Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ẩn dụ tu từ trong tác phẩm truyện kiều của nguyễn du...

Tài liệu Ẩn dụ tu từ trong tác phẩm truyện kiều của nguyễn du

.PDF
66
521
146

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ĐOÀN THỊ THANH TUYÊN ẨN DỤ TU TỪ TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Sơn La, năm 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ĐOÀN THỊ THANH TUYÊN ẨN DỤ TU TỪ TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU Chuyên ngành: Ngữ dụng học KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Người hướng dẫn: ThS. Bùi Kim Tuyến Sơn La, năm 2013 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn, sự cổ vũ, giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô trong khoa Ngữ Văn Trường Đại học Tây Bắc, đặc biệt là lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo Thạc sỹ Bùi Kim Tuyến - giảng viên chính giảng dạy bộ môn tiếng Việt, người đã dành nhiều thời gian, trực tiếp, hướng dẫn nhiệt tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em sớm hoàn thành khóa luận một cách tốt nhất và nhanh nhất. Tuy nhiên quá trình nghiên cứu và viết khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, vì thế em kính mong các thầy cô giáo và cùng toàn thể các bạn sinh viên góp ý kiến để khóa luận được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn tới Hội đồng chấm khóa luận. Sơn La, tháng 5 năm 2013 Người viết Đoàn Thị Thanh Tuyên MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 4 3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..................................................................... 8 3.1 Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................... 8 3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 9 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 9 4.1. Phương pháp thống kê phân loại .................................................................. 9 4.2. Phương pháp so sánh đối chiếu ................................................................... 9 4.3. Phương pháp phân tích tu từ học .............................................................. 10 5. Những đóng góp của khóa luận .................................................................... 10 6. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................. 11 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................. 12 1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................... 12 1.1.1. Màu sắc tu từ .......................................................................................... 12 1.1.2. Phương tiện tu từ .................................................................................... 14 1.1.3. Biện pháp tu từ ....................................................................................... 15 1.1.4. Sự khác nhau giữa phương tiện tu từ và biện pháp tu từ ......................... 16 1.1.4.1 Cấp độ từ vựng ..................................................................................... 16 1.1.4.2. Cấp độ ngữ nghĩa ................................................................................. 18 1.1.4.3. Cấp độ cú pháp .................................................................................... 19 1.1.4.4. Cấp độ văn bản .................................................................................... 20 1.1.5. Phân tích tu từ học .................................................................................. 21 1.2. Ẩn dụ tu từ ................................................................................................ 26 1.2.1. Khái niệm ............................................................................................... 26 1.2.2. Đặc điểm cấu trúc nghĩa, kiểu loại .......................................................... 27 1.2.2.1. Căn cứ vào từ loại và chức năng của từ ẩn dụ có chia ra làm 3 loại: ............. 27 1.2.2.2. Các dạng ẩn dụ. ................................................................................... 29 1.2.3. Ý nghĩa sử dụng ..................................................................................... 32 1.2.3.1. Trong sinh hoạt hằng ngày................................................................... 32 Ẩn dụ tu từ được dùng nhiều trong lờ nói hội thoại mang đậm đà màu sắc biểu cảm, cảm xúc. .................................................................................................. 32 1.2.3.2 Trong văn chính luận ............................................................................ 32 1.2.3.3. Trong thơ văn nghệ thuật ..................................................................... 33 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................... 34 CHƯƠNG 2: ẨN DỤ TU TỪ TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU .................................................................................................. 35 2.1. Khảo sát thống kê ...................................................................................... 35 2.1.1. Tư liệu thống kê ..................................................................................... 35 2.1.2. Mục đích thống kê .................................................................................. 35 2.1.3. Kết quả thống kê..................................................................................... 36 2.1.4. Nhận xét ................................................................................................. 36 2.2. Giá trị của ẩn dụ tu từ trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du ...... 36 2.2.1. Ẩn dụ tu từ biểu thị cho phong cách của Nguyễn Du .............................. 36 2.2.2. Giá trị biểu cảm của ẩn dụ tu từ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du ... 41 2.3. Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” ................................................. 49 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................... 57 KẾT LUẬN...................................................................................................... 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 60 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nền văn học Việt Nam thực sự ra đời cùng với nền độc lập của dân tộc ta. Từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XVIII, 8 thế kỉ trôi qua lịch sử dân tộc đã xây dựng cho nền văn học một truyền thống về văn học dân gian cũng như về văn học bác học, về văn chương chữ Hán cũng như về văn chương chữ Nôm. Đến cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, văn học VN vẫn gồm 2 bộ phận văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Ngày nay nói đến thành tựu nổi bật của Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX chủ yếu là nói đến bộ phận văn học chữ Nôm, văn học chữ Nôm phát triển trong giai đoạn này cả về số lượng lẫn chất lượng. Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. Có thể nói toàn bộ tác phẩm của ông, chữ Hán cũng như chữ Nôm chan chứa một tình yêu thương bao la đối với con người, đặc biệt là người phụ nữ. Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành từ rất sớm, có lẽ ngay từ lúc nhà thơ còn sống. Phạm Quý Thích, người cùng thời từng có bài thơ nổi tiếng bằng chữ Hán để vịnh Truyện Kiều. Nhiều nhà Nho ở Thăng Long, nhất là những học trò của Phạm Quý Thích, trong đó có một số người là danh thần, danh sĩ từng tham gia vào việc phổ biến Truyện Kiều. Do vậy, những sáng tác của ông có ảnh hưởng lớn trong xã hội, chí ít là tầng lớp văn hóa cao. Từ đó tới nay, việc sưu tập, nghiên cứu, phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du không bao giờ bị đứt đoạn, nó luôn phát triển cùng với sự tiến bộ của ngành văn bản học và ngữ văn học nước ta, đặc biệt từ sau những năm 30 của thế kỉ XX, khi việc sưu tầm, nghiên cứu văn học được ý thức như là một hoạt động khoa học. Là một kiệt tác văn chương quá khứ, “Truyện Kiều” có một đời sống lịch sử khá đặc biệt. Từ khi ra đời đến nay tác phẩm được nhân dân yêu chuộng và đã thu hút tâm huyết, trí tuệ của bao lớp người cầm bút. Biết bao nhiêu cảm xúc suy tư, bao nhiêu lời phẩm bình, bao nhiêu hướng nghiên cứu tiếp cận của các thế hệ nối tiếp nhau nhằm thâm nhập sâu hơn vào thế giới của truyện. “Truyện Kiều” là một hiện tượng đột xuất của truyện Nôm, nhưng hiện tượng ấy nằm trong một quá trình, mối quan hệ giữa truyền thống và cách tân, giữa tiếp thu và sáng tạo, giữa tác phẩm với thể loại. Truyện Nôm viết về cuộc sống con người, những câu chuyện mà nho gia đã nói xảy ra “nơi đầu phố xó ngõ” và nó có cốt truyện bắt nguồn từ thực tại đời sống và có cả cốt truyện bắt nguồn từ kho tàng văn học dân gian. Nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Văn chương Nguyễn Tiên Điền dù 1 bằng chữ Hán hay chữ Nôm không bao giờ là thứ văn chương viết ra để mà chơi”. Như vậy, những sáng tác của cụ Nguyễn là có mục đích rõ ràng. Đó cũng là những cảm nhận chung của người đọc về những sáng tác của nhà thơ, “Truyện Kiều” một tác phẩm được Nguyễn Du sáng tác khi “chồng chất những khối lõi ở lòng”, và được viết “như có máu chảy trên đầu ngọn thời bút”. (Di sản của Nguyễn Du thời gian - Trịnh Bá Đĩnh) và tất nhiên phải chứa đầy những tâm tình của ông. Gần hai trăm năm nay “Truyện Kiều” chưa bao giờ vắng bóng trên thi đàn văn học Việt Nam. Những sáng tác của Nguyễn Du, đặc biệt là tác phẩm “Truyện Kiều” giới thiệu một cách sâu rộng không chỉ trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, các trường chuyên nghiệp, trên sách báo trong nước mà còn lan rộng ra cả nước ngoài. Nguyễn Du đã thành công trong việc sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ và đến giọng điệu các điển tích, điển cố trong các đoạn trích trong tác phẩm này. Như chúng ta đã biết: “Truyện Kiều đã đem lại lòng tin cho mọi người về khả năng phong phú của tiếng Việt và Truyện Kiều có công khai sáng cho nhiều nhà văn, nhà thơ đời sau về phương diện sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn chương” (Nguyễn Lộc). Việc tìm hiểu các phương tiện và biện pháp tu từ trong “Truyện Kiều” chưa được quan tâm một cách cụ thể. Vì thế khóa luận tiến hành tìm hiểu: “Ẩn dụ tu từ trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du”. Đây là một việc làm chúng tôi thiết nghĩ vô cùng quan trọng và thiết thực giúp chúng ta, những bạn đọc sẽ có những cái nhìn tinh tế, toàn diện hơn ở các phương tiện tu từ và biện pháp tu từ. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy có những sự vật bản chất không phải là A lại mang tên gọi của A, do giữa A và chúng có một nét nào đó tương đồng nhau. Đặc điểm này đã kích thích vào khả năng liên tưởng, giúp chúng ta nhận thức về thế giới khách quan một cách sinh động. Cách liên tưởng này vừa có tính truyền thống, tính thời đại, vừa mang tính cá nhân chủ quan. Cách liên tưởng ấy chính là ẩn dụ tu từ - một phương thức chuyển nghĩa phổ biến. Với việc nắm vững phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ sẽ góp phần làm giàu vốn ngôn ngữ, làm tiếng Việt thêm phong phú, đa dạng về ý nghĩa và cách diễn đạt hơn. Để đi vào tìm hiểu sâu hơn nữa “Truyện Kiều” vốn đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông và cách tiếp cận tác phẩm chúng ta đi vào khảo cứu “Truyện Kiều” trong chương trình văn học phổ thông (trong chương trình lớp 10) chúng ta thấy điều đó qua bảng thống kê dưới đây và chứng tỏ các tác phẩm của Nguyễn Du được ghi nhận xứng đáng. 2 Số tác phẩm văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX được giảng dạy trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 cơ bản, tập 2, Nxb Giáo dục năm 2006. Bảng thống kê Stt Tên tác giả số bài (đoạn trích) đưa vào giảng dạy chính thức số bài (đoạn trích) đọc thêm 01 Trương Hán Siêu 01 0 02 Nguyễn Trãi 01 0 03 Hoàng Đức Lương 01 0 04 Ngô Sĩ Liên 01 01 05 Nguyễn Dữ 01 01 06 Đặng Trần Côn 01 0 07 Nguyễn Du 03 01 Qua bảng thông kê trên, chúng ta nhận thấy được một phần nào vị trí của nhà thơ Nguyễn Du cũng như việc giảng dạy tác phẩm của ông trong trường phổ thông và trung học cơ sở. Hiện nay, ở nhà trường phổ thông tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng được đưa vào giảng dạy và có cả trong phần đọc thêm. Với chương trình cải cách giáo dục hiện nay thì phương pháp giảng dạy tích hợp giữa phân môn: tiếng Việt, tập làm văn, văn học gọi chung là ngữ văn, ở nhà trường trung học phổ thông và trung học cơ sở ngày càng được chú trọng nâng cao. Từ đó thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và tiếng Việt. Việc ứng dụng các thành tựu nghiên cứu của tiếng Việt vào việc phân tích các giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ và phương pháp tu từ trong văn bản, đặc biệt là văn bản nghệ thuật không phải là việc dễ làm và thường xuyên. Lí luận và thực tiễn cách nhau một khoảng rất lớn. Chúng ta thấy điều đó ở các giờ giảng môn ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Thường thì học sinh, sinh viên, giới bạn đọc chỉ thấy được cái hay cái đẹp của câu thơ mà không biết chúng bắt nguồn từ đâu ? Nếu có thì cũng chỉ là đả động đến mà chưa đi vào tìm hiểu một cách chi tiết. Điều đó sẽ làm mất đi vẻ đẹp của một tâm hồn nhạy bén, tài năng trong việc sử dụng ngôn từ. Vì thế khi phân tích, giảng dạy, tìm hiểu những tác phẩm thơ ca độc đáo của Nguyễn Du giáo viên gần như giúp học sinh 3 cảm nhận và thấy được tác dụng của biện pháp tu từ và phương tiện tu từ trong đó có ẩn dụ tu từ. Để khắc phục và giảm bớt tình trạng trên, chúng tôi tiến hành tìm hiểu: “Ẩn dụ tu từ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”. Thiết nghĩ đây là một việc làm cần thiết và quan trọng cho những ai yêu thích tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung và biện pháp ẩn dụ tu từ trong “Truyện Kiều” nói riêng. Đồng thời qua đây góp thêm tiếng nói khẳng định sức hút mạnh mẽ của biện pháp tu từ trong tác phẩm“Truyện Kiều” của nhà thơ, để việc dạy thơ ông một cách dễ dàng, sâu sắc và đa dạng hơn. 2. Lịch sử vấn đề Bước sang thế kỉ XX với nhiều cách tiếp nhận “Truyện Kiều”, nhiều công trình nghiên cứu, “Truyện Kiều” đã được rất nhiều đối tượng tham gia và khám phá. Năm 1943 Đào Duy Anh cho ra cuốn Khảo luận về truyện Thúy Kiều đã tiến một bước trong việc so sánh “Truyện Kiều” của Nguyễn Du với “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, phân tích tới nhân vật, văn chương, vị trí Truyện Kiều trong lịch sử văn học Việt Nam. Năm 1949, Hoài Thanh với công trình “Quyền sống của con người” đã cảm thụ Truyện Kiều một cách hoàn toàn mới - lý giải Truyện Kiều trong tinh thần hiện thực, khát vọng giải phóng con người trong xã hội phong kiến. Cứ như vậy hàng bao nhiêu năm qua “Truyện Kiều” không bao giờ ngủ yên trong thư viện, nó luôn bị đánh thức, tra vấn tham gia vào dòng chảy của cuộc sống hiện đại. Từ năm 1956 trở đi, “Truyện Kiều” năm nào cũng được giảng dạy trong chương trình phổ thông. Nguyễn Du đến với người đọc bằng một sự bí ẩn và ra đi cũng để lại một sự sâu lắng mà cho đến bây giờ biết bao thế hệ bạn đọc, biết bao công trình nghiên cứu về tác phẩm “Truyện Kiều” vẫn luôn là một ẩn số cần khai thác và khám phá. Việc tìm hiểu phương thức ẩn dụ đã từ lâu được các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong giáo trình nói về từ vựng học tiếng Việt: Nguyễn Văn Tu [21] Đỗ Hữu Châu [5], Nguyễn Thiện Giáp [13] đều nói đến hiện tượng chuyển nghĩa nói chung và phương thức ẩn dụ nói riêng. Các tác giả viết về phong cách học như: Đinh Trọng Lạc [11], Cù Đình Tú [20], Nguyễn Thái Hòa [17], Hữu Đạt [14].....cho rằng ẩn dụ là phép tu từ dung để trang trí, góp phần làm giàu hình tượng, cảm xúc tiếng Việt. Song ở mỗi tác giả, mỗi thời điểm lại có cách gọi và phân loại khác nhau. Cù Đình Tú [20] xem ẩn dụ: “Là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi biểu thị đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở của mối liên tưởng về nét tương đồng của hai đối tượng”. Dựa vào khả năng tương đồng giữa hai 4 đối tượng, tác giả chia ẩn dụ tiếng việt ra làm 5 loại: Tương đồng về màu sắc, tương đồng về tính chất, tương đồng về trạng thái, tương đồng về hành động và tương đồng về cơ cấu. Nhìn chung cách phân chia này phù hợp với chức năng biểu cảm của ẩn dụ tu từ. Nguyễn Thái Hòa [17] gọi ẩn dụ là: “Phương thức chuyển nghĩa, có khả năng gợi hình, gợi cảm”. Về mặt ý nghĩa, tác giả phân ẩn dụ làm 3 loại: “Từ cụ thể đến cụ thể, từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể”. Cách phân loại này dựa vào tính cụ thể của đối tượng chọn làm ẩn dụ, để thấy được mối quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, hai hiện tượng chưa được thể hiện rõ nét và thấy được tính đa dạng, phong phú của ẩn dụ tu từ. Như vậy, vấn đề ẩn dụ được nghiên cứu khá kỹ lưỡng và nhiều nhưng ít có công trình nào tìm hiểu ẩn dụ trong tác phẩm nghệ thuật. Thực tế cho thấy có những cách hiểu, cách tiếp cận (ẩn dụ tu từ) trong các văn bản nghệ thuật là khác nhau. Hoài Thanh khi nghiên cứu văn chương Nguyễn Du đã từng nhận xét rằng: “Văn chương cụ Nguyễn Tiên Điền dù bằng chữ Hán hay chữ Nôm không bao giờ là thứ văn chương viết ra để mà chơi”. Như vậy, những sáng tác của cụ Nguyễn là có mục đích rõ ràng. Cùng với thời gian này có nhiều độc giả, nhiều công trình nghiên cứu đã xây dựng lên một hình ảnh Nguyễn Du, một chân dung được khắc họa rõ nét. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Bách Khoa, trong bài viết “Văn chương Truyện Kiều” đã đề cập đến nhận xét về “Truyện Kiều” của Mộng Liên Đường chủ nhân, người bạn cùng thời của Nguyễn Du: “Trong một tập thủy chung lấy bốn chữ tạo vật đố tài tóm cả một đời Thúy Kiều khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc, khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm đuối tiêu tao, khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân, khi kinh lệ, khi can qua mùi từng trải nghĩ mà tê lưỡi. Vui buồn hợp tan mười mấy năm trời, trong cuốn văn tỏa ra như hệt không khác gì một bức tranh vậy. Xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn nguyên vẫn chưa gỡ khúc đàn bạc mệnh gẩy xong mà oán hận vẫn chưa hả”. Và chủ nhân Mộng Liên Đường cũng nhận thấy khi đọc Truyện Kiều: “Cái nợ sầu của hai chữ tài tình tuy khác đời mà chung một dạ”. Như vậy, nhận xét của Mộng Liên Đường chủ nhân đọc, viết ra như có máu chảy ở đầu ngòi bút, nước mắt thấm đẫm trên giấy, khiến cho ai đọc đến cũng phải thấm thía bùi ngùi, đau đớn. Nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có bút lực ấy. Mộng Liên Đường đã nhận xét rất thấu tình đạt lí về con người cũng như tài năng của 5 Nguyễn Du. Hơn một trăm năm nay, các học giả văn nhân, thi sĩ không ai đồng tình với Mộng Liên Đường về điều đó. Là dòng dõi văn nhân, ông Phạm Kế Bính, trong cuốn sách Việt Hán văn khảo soạn năm 1918 là người đem óc thưởng thức văn chương rất hiện đại ra mà phân tích cái đẹp, cái tài của nhà thơ “Truyện Kiều”: Xem toàn quyển truyện không có một tiếng nào là tiếng đục, không có một câu nào là câu non. Giọng văn nhẹ nhàng, ý tứ lưu loát tá dụng những điển tích cũng rất tài mà nhất là những chỗ tả cảnh, tả tình, tình cảnh nào như vẽ ra tình cảnh đấy”. Tác phẩm “Truyện Kiều” có được những lời bình “đắt” như vậy là vì: “Cái tài của cụ Nguyễn Du về đường văn chương thật là có một không hai, khi nào đọc đến và hiểu Truyện Kiều thì ai cũng công nhận rằng văn chương cụ từ xưa thật chưa chịu kém văn chương nào”- Mấy lời bình về văn chương Truyện Kiều của Nguyễn Tường Tam. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi trong bài nghiên cứu Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông đi đến khẳng định rằng: “Nguyễn Du là con người biết khao khát chân lí, cũng do đó biết sống theo tình cảm đúng con người biết tỉnh táo để nhìn đời và cũng do đó tránh được những phản ứng lầm lạc trong mọi hoàn cảnh tối tăm”. Nhờ đó mà “Văn chương Truyện Kiều có thể làm cái mẫu tốt cho văn chương quốc ngữ và người nào làm văn cũng noi theo cách làm văn trong Kiều, vì những câu thơ trong truyện đó đã đạt tới cực điểm”, của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều - Đặng Thai Mai. Nhà nghiên cứu Vũ Đình Long trong bài tìm hiểu văn chương Truyện Kiều đã nhận định: “Cốt cách Truyện Kiều thật là tầm thường, thế mà chỗ thắt, chỗ gỡ, chỗ chuyển tự nhiên mà quá khéo khiến cho người đọc có hứng thú, ham mê. Đọc mãi cho đến cùng, cái tài làm tiểu thuyết của cụ thực ngang với những tay cực phách trong tiểu thuyết thế giới, các nước đại văn hiến của toàn cầu vậy”. Đây là nhận định có sự nghiền ngẫm tìm hiểu văn chương Truyện Kiều trong một giai đoạn dài. Nhà nghiên cứu còn rút ra nhận xét: “Thơ cụ Nguyễn Du viết văn hoa bóng bẩy lắm”, Truyện Kiều ai đọc cũng thích, vì lời văn rất hay, rất thấm thía, đọc không bao giờ chán”. Với những bài nghiên cứu của mình tác giả cũng nhận thấy rằng: “Truyện Kiều đã đem lại lòng tin cho mọi người về khả năng phong phú của tiếng Việt và Truyện Kiều đã có công khai sáng cho nhiều nhà văn, nhà thơ đời sau về phương diện sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn chương”. Nếu nội dung “Truyện Kiều” có nhiều điều bàn cãi thì nghệ thuật văn chương “Truyện Kiều” lại dễ đi đến thống nhất. Các cây bút ở tạp chí Nam 6 Phong đều gặp nhau ở một điểm: Cùng công nhận Truyện Kiều là một áng văn tuyệt tác “Không tiền khoáng hậu”. Trần Trọng Kim khi bàn về cái hay của văn chương Truyện Kiều nêu rõ: “Một tiếng nói hồ đồ và bề bộ như quốc âm ta ngày trước mà cụ làm thành một tập văn chương rất hay và rất có khuôn phép. Lời văn thật là thanh nhã, hùng hồn và hàm súc, phép văn thì khai, thừa, chuyển, hợp rất có quy củ”. Với các bài khảo cứu về Truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí những năm XX của thế kỉ XX đã dánh dấu mốc lưu ý. Đây là giai đoạn giao thời giữa cái cũ và cái mới, giữa những chuẩn mực văn chương cổ điển và hiện đại, giữa lối khảo cứu, thẩm bình truyền thống phương Đông và lối phê bình cách tân phương Tây. Tìm hiểu tác phẩm “Truyện Kiều” theo cách nhìn của mình, giáo sư Trần Đình Sử trong bài nghiên cứu “Mấy khía cạnh thi pháp Truyện Kiều của Nguyễn Du” lại thấy rằng: “Trong toàn thiên truyện chữ nào cũng êm, câu nào cũng thoát, đoạn nào cũng dồi dào ý tứ, tả đến tinh thần, lời nào cũng nhẹ nhàng mà ý tứ thì bát ngát, càng đọc càng thấy hay, không khi nào chán tai được. Thực là văn chương tuyệt phẩm nước Nam ta”. Từ đó mà tác giả đi đến khẳng định: “Nghiên cứu văn chương Truyện Kiều mà không tìm đến dạng thức cấu tạo của nó, không dò đến cái thể cách đã điều khiển sáng tạo ra hệ thống này tức chưa nghiên cứu đến gốc dễ cái hay cái đẹp của Truyện Kiều vậy”. Trong bài viết “Nghệ thuật điển hình hóa và ngôn ngữ trong Truyện Kiều” nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Lộc nhận định: “Khi nói đến văn học cổ điển nước nhà thì tác phẩm đầu tiên mà mọi người phải nói ngay là Truyện Kiều. Không ai có thể phủ nhận rằng: Trong toàn bộ văn học Việt Nam xưa, Truyện Kiều là một thành công vẻ vang nhất, là áng văn tiêu biểu hơn hết”. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu còn mượn lời của giáo sư Đặng Thai Mai và Lê Trí Viễn để nhận xét về Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Truyện Kiều chỉ kém kinh thánh trong việc chinh phục lòng tin của độc giả”, trình độ lời thơ trong Truyện Kiều được phổ cập đến mọi người về mặt ngôn ngữ “Giọng văn Kiều cứng cỏi, sắc sảo, hùng tráng não nùng, cay nghiệt. Khi thì êm đềm nhẹ nhàng thanh tú, mát mẻ, dịu dàng, văn Kiều thật là tả hết ý, vừa tả được hết ý mới là văn hay”, “Trong Truyện Kiều chữ nào cũng được cân nhắc, so sánh đổi một chữ là kém hay ngay”. Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi như cuốn bách khoa toàn thư về chuẩn mực về đạo lý, xã hội và con người và về thế giới nghệ thuật. Những năm 40 còn xuất hiện một hướng tiếp cận nữa về Truyện Kiều phân tâm học, trong cuốn “Nguyễn Du và Truyện Kiều” - Nguyễn Bách Khoa cho rằng Nguyễn Du “Là một người đa bệnh”. Tác phẩm của ông phản chiếu chân xác đủ cả đường cong, đường nổi lẫn đường cạnh cái sinh hoạt xã hội của thời đại ông. 7 Là kiệt tác văn học, “Truyện Kiều” tiềm ẩn nhiều ý nghĩa, ở mỗi thời kỳ lịch sử sự tiếp nhận tác phẩm lại phát lộ ra một ý nghĩa mới. Thời phong kiến Truyện Kiều được xem là “tấm gương luân lí thiên cổ”. Ngày nay “Truyện Kiều” là tác phẩm phản ánh vận mệnh bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Như vậy những công trình nghiên cứu đã nói trên đã góp một tiếng đúng đắn về giá trị tác phẩm “Truyện Kiều” nhưng hầu như chưa đi vào phân tích đánh giá về biện pháp tu từ trong tác phẩm này. Trong phạm vi khóa luận này, với sự nỗ lực của bản thân người viết, chúng tôi mong góp một phần nhỏ trong việc đi sâu tìm hiểu giá trị tu từ và biện pháp ẩn dụ trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đồng thời qua đây cho thấy được cái hay, cái đẹp ẩn hiện trong tác phẩm này. 3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu 3.1 Mục tiêu nghiên cứu Khóa luận này chúng tôi muốn tìm hiểu hiện tượng chuyển nghĩa mà cụ thể là phương thức ẩn dụ tu từ trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, để từ đó thấy được vai trò, tác dụng của phương tiện này góp phần làm nên vẻ đẹp, sự thành công của ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Du nói chung và tác phẩm “Truyện Kiều” nói riêng, cũng như là cách sử dụng những hình ảnh một cách tài ba và sáng tạo. Khóa luận nghiên cứu thành công chính là tài liệu tham khảo cho những ai yêu mến, thích thú, quan tâm tới “Truyện Kiều” của Nguyễn Du nói chung và các bạn sinh viên ngành Ngữ văn nói riêng trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy. Khi nghiên cứu khóa luận này chúng tôi thực hiện các bước sau: Thứ nhất: Tìm hiểu chung về phương tiện tu từ, biện pháp tu từ và phương tiện tu từ ngữ nghĩa: ẩn dụ tu từ, làm cơ sở vững chắc để soi rọi vào trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du nhằm tìm ra những biện pháp, phương tiện tu từ này một cách khoa học, chính xác và khách quan. Thứ 2: Tiến hành khảo sát tác phẩm “Truyện Kiều” để tìm ra những câu thơ có sử dụng ẩn dụ tu từ, để từ đó đi sâu vào nhận xét đánh giá khái quát về các phương tiện tu từ và biện pháp tu từ ẩn dụ mà Nguyễn Du đã sử dụng trong tác phẩm “Truyện Kiều”. Thứ 3: Phân tích giá trị nghệ thuật của phương tiện và biện pháp tu từ ẩn dụ trong việc biểu đạt nội dung, tư tưởng của tác phẩm “Truyện Kiều”. Sau đó đi vào phân tích giá trị cụ thể của các phương tiện tu từ đó trong đoạn trích được 8 đưa vào giảng dạy ở phổ thông: “Chị em Thúy Kiều” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu cơ sở lí luận về biện pháp tu từ, nhất là biện pháp ẩn dụ tu từ để làm tiền đề cho việc phân tích giá trị của biện pháp tu từ mà Nguyễn Du sử dụng trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng nhiều phương tiện và biện pháp tu từ trong tác phẩm của mình: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ....để thể hiện sự sắc sảo tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ thực hư, hư thực để biểu đạt thái độ của mình một cách thần tình. Ẩn dụ là một trong nhiều phương tiện tu từ mà khóa luận tiến hành thống kê, phân tích để tìm ra giá trị của biện pháp này, giá trị biểu đạt, giá trị thẩm mĩ của ẩn dụ tu từ mà Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm. Khi tiến hành nghiên cứu khóa luận, chúng tôi điểm qua quan điểm của các nhà nghiên cứu “Truyện Kiều”, sau đó phân tích đánh giá rút ra những nhận xét thiết thực, để phục vụ tốt hơn trong việc tìm hiểu nghiên cứu khóa luận có chất lượng hơn. 4. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận này chúng tôi nghiên cứu theo 3 phương pháp cơ bản sau: 4.1. Phương pháp thống kê phân loại Phương pháp này là phương pháp rất quan trọng và cần thiết cho việc nghiên cứu khóa luận. Nó không chỉ giúp cho khóa luận được nghiên cứu rõ ràng, mang tính khoa học và khách quan mà còn giúp người nghiên cứu có một cái nhìn tổng quát hơn về biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm “Truyện Kiều”. Đó là đọc và nghiên cứu các văn bản nghệ thuật để tìm ra các dạng kết cấu đặc trưng của biện pháp so sánh tu từ mà tác giả sử dụng. Trên cơ sở phương pháp này, ta có thể khắc phục được những thiếu xót thường gặp và lựa chọn phương pháp thích hợp để khắc phục chúng khi đi vào tìm hiểu phân tích giá trị của biện pháp tu từ này trong các tác phẩm cụ thể của nhà thơ. 4.2. Phương pháp so sánh đối chiếu Trong quá trình nghiên cứu khóa luận, chúng tôi sẽ cố gắng đối chiếu với các công trình nghiên cứu của tác giả khác về thơ Nguyễn Du cũng như cách thức sử dụng các phương tiện, biện pháp tu từ, nhằm xác định sự giống và khác nhau, vấn đề nào các tác giả đã đề cập tới, vấn đề nào chưa được đề cập tới hay 9 nếu có đề cập tới thì cũng mới chỉ tản mạn trong một số công trình, để từ đó làm cơ sở nền tảng khách quan hỗ trợ đắc lực cho việc nghiên cứu của khóa luận. 4.3. Phương pháp phân tích tu từ học Theo Đỗ Việt Hùng [16] cho rằng: “Phương pháp phân tích tu từ học chính là bước đầu tiên trong quá trình giải mã nghệ thuật” mà văn học lại là nghệ thuật của ngôn ngữ. Chính vì vậy, khi đi phân tích, khám phá một văn bản nghệ thuật, chúng ta cần chú ý đến phương pháp này, bởi nó có thể giúp ta giải mã một cách đầy đủ hơn về những hiện tượng cách tân trong sử dụng ngôn ngữ, lựa chọn hình ảnh, tư duy nghệ thuật độc đáo của tác giả để làm nên sự biến đổi thể loại trong văn học. Khi sử dụng phương pháp này, để phân tích các biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm “Truyện Kiều” cần chú ý đến các thao tác phân tích tu từ học sau: - Xác định thành phần thông tin cơ bản của văn bản ngôn từ - Tìm ra những hình thức biểu đạt gần nghĩa hoặc đồng nghĩa của hình thức biểu đạt được lựa chọn tiến hành so sánh đối chiếu dựa trên mối quan hệ ngữ cảnh tu từ để thấy được những đặc điểm đồng nhất và đối lập từng yếu tố. - Từ đó đưa ra nhiều phán đoán về giá trị, hiệu quả của hình thức nghệ thuật được biểu đạt trong việc biểu đạt nội dung. Tuy nhiên, cần thấy rằng sự phân tích tu từ học chỉ là chất xúc tác cho tác động của nghệ thuật, cho tư tưởng và cảm xúc thẩm mĩ. Sự phân tích này không thể tách rời quá trình tổng hợp để khôi phục tính chỉnh thể của tác phẩm văn học, nhằm xác định rõ giá trị của mỗi phương tiện, biện pháp tu từ trong cái toàn thể đó là tác phẩm. Ngoài 3 phương pháp trên chúng tôi còn nghiên cứu các tài liêu khoa học để bổ sung kiến thức, hoàn thiện khóa luận một cách đầy đủ hơn. 5. Những đóng góp của khóa luận Là đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học Việt Nam. Đặc biệt là tác phẩm này vẫn vang lên trong phổ thông và giới bạn đọc, ông có vị trí và vai trò rất quan trọng cho văn học nước nhà. Chúng tôi hi vọng rằng khóa luận nghiên cứu thành công sẽ góp phần vào quá trình nghiên cứu, về giảng dạy và học tập của các bạn sinh viên “Truyện Kiều” đặc biệt là phong cách của tác giả và giá trị tu từ ẩn dụ trong tác phẩm nghệ thuật. 10 6. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận có cấu trúc gồm 2 chương: Chương 1: Cơ sở lý thuyết của phương tiện tu từ và biện pháp tu từ ẩn dụ. Chương 2: Ẩn dụ tu từ trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du Ngoài ra khóa luận còn có phần mục lục và danh mục tài liệu tham khảo. 11 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT Marc Leuy-Pháp cho rằng: “Văn học như chiếc cầu thang lớn, muốn đi đến bậc cuối cùng bạn phải đặt chân lên bậc đầu tiên”. Bậc thang đầu tiên ấy chính là phương diện về hình thức, nội dung và nghệ thuật. Lê Nin thì khẳng định: “Không có tư tưởng nào trần trụi cả. Tác phẩm văn học dù muốn hay không muốn đều phải khoác lên mình nó chiếc áo diêm dúa của ngôn từ” điều đó cho thấy tác phẩm văn học là nơi hội tụ, sự gặp gỡ giao thoa thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa hình thức con chữ, ngôn ngữ. Theo M.Goki, ngôn ngữ là “Yếu tố đầu tiên của văn học”, vậy sự kì diệu của ngôn ngữ khởi phát từ đâu ? điều gì đã làm nên sự kỳ diệu của ngôn ngữ ? Do đâu mà ngôn ngữ lại mang cá tính sáng tạo của tác giả ? Những hiệu ứng này là do các phương tiện tu từ và biện pháp tu từ, phương thức diễn đạt được sử dụng, thể hiện rất phong phú và đa dạng trong mỗi văn bản nghệ thuật: “Cái làm nên sự kì diệu của ngôn ngữ đó chính là phương tiện và biện pháp tu từ”. Chính vì thế khi tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chúng tôi chú trọng tới nhiều hình thức diễn đạt đặc biệt là các phương tiện tu từ và biện pháp tu từ ẩn dụ trong tác phẩm . Trong chương này chúng tôi sẽ tìm hiểu cơ sở lí thuyết của phương tiện tu từ và biện pháp tu từ làm cơ sở cho chương sau. 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Màu sắc tu từ Theo Giáo sư Đinh Trọng Lạc [12] thì phương tiện tu từ là những phương tiện ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật logic) ra còn có ý nghĩa bổ sung mà tu từ học còn gọi là màu sắc tu từ. Màu sắc tu từ là một trong những khái niệm của phong cách học. Từ đó chúng ta đi đến những khái niệm khác như: Phương tiện tu từ và biện pháp tu từ... Nói tới màu sắc tu từ là người ta nghĩ đến một kiểu nói cụ thể mang tính cá nhân. Còn các nhà phong cách học thống nhất với nhau ở chỗ: “Màu sắc tu từ là khái niệm phong cách chỉ phần thông tin có tính chất bổ sung, bên cạnh phần thông tin cơ bản cuả một thực từ”. Nói cách khác màu sắc tu từ là khía cạnh biểu cảm - cảm xúc của ý nghĩa thuộc từ (diễn đạt những tình cảm, những sự đánh giá, những ý định...) bên cạnh sự vật logic của ý nghĩa. 12 Ví dụ: 1. Cháu mời bác “ xơi” cơm ạ !  thái độ của người nói mang màu sắc tôn trọng lịch sự. 2. Mày “hốc” cho nhanh đi !  thái độ của người nói mang sắc thái coi thường, khinh bỉ. Hay: Khi nói về hành động ăn của con người với các từ: “ăn, nhậu, tọng, hốc, đớp, xơi là những từ đồng nghĩa nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm. Cụ thể: “Ăn” là dùng tay, đũa, thìa đưa thức ăn vào miệng, miệng kết hợp với các cử động “nhai, đảo, nuốt”... mang màu sắc trung hòa. “Tọng, hốc, đớp” là nói đến cách dùng bữa của những người bất lịch sự, về văn hóa ẩm thực, văn hóa sinh hoạt của người Việt mang màu sắc khinh thường rẻ rúm. “Xơi” là nói tới cách dùng thức ăn của người có văn hóa, lịch sự điềm đạm mang màu sắc tôn trọng. Trong cuốn “Phong cách Tiếng Việt” của Đinh Trọng Lạc [11], tác giả đồng ý với cách xác định ý nghĩa hàm chỉ của I.V.Acnon như sau: “Khi xem xét thông tin được chứa đựng một cách tương trưng trong thông báo trên cấp độ các từ bên cạnh ý nghĩa chỉ xuất nêu rõ đối tượng của lời nói còn có ý nghĩa hàm chỉ vốn được hình thành từ những thành tố cảm xúc, biểu cảm, bình giá và tu từ học chức năng”. Phần lớn các từ trong ngôn ngữ chỉ có phần thông tin cơ bản (còn gọi là ý nghĩa chỉ xuất) như: nhà, cửa, cột, kèo... Nhưng trong ngôn ngữ cũng có nhiều từ ngoài phần thông tin cơ bản ra, còn có thông tin bổ sung (còn gọi là ý nghĩa hàm chỉ) như: quốc sắc, thiên hương, quân tử,… Màu sắc tu từ chính là ý nghĩa hàm chỉ. Màu sắc tu từ là phần ý nghĩa bổ sung, là yếu tố nhỏ bé, tinh tế làm nên sự đối lập giữa các phương tiện trung hòa của ngôn ngữ với các phương tiện tu từ của ngôn ngữ. Còn trong các biện pháp tu từ, thì cách sử dụng các phương tiện ngôn ngữ có trung hòa lẫn tu từ cùng đi đến một tác dụng, một hiệu quả làm nảy sinh màu sắc tu từ. Các tác phẩm văn chương mẫu mực đều chứng tỏ rằng các nhà văn lớn luôn luôn là những người nắm bắt được một cách tinh tế những màu sắc tu từ trong sự diễn đạt vừa chính xác, vừa sinh động của sự việc, của thực tế khách quan lẫn tình cảm, thái độ chủ quan của mình. 13 Vì vậy, các phương tiện ngôn ngữ dùng để giao tiếp trong xã hội không thể không có màu sắc tu từ. 1.1.2. Phương tiện tu từ Phương tiện tu từ thường được gọi là phương tiện diễn cảm, nhưng gọi như vậy là để gây hiểu lầm là chúng chỉ diễn đạt cảm xúc. Thực ra những phương tiện tu từ là những phương tiện ngôn ngữ, mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật logic) ra, chúng còn mang ý nghĩa bổ sung, còn màu sắc tu từ. Người ta gọi chung là phương tiện tu từ súc về mặt tu từ hay những phương tiện được đánh dấu về mặt tu từ. Còn màu sắc tu từ nhiều khi gọi là sắc thái tu từ (cốt để nhấn mạnh sự đối lập giữa phần nghĩa cơ bản và phần nghĩa bổ sung). Đinh Trọng Lạc (1995) [6], nhìn trên cấp độ tu từ, có nhà nghiên cứu tách ý nghĩa ra làm 2 loại: + Loại ý nghĩa chỉ xuất gắn với phần thông tin cơ bản. + Loại ý nghĩa hàm chỉ gắn với phần thông tin bổ sung được hình thành các yếu tố cảm xúc bình giá tu từ học. Hay màu sắc tu từ chính là khía cạnh biểu cảm, cảm xúc của ý nghĩa. Ví dụ: Màu sắc cảm xúc có những sắc thái: hống hách, hách dịch, quan liêu, gia trưởng......... Ví dụ: Khi nói về sự chết của con người, người ta có thể dùng một số từ ngữ khác: “hi sinh”, “qua đời”, “toi” thì mỗi từ thì mang sắc thái biểu cảm khác nhau rất riêng biệt: Từ “Hi sinh” mang màu sắc cao quý, trang trọng Từ “Qua đời” mang màu sắc tôn kính Từ “toi” mang màu sắc khinh thường coi nhẹ Từ “chết” mang sắc thái trung hòa Ta có thể thấy rõ điều này cụ thể qua ví dụ sau: Ví dụ: “Bác ấy vừa qua đời” thì thái độ của người nói ở đây mang sắc thái tôn kính, thể hiện sự thương xót đau đớn. Hoàn toàn khác khi thay từ “qua đời” là từ “toi” vào, thì ý nghĩa của câu đó cũng khác hẳn, nó thể hiện một sự coi thường, không tôn trọng đối với người đã mất. Qua đây ta có thể thấy rằng màu sắc tu từ là cái hình thành có tính chất lâm thời và mang đậm tính chủ quan của người nói và người viết. Nó có một lượng thông tin lớn rất khó nắm bắt nó như “vầng quang bao bọc xung quanh thông tin chính”. Đây chính là đặc điểm nổi bật mà ta cần chú ý. 14 Căn cứ vào cấp độ ngôn ngữ, các yếu tố ngôn ngữ có nghĩa các phương tiện tu từ được chia thành: + Phương tiện tu từ vựng + Phương tiện tu từ ngữ nghĩa + Phương tiện tu từ cú pháp + Phương tiện tu từ văn bản Phương tiện tu từ tiếng Việt rất đa dạng và phong phú, ở mỗi cấp độ phương tiện tu từ có những đặc điểm, đặc trưng và nét khu biệt riêng. 1.1.3. Biện pháp tu từ Theo giáo sư Đinh Trọng Lạc [6]: “Biện pháp tu từ là những cách thức phối hợp sử dụng trong lời nói các phương tiện ngôn ngữ (không kể trung hòa hay diễn cảm) để tạo ra hiệu quả tu từ (tức là gợi hình, gợi cảm, nhấn mạnh, làm nổi bật) do sự tác động qua lại cảu các yếu tố trong một ngữ cảnh rộng”. Biện pháp tu từ còn là những cách diễn đạt mới mẻ trong một ngữ cảnh cụ thể bên cạnh những cách diễn đạt bình thường quen thuộc trong mọi ngữ cảnh. Ví dụ: Trong câu ca dao: “cổ tay em trắng như ngà”. Tác giả so sánh “cổ tay” trắng như “ngà” trở thành một biện pháp tu từ (cấp độ ngữ nghĩa) nó không chỉ diễn đạt được cái nuột nà, dịu dàng, đáng yêu của cổ tay cô gái - đối tượng đang được chàng trai nhận xét. Giả sử nếu chàng trai chỉ nói: “Cổ tay em trắng quá, đẹp quá” thì đã là lời khen rồi, nhưng đó chỉ là cách diễn đạt bình thường bắt gặp trong giao tiếp cuộc sống. So với câu ca dao trên thì ý vị, vẻ đẹp sự huyền diệu của lời khen giảm sút nhiều. Như chúng ta đã biết: Chính những biện pháp tu từ đã góp phần làm nên những câu văn, câu thơ. Bởi cái hay của tác phẩm nghệ thuật không chỉ hay ở mặt nội dung mà còn hay do sự đóng góp của mặt hình thức diễn đạt mới mẻ, đặc sắc có thể khẳng định rằng: đọc một câu thơ, một câu văn ta thấy nó hay nhưng không biết hay ở chỗ nào (tức không biết tác dụng ra sao) của biện pháp tu từ nào thì có nghĩa là chỉ mới thấy được cái hay của một nửa tác phẩm. Khi ta hiểu về biện pháp tu từ và tác dụng của nó một cách kỹ lưỡng thấu đáo thì ta sẽ cảm thấy được vẻ đẹp trọn vẹn, toàn bích của tác phẩm văn chương một sáng tạo ngôn từ độc đáo của người nghệ sĩ. Căn cứ vào cấp độ ngôn ngữ, các biện pháp ngôn ngữ được phối hợp sử dụng, các biện pháp tu từ chia thành các cấp độ khác nhau: 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất