Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ẩn dụ tu từ trong thơ tố hữu...

Tài liệu ẩn dụ tu từ trong thơ tố hữu

.PDF
123
332
50

Mô tả:

Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, là người mở đầu và dẫn đầu tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng. Suốt cuộc đời gắn bó với hoạt động cách mạng và sáng tạo thơ ca, ông đã thực sự tạo nên được niềm yêu mến, nỗi đam mê bền chắc trong lòng nhiều thế hệ độc giả. Ông là người đã đem đến cho công chúng và cũng nhận được từ họ sự đồng cảm, đồng điệu, đồng tình tuyệt diệu. Tố Hữu là hình ảnh tiêu biểu của một kiểu nhà thơ mới - nhà thơ trữ tình chính trị. Con đường thơ của Tố Hữu song hành cùng quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN HUỆ YÊN ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC THÁI NGUYÊN - 2008 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN HUỆ YÊN ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Quang Năng THÁI NGUYÊN – 2008 Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN 5 NỘI DUNG LUẬN VĂN 1.1. Khái niệm về ẩn dụ 5 1.2. Các kiểu ẩn dụ 9 1.3. Đặc điểm của ẩn dụ tu từ 17 1.4. Một số nét khái quát về nhà thơ Tố Hữu 23 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU 29 2.1. Thống kê, phân loại về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu 29 2.2. Tính chất của hình ảnh ẩn dụ trong thơ Tố Hữu 51 Chương 3: CHỨC NĂNG CỦA ẨN DỤ TRONG THƠ TỐ HỮU 60 3.1. Chức năng xây dựng hình tượng 60 3.2. Chức năng biểu cảm 69 3.3. Chức năng thẩm mỹ 75 3.4. Chức năng nhận thức 81 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 PHỤ LỤC 99 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, là người mở đầu và dẫn đầu tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng. Suốt cuộc đời gắn bó với hoạt động cách mạng và sáng tạo thơ ca, ông đã thực sự tạo nên được niềm yêu mến, nỗi đam mê bền chắc trong lòng nhiều thế hệ độc giả. Ông là người đã đem đến cho công chúng và cũng nhận được từ họ sự đồng cảm, đồng điệu, đồng tình tuyệt diệu. Tố Hữu là hình ảnh tiêu biểu của một kiểu nhà thơ mới - nhà thơ trữ tình chính trị. Con đường thơ của Tố Hữu song hành cùng quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. 1.2. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Tố Hữu là một bộ phận không thể thiếu trong vốn văn hóa tinh thần của quần chúng Cách mạng. Trong hơn nửa thế kỉ qua, thơ Tố Hữu luôn có mặt trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn ở các cấp học. Thơ ông đã "đốt lửa" và "truyền lửa" tới muôn triệu trái tim bạn đọc. Đồng thời, thơ Tố Hữu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi trong nước cũng như nước ngoài. Thơ Tố Hữu được nghiên cứu từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau. Tố Hữu được đánh giá là "nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại" [26, tr. 407]. 1.3. Thơ Tố Hữu "bắt rễ sâu và hấp thu sức mạnh trong nguồn mạch dân tộc, thể hiện sự thống nhất cao độ giữa cách mạng và dân tộc trong hình thức tươi đẹp của nghệ thuật. Ông tiếp thu được cả hai nguồn thơ ca dân gian và bác học, đã kế tục sáng tạo nhiều thể thơ dân tộc, thực hiện sự thống nhất dân tộc - hiện đại trong nghệ thuật" [26, tr. 407]. Không cố công đi tìm hình thức biểu hiện trong sự gọt giũa cầu kì hay những kỹ xảo thơ ca mà ông có ý thức về sự kết hợp giữa dân tộc, truyền thống và hiện đại. Cái hiện đại trong thơ ông được thể hiện nhuần nhuyễn trên nền truyền thống và dân tộc. Ông rất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 dân tộc khi trở về với thơ ca dân gian, với thơ ca yêu nước. Ông quan tâm đến hình ảnh, ngôn ngữ và nhạc điệu trong thơ. 1.4. Chọn đề tài "Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu", luận văn mong muốn làm rõ thế giới nghệ thuật độc đáo trong thơ Tố Hữu, đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về những đóng góp của nhà thơ ở phương diện nghệ thuật. Nghiên cứu "Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu" cũng để làm rõ những giá trị, những kinh nghiệm và truyền thống của phương thức tu từ mà người thi sĩ cách mạng này đã từng khai phá và sáng tạo. 1.5. Đã có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá, nghiên cứu toàn diện hoặc nhiều khía cạnh nội dung, nghệ thuật của thơ Tố Hữu: phong cách nghệ thuật, tính dân tộc, ngôn ngữ, nhạc điệu... Tuy vậy, ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu cho đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ. Do vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn sẽ cố gắng tập trung vào hướng khảo sát còn để ngỏ này. 2. Lịch sử vấn đề Trong dòng chảy của thơ ca Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, ẩn dụ tu từ đã góp phần tạo nên những nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Phải kể tới sự đóng góp của nghệ sĩ dân gian trong ca dao - dân ca, Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính, Xuân Diệu hay Chế Lan trong thơ, đặc biệt là Tố Hữu. Hơn nửa thế kỉ qua, thơ Tố Hữu trở thành một hiện tượng, một đối tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi như: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông…Từ những góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đều thống nhất đánh giá: Tố Hữu là một phong cách lớn, thơ Tố Hữu có giá trị đặc sắc trong sự phát triển của nền văn học dân tộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Ngoài những nghiên cứu ở góc độ phê bình văn học, thơ Tố Hữu được nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu thi pháp thơ Tố Hữu, tính dân tộc trong nghệ thuật biểu hiện, cách sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình ảnh... Trong "Phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu", Nguyễn Văn Hạnh có viết "Đọc thơ anh thoáng qua dễ không thấy hết được những phát hiện mới mẻ, độc đáo. Ít thấy kỹ thuật. Thậm chí có những cái quen thuộc, "chung chung", gần "mòn", "cũ" (…). Nó có chỗ mạnh của nó. Đó cũng là một trong những chỗ mạnh của văn học dân gian" [23, tr. 843]. Lê Đình Kỵ đã khẳng định tính dân tộc đậm đà trong thơ Tố Hữu qua cách sử dụng ẩn dụ trong thơ: "Tố Hữu cũng sử dụng rộng rãi lối ví von rất quen thuộc của ca dao (…). Thông thường thì là ví von gián tiếp hơn, theo lối mà ngày nay chúng ta gọi là ẩn dụ, nhưng ý vị và cấu trúc thì vẫn rất gần với ca dao" [38, tr. 801]. Trong cuốn "Những thế giới nghệ thuật thơ", Trần Đình Sử có nhận xét về thế giới ngôn từ trong thơ Tố Hữu: "Xét về ngôn từ thơ Tố Hữu là cả một thế giới bùng cháy, tỏa sáng, nẩy nở tột cùng, dâng hiến tột độ (…). Hệ thống hình ảnh ngôn từ ấy làm cho thơ Tố Hữu thực sự là tiếng thơ nóng bỏng, sáng ngời, bay bổng, nhiệt huyết" [51, tr. 187]. Cũng trong bài viết này, tác giả khẳng định "Ngôn từ thơ Tố Hữu mang tính chất hiện thực và cổ điển" [51, tr. 188]. Khảo sát ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu là hướng đi tiếp nối những công trình đi trước nhằm tìm ra những nét mới mẻ và độc đáo trong thế giới nghệ thuật của người nghệ sĩ cách mạng. 3. Phạm vi nghiên cứu Tập Thơ Tố Hữu (NXB Văn hóa - thông tin, HN - 2002) gồm các tập thơ: Từ ấy (1946); Việt Bắc (1954); Gió lộng (1961); Ra trận (1962-1971); Máu và Hoa (1977); Một tiếng đờn (1992); Ta với Ta (1999). Tất cả tập sách gồm 7 tập thơ với 284 bài thơ. Nghiên cứu hiện tượng ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Thi pháp học thể loại: vận dụng thi pháp thể loại (thơ trữ tình) 4.2. Phương pháp thống kê: Thống kê số lượng ẩn dụ tu từ được sử dụng trong các tập thơ của Tố Hữu. Kết quả thống kê sẽ được phân loại phục vụ cho việc nghiên cứu định lượng, miêu tả và bàn luận cụ thể về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. 