tại các địa điểm trong
- Xem thêm -