4.3. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích đặc điểm từng kiểu loại ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét, đánh giá khái quát những nét độc đáo về nghệ thuật sử dụng ngôn từ của nhà thơ trong việc xây dựng các hình tượng nghệ thuật. 4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu: Luận văn so sánh cách sử dụng ẩn dụ tu từ qua các tập thơ của Tố Hữu để làm nổi bật nét mới của các ẩn dụ tu từ trong quá trình sáng tác của Tố Hữu. 5. Đóng góp của luận văn 5.1. Về lý luận: Nghiên cứu ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu góp phần làm sáng tỏ những nét độc đáo trong phong cách thơ Tố Hữu nhằm khẳng định tài năng "lá cờ đầu của thơ ca cách mạng". Đồng thời, xác định giá trị của phương tiện tu từ này trong sự phát triển của thơ ca đương đại. 5.2. Về thực tiễn: Từ việc khẳng định những đặc sắc của ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, thấy được những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà thơ như một truyền thống hòa nhập vào thơ ca đương đại. Nó còn góp phần thúc đẩy việc tìm hiểu tác phẩm văn học dựa trên mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, nhất là con đường tiếp cận ngôn ngữ tác phẩm ở cấp độ từ ngữ. 6. Cấu trúc của luận văn - Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương sau: Chương 1: Cơ sở lý thuyết: Những vấn đề liên quan đến nội dung luận văn. Chương 2: Đặc điểm ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. Chương 3: Chức năng của ẩn dụ trong thơ Tố Hữu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN VĂN 1.1. KHÁI NIỆM VỀ ẨN DỤ 1.1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu ẩn dụ Vấn đề ẩn dụ luôn được đặt ra và nghiên cứu từ nhiều cấp độ khác nhau của truyền thống học thuật riêng biệt như các học thuyết của triết học, tâm lý học, phong cách học, ngôn ngữ học và gần đây là dụng học và ngôn ngữ học tri nhận. Trong các công trình nghiên cứu thuộc về ngôn ngữ học truyền thống, ẩn dụ thường chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn trong phần từ vựng học và tu từ học với qun điểm coi nó là một phương thức phát triển nghĩa mới của từ (ẩn dụ từ vựng) hoặc là một biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ). Lý thuyết về ẩn dụ có một lịch sử lâu dài và đầy sóng gió, bắt đầu từ triết học thời Hi Lạp cổ đại với tên tuổi của triết gia Aristotle - một trong những người thầy triết học. Ông đã xem ẩn dụ là hình thức trang trí trong ngôn ngữ nghệ thuật và hùng biện bằng phương thức chuyển nghĩa từ giống đến loài, từ loài sang giống hoặc dựa trên cơ sở tương tự. Ở Trung Hoa cổ đại, trong các công trình nghiên cứu của các học giả, ẩn dụ thể hiện qua khái niệm tỉ (chỉ cách ví von, bóng gió) và ẩn chứa trong lời diễn khởi đầu của các bài dân ca sau này được ghi lại trong tác phẩm Kinh Thi nổi tiếng. Thời hiện đại, ẩn dụ cũng xuất hiện trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ trên thế giới như R. Jakobon, J.Cohen, P. Ricoeur, Samuel Levin và sau này là G. Lakoff và Mark Tumer,... ở những góc độ nghiên cứu khác nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu đáng chú ý về ẩn dụ của các nhà Việt ngữ học, các nhà nghiên cứu văn học. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Tu, Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa, Nguyễn Đức Tồn, … 1.1.2. Các quan niệm về ẩn dụ 1.1.2.1. Ẩn dụ là một phương thức chuyển nghĩa của từ Ẩn dụ là nét độc đáo của ngôn ngữ tự nhiên. Ẩn dụ được nghiên cứu trong rất nhiều lĩnh vực theo những góc độ và những cách thức khác nhau. Trên thế giới, người đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về ẩn dụ là Aristotle trong cuốn Thi học. Trong tác phẩm này, Aristotle đã nói rằng ẩn dụ là sự áp dụng cho một sự vật nào đó một cái tên mà cái tên này vốn thuộc về một sự vật khác hoặc là từ loại cho đến chủng hoặc từ chủng cho đến loại, từ loại nhỏ sang loại nhỏ khác dựa vào sự đồng dạng. Aristotle đã phát biểu lý thuyết về phép so sánh rút gọn, lý thuyết về bản chất so sánh rút gọn của ẩn dụ. Theo đó, ẩn dụ được xem như một phần so sánh được rút gọn bằng cách loại bỏ từ so sánh "như là", "là" v.v...Chẳng hạn, theo Aristotle, ẩn dụ người là chó sói là một phép rút gọn từ một phép so sánh người giống như là một con chó sói (so sánh trong tiếng Việt: mặt hoa là rút gọn từ phép so sánh: Mặt (người) tươi như hoa). Trong các sách nghiên cứu ẩn dụ trong và ngoài nước, cho đến nay, ẩn dụ thường được coi là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau. Theo A.A.Refor-matxkij thì "ẩn dụ theo nghĩa chiết tự là "sự chuyển đổi", là trường hợp chuyển nghĩa điển hình nhất. Sự chuyển nghĩa theo ẩn dụ dựa trên sự giống nhau của các sự vật về màu sắc, hình thức, đặc tính vận động v.v..." [Dẫn theo 59, tr. 1]. Theo Ju. X. Xtepanov thì "Bản thân từ Meta phora từ tiếng Hy Lạp cũng có nghĩa là "sự chuyển nghĩa" và " khi một từ, tuy vẫn còn liên hệ với biểu vật mới, thì hiện tượng ngôn ngữ đó là ẩn dụ" [Dẫn theo 60, tr. 1]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 Các nhà ngôn ngữ học trong nước cũng có quan điểm tương tự. Nguyễn Văn Tu cho rằng: Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên gọi của một sự vật khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan hệ đó chúng ta phải so sánh ngầm. Khác với hoán dụ, phép ẩn dụ, theo tưởng tượng của ta mà gọi một sự vật chỉ có vài dấu hiệu chung với sự vật mà từ biểu thị trước thôi. Chính nhờ những dấu hiệu chung gián tiếp ấy mà ta thấy mối quan hệ giữa các vật khác nhau [63, tr. 159]. Đỗ Hữu Châu cũng quan niệm: "Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên gọi của một sự vật hiện tượng khác, giữa chúng có mối quan hệ tương đồng". [7, tr. 54]. Sau này, trong công trình Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu giải thích một cách cụ thể hơn: "Cho A là một hình thức ngữ âm, X và Y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn là tên gọi của X (tức X là ý nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn dụ là phương thức lấy tên gọi A của X để gọi tên Y (để biểu thị Y), nếu như X và Y có nét nào đó giống nhau" [8, tr. 145]. Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: "Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau" [21, tr. 162]. Đào Thản đã giải thích khá rõ ràng, cụ thể khái niệm ẩn dụ trong mối quan hệ với sự so sánh: "Ẩn dụ cũng là một lối so sánh dựa trên sự giống nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất, hoặc chức năng của hai đối tượng. Nhưng khác với so sánh dùng lối song song hai phần đối tượng và phần so sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại phần để so sánh" [53, tr. 143]. Theo quan điểm của Nguyễn Đức Tồn thì bản chất của ẩn dụ là: "phép thay thế tên gọi hoặc chuyển đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác loại dựa trên cơ sở sự liên tưởng đồng nhất hóa chúng theo đặc điểm, thuộc tính nào đó cùng có ở chúng" [61, tr. 8]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 Lần đầu tiên, trong sự phân tích ẩn dụ trong quan hệ với so sánh, Nguyễn Đức Tồn đã chỉ ra một cách cụ thể, rõ ràng cái mà lâu nay người ta vẫn nói ẩn dụ là so sánh ngầm. Và thực chất "về lôgic, chỉ có sự đồng nhất hoặc tương đồng hoàn toàn giữa các sự vật thì mới cho phép có thể dùng cái này để thay thế cái kia được (cũng giống như nguyên tắc thay thế phụ tùng, máy móc trong khoa học kỹ thuật" [60, tr. 5]. 1.1.2.2. Ẩn dụ là một biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ) Cù Đình Tú cho rằng: "Ẩn dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi biểu thị đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở mối quan hệ liên tưởng về nét tươnghs hiểu của đồng giữa hai đối tượng" [65, tr. 179]. Đinh Trọng Lạc quan niệm: Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện thực hoặc tưởng tượng ra) giữa khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) A được định danh với khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động tính chất) B có tên gọi được dùng chuyển sang cho A [34, tr. 52]. Theo Nguyễn Thái Hòa: "Phép ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa của một đối tượng này thay cho đối tượng khác khi hai đối tượng có một nét nghĩa tương đồng" [36, tr. 194]. Hữu Đạt cũng quan niệm: Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra. Người tiếp nhận văn bản khi tiếp cận với phép ẩn dụ phải dùng năng lực liên tưởng để quy chiếu giữa các yếu tố hiện diện trên văn bản với các sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài văn bản. Như vậy, thực chất của phép ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc[13, tr. 302]. Theo Nguyễn Đức Tồn, ẩn dụ tu từ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 Được sử dụng như một biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi cảm, gợi hình và giá trị thẩm mỹ cho sự diễn đạt. Cho nên có thể gọi nó là ẩn dụ lâm thời hay ẩn dụ tu từ. (…) Ẩn dụ lâm thời hay ẩn dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng, do vậy mới có khả năng cùng chỉ một đối tượng nhưng mỗi người lại có thể có cách diễn đạt bằng hình ảnh ẩn dụ khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau [61, tr. 4]. Như vậy, qua những cách hiểu và định nghĩa nêu trên, có thể thấy rằng, trong Việt ngữ học, ẩn dụ ẩn dụ được xem xét theo hai góc độ. Thứ nhất, ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa cơ bản của đơn vị từ vựng dựa vào mối tương đồng giữa sự vật - đối tượng. Theo góc độ này, ẩn dụ là đối tượng nghiên cứu của từ vựng học. Thứ hai, ẩn dụ là một biện pháp tu từ nhằm tạo nên những biểu tượng trong nhận thức của con người. Ở góc độ này, ẩn dụ là đối tượng nghiên cứu của phong cách học, được coi là biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ). Với tư cách là biện pháp tu từ, ẩn dụ tu từ được khảo sát trong những ngữ cảnh cụ thể, gắn liền với văn bản. Nếu tách khỏi văn cảnh thì giá trị ngữ nghĩa của nó sẽ không còn tồn tại. 1.2. CÁC KIỂU ẨN DỤ 1.2.1. Quan niệm của Đỗ Hữu Châu Theo Đỗ Hữu Châu, ẩn dụ có các kiểu sau đây: + Ẩn dụ hình thức là những ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật. Ví dụ, những ẩn dụ trong các từ chân trong chân bàn, chân núi, chân tường, từ mũi trong mũi thuyền, mũi đất, mũi dao; từ cánh trong cánh buồm, cánh đồng, cánh quạt...là những ẩn dụ chỉ hình thức. + Ẩn dụ chỉ cách thức là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa hai hoạt động, hiện tượng.Ví dụ, nắm tư tưởng, cắt hộ khẩu chỉ rõ cách thức nhận thức tư tưởng, cách thức chuyển hộ khẩu cũng giống như cách chúng ta cắt, nắm một sự vật vật lí cụ thể nào đó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 + Ẩn dụ chức năng là những ẩn dụ dựa dựa vào sự giống nhau về chức năng giữa các sự vật. Ví dụ, các ẩn dụ chức năng như chốt trong giữ chốt, cửa trong cửa sông, cửa rừng. + Ẩn dụ kết quả là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về tác động của các sự vật đối với con người.Ví dụ, ấn tượng nặng nề là muốn nói tới tác động của ấn tượng đối với lí trí, tình cảm của chúng ta cũng giống như một vật nào đó có trọng lượng lớn mà chúng ta phải mang, phải gánh, làm chúng ta cử động khó khăn, đi đứng chậm chạp, không nhẹ nhàng, thanh thoát. Trong những ẩn dụ kết quả, có một loại đáng được chú ý đặc biệt, đó là những ẩn dụ dùng tên gọi của những cảm giác thuộc giác quan này để gọi tên những cảm giác của giác quan khác hay những "cảm giác"của trí tuệ, tình cảm. Ví dụ, chua, ngọt, mặn, cay, chát... là những cảm giác vị giác được dùng để gọi các cảm giác thính giác nói chua loét, lời nói ngọt ngào, nói cay quá... Sự phân loại các ẩn dụ theo cơ chế nét nghĩa đồng nhất không phải bao giờ cũng tách bạch, dứt khoát. Trong rất nhiều ẩn dụ không chỉ một mà thường là một số nét nghĩa cùng tác động. Ví dụ, trong những từ như: mũi, chân cả hai nét nghĩa hình dáng và vị trí phối hợp với nhau tạo nên các nét nghĩa ẩn dụ của chúng (trong chân bàn thì có nét nghĩa hình dáng nhưng trong chân núi thì chủ yếu là nét nghĩa vị trí). 1.2.2. Quan niệm của Nguyễn Thiện Giáp Theo Nguyễn Thiện Giáp, ẩn dụ có các kiểu sau: + Ẩn dụ hình thức. Ví dụ, Bướm, loài côn trùng có cánh bay. Cái mắc áo có hình con bướm cũng được gọi là bướm. Mũi là bộ phận có đặc điểm nhọn, nhô ra. Phần đất nhô ra cũng được gọi là mũi đất. + Ẩn dụ chuyển tính chất của sự vật này sang sự vật hoặc hiện tượng khác. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu (Vũ Đình Liên) + Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về một thuộc tính, tính chất nào đó. Ví dụ, tình cảm khô khan; lời nói ngọt ngào. + Ẩn dụ chức năng. Ví dụ, bến trong bến xe, bến tàu điện… không giống nhau về hình dạng, không giống nhau về vị trí … với bến sông, bến đò. Nó chỉ giống bến sông, bến đò ở chức năng đầu mối giao thông. + Ẩn dụ đặc điểm hình thức, dáng vẻ bên ngoài.Ví dụ, người phụ nữ hay ghen gọi là Hoạn Thư; người đàn bà đẹp gọi là Tây Thi. + Ẩn dụ màu sắc.Ví dụ, màu da trời - màu xanh như da trời; màu cánh sen - màu hồng như màu của cánh sen; màu cốm - màu xanh như màu của cốm. + Ẩn dụ chuyển tên con vật thành con người. Ví dụ, cún con của mẹ; bồ câu của anh. + Ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng. Ví dụ, hạt nhãn là cái cụ thể chỉ phần bên trong của quả được dùng để chỉ trung tâm quan trọng nhất của một vấn đề. 1.2.3. Quan niệm của Cù Đình Tú Theo Cù Đình Tú, trên lý thuyết, nếu như có bao nhiêu khả năng tương đồng thì có bấy nhiêu khả năng cấu tạo ẩn dụ tu từ. Có thể nêu một số khả năng tương đồng được dùng làm cơ sở để tạo ra các ẩn dụ tu từ: + Tương đồng về màu sắc. Ví dụ: Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông (Nguyễn Du) (Lửa và hoa lựu có màu sắc như nhau (màu đỏ), lửa biểu thị hoa). + Tương đồng về tính chất. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 Đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm kéo dài hàng thế kỉ bỗng bừng lên ánh bình minh của thời đại. (Bóng đêm và chế độ thực dân phong kiến có tính chất như nhau (tăm tối), bóng đêm biểu thị chế độ thực dân phong kiến). + Tương đồng về trạng thái. Ví dụ: Ngôi sao ấy lặn hóa bình minh (Tố Hữu) (Ngôi sao lặn và Bác Hồ qua đời có trạng thái như nhau (không còn), sao lặn biểu thị Bác Hồ từ trần). +Tương đồng về hành động. Ví dụ: Thay mặt cho tất cả các tổ chức ấy chỉ có một mình anh ủy viên thường trực trẻ tuổi. Con sông nhỏ hứng đủ trăm dòng suối trút xuống. (Hứng đủ trăm dòng và nhận giải quyết mọi việc có hành động (tiếp nhận) giống nhau, do đó dùng hành động hứng đủ trăm dòng biểu thị nội dung: "nhận giải quyết mọi việc"). + Tương đồng về cơ cấu. Ví dụ: Thầy quen nhẫn nại như một người đan rổ: tay bắt từng nan một, uốn nắn cho khéo, vào khuôn vào khổ. Nhiều nan bị gãy nhưng rổ vẫn thành rổ. (Rổ có nhiều nan có cơ cấu tương tự lớp có nhiều trò, rổ biểu thị lớp học trò). 1.2.4. Quan niệm của Đinh Trọng Lạc Đinh Trọng Lạc chia ẩn dụ thành các kiểu nhóm sau: ẩn dụ, ẩn dụ bổ sung và ẩn dụ tượng trưng. Ngoài ra, ông cũng coi nhân hóa và vật hóa là những biến thể của ẩn dụ. + Ẩn dụ hình tượng là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Hoa thơm bán một đồng mười Hoa tàn nhị rữa bán đôi lạng vàng (Ca dao) Giá đành trong nguyệt trên mây Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa (Nguyễn Du) Nàng rằng khoảng vắng đêm trường Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa (Nguyễn Du) Phượng những tiếc cao, diều hay liệng Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi (Nguyễn Trãi) Ở nghĩa gốc, từ hoa là tên gọi cơ quan sinh sản hữu tính của một loại thực vật thường có màu sắc đẹp và hương thơm. Từ hoa khi thì dùng để ví người phụ nữ đẹp, khi thì được dùng để ví người tình nhân hào hoa phong nhã, khi lại dùng để ví người có phẩm chất cao đẹp. Như vậy, hoa đồng nghĩa với tốt đẹp, cao quý… Có thể nói, ẩn dụ hình tượng là phương thức bình giá riêng của cá nhân nhà văn, nhà thơ. Bằng những sắc thái ý nghĩa, bằng ý nghĩa hình tượng tìm kiếm được, ẩn dụ hình tượng tác động vào trực giác của người nhận và đem lại khả năng cảm thụ sáng tạo. + Ẩn dụ bổ sung (ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) là sự kết hợp của hai hay nhiều từ chỉ những cảm giác sinh ra từ trung khu cảm giác khác nhau làm cho cảm giác phong phú, đa chiều, đa vị, đa nghĩa. Ẩn dụ bổ sung được chia ra một số loại như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 + Thị giác + nhiệt: Cái màu xanh này mát quá + Thính giác + vị giác: Câu chuyện nhạt phèo + Thị giác + khứu giác: Thấy thơm rồi đó + Khứu giác + vị giác: Một mùi đăng đắng + Thính giác + xúc giác: Một tiếng sắc nhọn Ví dụ: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm Say người như rượu tối tân hôn Hãy tự buông cho khúc nhạc hường Dẫn vào thế giới của du dương…. (Xuân Diệu) Khúc nhạc của nhà thơ không chỉ nghe bằng tai mà nghe bằng làn da, bằng lưỡi… thấm vào tâm hồn. Lúc này mọi giác quan được huy động đến tột cùng và dẫn tới sự giao thoa, xuyên thấm. Phải là nghệ sĩ mới có cái nghe kì diệu đến vậy! Dường như ngôn ngữ đưa ta vào một thế giới mới, một thế giới huyền diệu hơn, phong phú hơn và đánh thức trong ta những cảm quan nghệ thuật hằng ấp ủ trong lòng mỗi người. + Ẩn dụ tượng trưng là sự kết hợp của một khái niệm trừu tượng với một khái niệm về cảm giác. Ví dụ: Cỏ cây một màu khổ não/ Xanh ve mãi lên một niềm hoài vọng/ Màu đỏ giận dữ (Nguyễn Tuân) Ở đây có sự kết hợp của các từ ngữ: màu với khổ não, màu đỏ với giận dữ. Sự kết hợp đó được thực hiện trên cơ sở khác loại, bởi vì một khái niệm thì trừu tượng, một khái niệm thì cụ thể. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Ẩn dụ tượng trưng là đặc điểm của ngôn ngữ thơ. Nó trở thành một phương tiện tu từ đắc lực trong việc bộc lộ tâm hồn sâu kín qua cái cảm quan kì diệu của con người. Ví dụ: Tai nương nước giọt mái nhà Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn Nghe đi rời rạc trong hồn Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi (Huy Cận) + Nhóm biến thể ẩn dụ - Nhân hóa Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình.Ví dụ: Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối Đêm bâng khuâng đôi miếng lẫn trong cành (Xuân Diệu) Về mặt hình thức, nhân hóa được cấu tạo theo 2 cách. Thứ nhất là, dùng từ ngữ chỉ tính chất hoạt động của con người để biểu thị tính chất, hoạt động của đối tượng không phải là con người.Ví dụ: Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu (Vũ Đình Liên) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 Thứ hai là, coi đối tượng không phải là người như con người để trao gửi, trò chuyện, tâm sự. Ví dụ: Núi cao chi lắm núi ơi ? Núi che mặt trời chẳng thấy người thương (Ca dao) - Vật hóa Vật hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng một hình thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược chiều lại với nhân hóa, tức là lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người nhằm mục đích châm biếm, đùa vui, nhiều khi qua đó để thể hiện tình cảm, thái độ sâu kín của mình. Ví dụ: Gái chính chuyên lấy được chín chồng Vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi Đến khi quanh đứt lọ rơi Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng (Ca dao) Bài ca dao trên đem tới cho người đọc tiếng cười vui vẻ và sảng khoái. Ở đó, hình thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược chiều lại với nhân hóa được thể hiện nhằm mục đích châm biếm, đùa vui hóm hỉnh mà thâm thúy. Qua đó, người viết thể hiện tình cảm, thái độ của mình trước hiện thực một cách sâu sắc và thấm thía. Tóm lại, theo Đinh Trọng Lạc, nhóm ẩn dụ thực chất là phương thức chuyển nghĩa theo mối liên tưởng tương đồng giữa hai sự vật, trong đó cái được so sánh gọi tên thay cho cái so sánh. Đó là cơ chế chuyển từ trường nghĩa này sang một trường nghĩa khác. Cụ thể là: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 (1). Từ trường thể chất sang trường tinh thần, ta có ẩn dụ và ẩn dụ tượng trưng. (2). Từ trường sự vật sang trường con người, ta có nhân hóa, ngược lại ta có vật hóa. (3). Từ trường cảm giác này sang trường cảm giác khác, ta có ẩn dụ bổ sung [34, tr. 215]. Trên đây là cách phân loại ẩn dụ của một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Cù Đình Tú và Đinh Trọng Lạc. Quan niệm và cách phân loại về ẩn dụ tu từ được trình bày theo những cách khác nhau nhưng không hề mâu thuẫn, đối lập mà chúng bổ sung cho nhau nhằm đem đến một cách hiểu đầy đủ và thống nhất về ẩn dụ tu từ. Cách phân loại trên dựa vào cơ sở quan hệ liên tưởng tương đồng, làm rõ tính chất mở và khả năng sinh sản lớn lao của ẩn dụ tu từ. Mặt khác, cách phân loại này cũng thống nhất với cách phân loại hoán dụ tu từ (dựa trên liên tưởng lô gích khách quan). 1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨN DỤ TU TỪ 1.3.1. Phân biệt ẩn dụ tu từ với ẩn dụ từ vựng Ẩn dụ từ vựng là ẩn dụ nghĩa chuyển đã được cố định hóa trong hệ thống ngôn ngữ, được đưa vào trong từ điển và được toàn dân sử dụng. Trong khi đó, ẩn dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng. Nó được dùng với nghĩa ngữ cảnh, cách chuyển đổi tên gọi lâm thời hay những cách dùng tiếng Việt có tính cách cá nhân. Ẩn dụ loại này được sử dụng như một biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi cảm, gợi hình và giá trị thẩm mỹ cho sự diễn đạt. Ví dụ: Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân (Ca dao) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Viết thuê luận văn thạc sĩ [email protected] - 0972.162.399 http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan