Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ẩn dụ tri nhận trong thơ nguyễn duy...

Tài liệu Ẩn dụ tri nhận trong thơ nguyễn duy

.PDF
136
688
63

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRỊNH THỊ HẢI YẾN ẨN DỤ TRI NHẬN TRONG THƠ NGUYỄN DUY Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐỨC TỒN THÁI NGUYÊN - 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................4 2. Lịch sử vấn đề......................................................................................5 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu...................................6 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu......................................................... 7 5. Phƣơng pháp nghiên cứu.................................................................. 8 6. Cấu trúc luận văn................................................................................ 8 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN 1.1. Ẩn dụ tri nhận............................................................................... .10 1.1.1 Các quan niệm truyền thống về ẩn dụ......................................... 10 1.1.2. Các quan niệm mới về ẩn dụ........................................................12 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp thơ Nguyễn Duy..........................................32 1.2.1. Vài nét về Nguyễn Duy.................................................................32 1.2.2. Sự nghiệp thơ Nguyễn Duy ...................................................... 36. 1.3. Tiểu kết.........................................................................................39 CHƢƠNG 2 Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 ẨN DỤ CẤU TRÚC TRONG THƠ NGUYỄN DUY 2.1. Về khái niệm ẩn dụ tri nhận..........................................................40 2.2..Giới thiệu về tuyển tập thơ Ngyễn Duy........................................42 2.3. Ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nguyễn Duy..........................................46 2.3.1. Giới thiệu chung.........................................................................46 2.2.2.Ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nguyễn Duy.........................................47 2.2.2.1.Bảng thống kê chung.................................................................47 2.2.2.2. Ẩn dụ cấu trúc trong từng phần thơ.........................................48 2.4 Khảo sát phân tích...........................................................................51 2.4.1. Nguồn biểu trƣng là bộ phận cơ thể con ngƣời...........................53 2.4.1.1. Nguồn biểu trƣng là bộ phận bên ngoài cơ thể con ngƣời.......54 2.4.1.2. Nguồn biểu trƣng là bộ phận bên trong cơ thể con ngƣời.......59 2.4.2. Nguồn biểu trƣng từ thế giới tự nhiên.........................................65 2.4.2.1.Nguồn biểu trƣng từ thế giới động vât.......................................65 2.4.2.2 Nguồn biểu trƣng từ thế giới thực vật.......................................68 2.4.2.3Nguồn biểu trƣng từ hiện tƣợng tự nhiên......................................73 2.4.3.Nguồn biểu trƣng từ các hiện tƣợng trong cuộc sống.................... .78 2.4.3.1. Nguồn biểu trƣng từ các hiện tƣợng thuộc văn hoá phong tục....80 2.4.3.2. Nguồn biểu trƣng từ các hiện tƣợng thuộc đời sống lao động sản xuất của con ngƣời................................................................................... 83 Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 2.5. Tiểu kết..............................................................................................85 CHƢƠNG 3 ẨN DỤ BẢN THỂ TRONG THƠ NGUYỄN DUY 3.1. Về khái niệm ẩn dụ bản thể..............................................................87 3.2. Khảo sát chung..................................................................................88 3.3. Các ẩn dụ bản thể trong thơ Nguyễn Duy.........................................89 3.2.1. Ẩn dụ vật chứa, không gian hạn chế..............................................90 3.2.2. Ẩn dụ vật chứa, công việc, hoạt động, trạng thái, tính chất..........97 3.3. Tiểu kết............................................................................................101 PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài “Ẩn dụ xuyên suốt cuộc sống đời thường của chúng ta và thể hiện không chỉ trong ngôn ngữ mà cả trong tư duy và hành động” (G. Lakoff và M. Johnson, 1990, tr. 378). Từ quan điểm của G. Lakoff và M. Johnson, chúng ta thấy rằng trong quá trình phát triển của mình, bất kì ngôn ngữ tự nhiên nào cũng đều sử dụng ẩn dụ với tƣ cách là công cụ để phát triển ngữ nghĩa, phát triển vốn từ. Đồng thời ẩn dụ cũng là phƣơng tiện của tƣ duy để con ngƣời miêu tả thế giới, hiện thực hoá khả năng nhận thức thế giới, cải tạo thế giới và sáng tạo tinh thần. Hiện nay, trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu quan tâm đến ẩn dụ. Đã có nhiều công trình ngôn ngữ học hƣớng tới miêu tả các các cấu trúc ẩn dụ không chỉ ở phạm vi chật hẹp của những đơn vị ngôn ngữ riêng lẻ nhƣ từ, câu, mà mở rộng ra các loại ngôn bản nhƣ ca dao, tục ngữ, thơ và trong những lĩnh vực đời sống, xã hội. Vậy, vai trò và ứng dụng của ẩn dụ không còn chỉ là những phƣơng tiện tạo ra những giá trị mĩ học mà còn nâng cao thành phƣơng tiện của tƣ duy đời thƣờng, làm phong phú sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và con ngƣời. Và chính sự khám phá hiện thực, óc liên tƣởng về sự vật, hiện tƣợng trong thế giới khách quan của mỗi nhà thơ có tƣ duy khác nhau là nguồn thôi thúc chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Ẩn dụ tri nhận trong thơ Nguyễn Duy” là đối tƣợng nghiên cứu của luận văn. Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Nguyễn Duy sinh tại Thanh Hoá. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, năm 1965, ông về làm ruộng kiêm làm dân quân trực chiến máy bay Mĩ. Năm 1966, Nguyễn Duy nhập ngũ, làm lính thông tin và làm báo trong quân đội. Trong suốt thời gian từ 1971 đến 1975, Nguyễn Duy theo học khoa Ngữ văn, Trƣờng Đại học Tổng hợp Hà nội, làm báo văn nghệ giải phóng, rồi làm báo văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Duy đã giành đƣợc nhiều giải thƣởng cao quý: Giải nhất cuộc thi thơ 1972 – 1973 của Tuần báo văn nghệ. Giải thƣởng thơ hạng A năm 1985 cuả Hội nhà văn Việt Nam. Giải thƣởng nhà nƣớc về văn học nghệ thuật năm 2007. Nguyễn Duy là nhà thơ hiện đại đƣợc công chúng yêu mến. Ông nổi lên là một nhà thơ xuất sắc với thể thơ lục bát đƣợc giới phê bình đánh giá là ngƣời đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống lục bát. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nhận định: “Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó”. Nghiên cứu đề tài ẩn dụ tri nhận trong thơ Nguyễn Duy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhân, một vấn đề lý luận còn mới mẻ đối với ngôn ngữ học nƣớc ta. Ngoài ra nghiên cứu đề tài này còn giúp ích cho việc tìm hiểu những ngôn bản văn học trong nhà trƣờng đạt kết quả cao. 2. Lịch sử vấn đề Trong nghiên cứu Việt ngữ học, ẩn dụ tri nhận là một khái niệm còn tƣơng đối mới mẻ. Ngƣời đầu tiên đề cập một cách gián tiếp đến vấn đề có liên quan đến ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam dƣới thuật ngữ “tri giác” là Nguyễn Đức Tồn trong cuốn “Tìm hiểu đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (Trong sự so sánh với các dân tộc Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 khác”(Nxb ĐHQG HN, 2002). Sau đó (năm 2007) Nguyễn Đức Tồn có bài viết trực tiếp bàn về Bản chất ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận (Bản chất của ẩn dụ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10& 11, 2007). Năm 2005 vấn đề ngôn ngữ học tri nhận đã đƣợc nghiên cứu trong cuốn “Ngôn ngữ học tri nhận, từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt ”( Lý Toàn Thắng, Nxb KHXH, H, 2005). Trọng tâm cuốn sách là vấn đề tri nhận không gian nên tác giả cuốn sách chƣa dành một vị trí xứng đáng cho khái niệm ẩn dụ tri nhận cũng nhƣ khảo sát bƣớc đầu về nó. Chuyên luận tiếp theo về ngôn ngữ học tri nhận của Trần Văn Cơ với nhan đề: “Khảo luận ẩn dụ tri nhận”(NXB Lao động – Xã hội, 2009).Tác giả cũng chỉ bàn về sự ra đời của ẩn dụ, bản chất ẩn dụ và sự phân lọai các kiểu loại ẩn dụ tri nhận (gồm: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định hƣớng và ẩn dụ kênh liên lạc). Tác giả Hà Công Tài quan tâm chủ yếu tới đặc điểm và vai trò ẩn dụ trong việc xây dựng các hình tƣợng hoặc hình thể trong thơ ca. Một số đề tài khoá luận, luận văn thạc sĩ cũng quan tâm tìm hiểu về ẩn dụ tri nhận. Luận án Tiến sĩ So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình Việt Nam của tác giả Hoàng Thị Kim Ngọc. Luận văn thạc sĩ Ẩn dụ tri nhận trong ca dao của tác giả Bùi Thị Dung, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, 2008. Và Luận văn thạc sĩ Ẩn dụ tri nhận, mô hình ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ của Trịnh Công Sơn của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền, Đại học khoa học xã hội và nhân văn T.P Hồ Chí Minh, 2009. Luận Văn đã đƣợc PGS.TS KH Trần Văn Cơ nhận xét là “đã làm được một việc có ý nghĩa: tự giải thoát khỏi chiếc vòng kim cô của ngôn ngữ học thế kỉ XX”. Nhƣ vậy, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu thành công vể ẩn dụ tri nhận, nhƣng việc nghiên cứu ẩn dụ trong trong thơ là một vấn đề vẫn còn ít đƣợc quan tâm.Vì vậy, với luận văn này, chúng tôi muốn góp phần vào Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 việc làm sáng tỏ thêm về ẩn dụ tri nhận, đặc biệt là ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể trong thơ Nguyễn Duy. Và nguồn tƣ liệu phong phú của thơ Nguyễn Duy sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về ẩn dụ tri nhận trong những tác phẩm của ông. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Tiến hành nghiên cứu đề tài này, luận văn nhằm đạt đƣợc những mục đích sau: 3.1.1. Hệ thống hoá những kiến thức lí luận về ẩn dụ tri nhận và cơ chế nhận biết ẩn dụ tri nhận; 3.1.2. Tiến hành khảo sát ẩn dụ trong thơ Nguyễn Duy dƣới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, cụ thể là kiểu loại ẩn dụ cấu trúc là chủ yếu, đồng thời qua cơ chế của ẩn dụ và nhân sinh quan của nhà thơ, chúng ta có sơ sở để khẳng định những thành công của tác giả trong việc sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ dân tộc; 3.1.3. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc, luận văn sẽ đúc rút ra những bài học cần thiết cho việc dạy và học văn trong nhà trƣờng phổ thông đạt kết quả cao hơn về phƣơng diện nội dung và phƣơng diện nghệ thuật. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài tập trung vào một số nhiệm vụ sau: 1) Thống kê và phân loại các ẩn dụ trong trong Tuyển tập thơ Nguyễn Duy, NXB Hội nhà văn, Nhã Nam, 2010; 2) Khảo sát và mô tả các ẩn dụ trong tập thơ trên; 3) Phân tích vai trò của ẩn dụ trong các bài thơ để thấy giá trị thẩm mỹ của chúng. Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 4) Chỉ ra những nét riêng, mang tính sáng tạo của hình tƣợng nhờ hệ thống các ẩn dụ trong thơ Nguyễn Duy. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là ẩn dụ tri nhận trong thơ Nguyễn Duy. Qua tƣ liệu khảo sát và thống kê, chúng tôi thấy rằng thơ Nguyễn Duy chỉ sử dụng chủ yếu hai loại ẩn dụ tri nhận là Ẩn dụ cấu trúc và Ẩn dụ bản thể. Vì vậy luận văn tìm hiểu và trình bày kết quả nghiên cứu hai kiểu ẩn dụ tri nhận này trong thơ ông. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi tƣ liệu đƣợc khảo sát chủ yếu trong luận văn là Tuyển tập thơ Nguyễn Duy, NXB Hội nhà văn, Nhã Nam, 2010. 5. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phƣơng pháp sau: 5.1. Phƣơng pháp phân tích diễn ngôn Phân tích mối quan hệ giữa nghĩa bê mặt ngôn từ và nghĩa biểu trƣng của hiện tƣợng ẩn dụ xuất hiện trong ngữ cảnh nhất định để thấy giá trị của chúng. 5.2.Phƣơng pháp miêu tả Trên cơ sở lý luận chung, luận văn tiến hành miêu tả các ẩn dụ tri nhận trong tập thơ để phát hiện những giá trị ẩn sau chúng mà tác giả đã gởi gắm trong mỗi bài thơ. 5.3. Phƣơng pháp thống kê Trên cơ sở tập hợp ngữ liệu về các loại ẩn dụ trong thơ, luận văn tiến hành phân loại chúng thành các tiểu loại theo các chủ đề và tìm tần số xuất hiện, giá trị biểu đạt của chúng trong văn bản tập thơ. Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liêu tham khảo, Luận văn gồm các chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và những vấn đề liên quan đến đề tài luận văn Chƣơng 2: Ẩn dụ cấu trúc trong thơ Nguyễn Duy Chƣơng 3: Ẩn dụ bản thể trong thơ Nguyễn Duy Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN 1.1. Ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận 1.1.1. Các quan niệm truyền thống về ẩn dụ Trong lý thuyết ngôn ngữ học cổ điển, ẩn dụ đƣợc coi là một vấn đề thuộc ngôn ngữ chứ không phải là vấn đề của tƣ duy. Lối nói ẩn dụ đƣợc cho là không có trong ngôn ngữ thông tục hàng ngày và ngôn ngữ hằng ngày không có ẩn dụ. Nói cách khác, ẩn dụ chỉ đƣợc dùng trong các địa hạt bên ngoài ngôn ngữ đời thƣờng. Trong nhiều thế kỷ, ngƣời ta đã quá tin vào lý thuyết cổ điển, tới mức, chẳng hề nhận ra đƣợc rằng chẳng qua nó cũng chỉ là lý thuyết mà thôi. Ngƣời ta không chỉ tin lý thuyết đó là thật, mà còn lấy nó để làm định nghĩa. Phép ẩn dụ (metaphor) đƣợc định nghĩa là cách biểu đạt ngôn ngữ của tiểu thuyết hoặc thi ca trong khi chỉ có một hay vài từ chỉ một khái niệm nào đó đƣợc dùng vƣợt ra ngoài ý nghĩa thông thƣờng của nó để diễn đạt một khái niệm tƣơng tự Ẩn dụ trong ngôn ngữ là một lĩnh vực đƣợc giới nghiên cứu ngôn ngữ rất quan tâm bởi ẩn dụ là một hình thái một cụm từ đƣợc dùng để thể hiện một cụm từ khác có cùng hoặc gần sắc thái nghĩa. Việc sử dụng ẩn dụ đƣợc các tác giả đánh giá là sinh động và có tính chủ động hơn lối suy diễn thông thƣờng. Một số các phƣơng pháp tu từ khác cũng dùng để so sánh các sự vật nhƣ là phép hoán dụ, phép so sánh, cách nói bóng gió hay kể cả chuyện ngụ ngôn bởi chúng có khá nhiều nét chung với lối ẩn dụ mặc dù cũng có một đôi nét khác biệt trong cách mà sự vật đƣợc so sánh. Theo quan niệm truyền thống về ẩn dụ, các tác giả có điểm chung khi nói vê ẩn dụ đƣợc Nguyễn Đức Tồn tổng kêt lại trong Một cái nhìn mới về Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 bản chất ẩn dụ: “Ẩn dụ là phép hay cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau” [27,1] Trong Dẫn luận ngôn ngữ học, A.A . Reformatxky giải thích: “Ẩn dụ theo nghĩa chiết tự là sự chuyển đổi, là trường hợp chuyển nghĩa điển hình nhất. Sự chuyển nghĩa theo ẩn dụ dựa trên sự giống nhau của các sự vật về màu sắc., hình thức, đặc tính vân động”[38, 54]. Theo B.N. Golovin thì: “Sự chuyển đổi của các từ từ một đối tượng này sang một đối tượng khác trên cơ sở giống nhau của chúng được gọi là ẩn dụ” [37, 81] Ju. X. Xtepanôp cho rằng: “Bản thân từ Metaphora từ tiếng Hy lạp cũng có nghĩa là “sự chuyển nghĩa” và khi “một từ tuy vẫn còn liên hệ với biểu vật cũ nhưng lại có sự liên hệ với cái biểu vật mới thì hiện tượng ngôn ngữ đó là ẩn dụ” [36, 51-52] Các nhà Việt ngữ học cũng có những quan điểm tƣơng tự. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Tu cho rằng: “Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên của một sự vật khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan hệ đó chúng ta phải so sánh ngầm. Khác với hoán dụ, phép ẩn dụ theo tưởng tượng của ta mà gọi một sự vật, chỉ có vài dấu hiệu chung với sự vật mà từ biểu thị trước thôi. Chính nhờ những dấu hiệu chung gián tiếp ấy mà ta thấy mối quan hệ giữa các sự vật khác nhau” [31, 159]. Theo Nguyễn Lân thì ẩn dụ là : “Phép sử dụng từ ngữ ở nghĩa chuyển dựa trên sự tương đồng, sự giống nhau ... giữa các thuộc tính của cái dùng để nói và cái nói đến”[14]. Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Ẩn dụ là sự chyển đổi tên gọi dựa và sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau ” [7, 126]. Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 Đào Thản cũng giải thích về ẩn dụ: “Ẩn dụ cũng là một lối so sánh dựa trên sự giống nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất hoặc chức năng của hai đối tượng. Nhưng khác với so sánh dùng lối song song hai phần đối tượng và phần so sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại phần để so sánh”[24]. Nhƣ vậy, tựu trung lại các tác giả khi xem xét vấn đề ẩn dụ đều có điểm thống nhất ở cơ sở của ẩn dụ là sự “so sánh ngầm”, “chuyển đổi tên” gọi hay “chuyển đổi nghĩa”. Nhƣ thế, các tác giả vẫn chƣa chỉ ra đƣợc rằng sự so sánh các sự vật với nhau chỉ là cơ sở của hiện tƣợng ẩn dụ; và không phải chỉ là phép so sánh ngang bằng; các sự vật tham gia vào quan hệ ẩn dụ là khác loại nhau. Nguyễn Đức Tồn đã tổng kết và khắc phục các hạn chế đó. Theo tác giả, dựa và đặc điểm, thuộc tính nào đó có thể đồng nhất hoá các sự vật, hiện tƣợng khác loại nhau rồi lấy tên gọi (và các đặc điểm, thuộc tính ...) của sự vật, hiện tƣợng này (thƣờng mang tính cụ thể hơn) để thay thế khi gọi tên hoặc nói về sự vật, hiện tƣợng kia (thƣờng mang tính trừu tƣợng hơn) sẽ tạo ra đƣợc cách diến đạt ẩn dụ. Tiếp đó, các quan điểm mới về ẩn dụ ngày càng giải quyết thấu đáo về vấn đề ẩn dụ. 1.1.2. Quan niệm mới về ẩn dụ Các quan điểm mới về ẩn dụ đƣợc các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu và chỉ ra rằng ẩn dụ không chỉ là hiện tƣợng của ngôn ngữ mà là hiện tƣợng “hiện hữu trong tư duy và hành động thường nhật của chúng ta” [32, 66]. Quan niệm cuả tác giả Phan Thế Hƣng về ẩn dụ đã có sự gần gũi với quan niệm của các nhà ngôn ngữ học tri nhận về ẩn dụ. Ông viết: “Ẩn dụ không đơn giản là phép so sánh ngầm mà chính là câu bao hàm xếp loại thuộc về cấu trúc bề sâu của tư duy. Nói cách khác, hiểu sự so sánh không Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 phải là trung tâm của việc hiểu ẩn dụ, mà chính là hiểu được việc xếp loại”[15, 12]. Theo GS. TS Nguyễn Đức Tồn: “Ẩn dụ là phép thay thế tên gọi hoặc chuyển đặc điểm thuộc tính của sự vật, hiện tượng khác loại dựa trên cơ sở sự liên tưởng đồng nhất hoá chúng theo đặc điểm, thuộc tính nào đó cùng có ở chúng” [28,8]. Tác giả cũng viết: “Hiện nay các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng thế giới như Lakoff và Johnson (1980) và những học giả khác đã khẳng định rằng ẩn dụ không phải chỉ là vấn đề của ngôn ngữ, nói cụ thể hơn, ẩn dụ được coi là phương thức tư duy của con người” [28,5]. “Từ đó các nhà khoa học về ngôn ngữ và triết học đã xây dựng lý thuyết ẩn dụ ý niệm để mô tả cách chúng ta hiểu các khái niệm trừu tƣợng khi đƣợc hiện thân hoá qua trải nghiệm cảm xúc của chúng ta” [28, 5]. Nói đến ẩn dụ tri nhận trƣớc hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm tri nhận, thuật ngữ ngôn ngữ học tri nhận. 1.1.2.1. Ngôn ngữ học tri nhận Tri nhận là khái niệm trung tâm của khoa học tri nhận. Nó “biểu hiện môt qua trình nhận thức hoặc tổng thể những quá trình tâm lý – tri giác, phạm trù hoá, tư duy, lời nói... phục vụ cho việc xử lý lời nói, chế biến thông tin. Nó bao gồm cả việc con người nhận thức và đánh giá cả bản thân mình trong thế giới xung quanh và xây dựng thế giới đặc biệt - tất cả những cái tạo thành cơ sở cho hành vi của con người” [1,58]. Nhƣ vậy, “Tri nhận là tất cả quá trình trong đó dữ liệu cảm tính được cải biến khi truyền vào não dưới dạng những biểu hiện tinh thần (hình ảnh, mệnh đề, khung, cảnh... ) để có thể lưu lại trong trí nhớ của con người. [1, 58] Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 “Đôi khi tri nhận còn đƣợc định nghĩa nhƣ sự tính toán, nghĩa là xử lý thông tin dƣới dạng những kí hiệu, cải biến nó từ dạng này sang dạng khác – thành mật mã khác, thành cấu trúc khác” [1,58]. Các qua trình tri nhận bao gồm: quá trình nhận thức, ý niệm hoá, phạm trù hoá, tri giác và các biểu hiện tinh thần đang diễn ra trong bộ não của con ngƣời, nhờ đó con ngƣời nhận đƣợc những tri thức về thế giới. Về Ngôn ngữ học tri nhận: Lý Toàn Thắng đã nêu rằng ngôn ngữ học tri nhận đƣợc hiểu là “ một trƣờng phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con ngƣời về thế giới khách quan cũng nhƣ cái cách thức mà con ngƣời tri giác và ý niệm hoá các sự vật và sự tình của thế giới khách quan đó”. Luận văn này chúng tôi quan tâm đến vấn đề ẩn dụ tri nhận. 1.1.2.2. Ẩn dụ tri nhận Khái niệm ẩn dụ tri nhận Theo Black (1962), ẩn dụ chứa một "nội dung tri nhận xác thực" (positive cognitive content), Michael Reddy, ngƣời đƣợc Lakoff coi là "thực ra đã có những đóng góp vƣợt lên cả những điều mình khiêm nhƣờng đề ra" đã cho rằng ẩn dụ là một quỹ tích của những suy nghĩ chứ không phải của ngôn ngữ và nó là một phần đáng kể và thiết yếu của phƣơng cách ƣớc định tri nhận thế giới (theo Lakoff,1993). Có thể không phải là những ngƣời đầu tiên đặt ẩn dụ trong mối quan hệ với tƣ duy mà cụ thể là khả năng tri nhận của con ngƣời nhƣng mốc quan trọng trong sự phát triển của lý thuyết hiện đại của tri nhận luận về ẩn dụ phải là 1980, khi công trình Metaphor we live by của G. Lakoff và M. Johnson ra đời. Lakoff và Johnson (1980) cho rằng: “Hệ thống ý niệm đời thƣờng của chúng ta, mà trong khuôn khổ của nó chúng ta suy nghĩ và hành động, về bản chất là ẩn dụ ”. Chúng ta không chỉ dùng các ẩn dụ đƣợc quy Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 ƣớc hoá và từ vựng hoá và nhất là những ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor) một cách thuần tuý ngôn ngữ học mà sự thực là chúng ta có suy nghĩ hay ý niệm hoá phạm trù “đích” thông qua phạm trù “nguồn”. Bởi hiện nay, tƣ liệu dịch thuật cũng nhƣ nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận ở nƣớc ta chƣa nhiều nên chúng tôi xin trích dịch nguyên một đoạn trong tài liệu mang tên "Lý luận mới về ẩn dụ " (Lakoff, 1993) khi bàn về khái niệm ẩn dụ dƣới quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận. Lý thuyết chung của ẩn dụ nằm trong những đặc điểm của sự xác lập khái quát có tính liên tƣởng. Trong quá trình đó, những khái niệm trừu tƣợng hàng ngày nhƣ thời gian, trạng thái, thay đổi, nguyên nhân, kết quả hoặc mục đích ... đều trở nên có tính ẩn dụ . Hệ quả là ẩn dụ (tức là khái quát có tính liên tƣởng) chính là tâm điểm tuyệt đối của ngữ nghĩa học trong ngôn ngữ thông tục tự nhiên, và việc nghiên cứu ẩn dụ văn học là một sự mở rộng của việc nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ hàng ngày. Phép ẩn dụ đƣợc dùng đến hàng ngày (trong ngôn ngữ thƣờng nhật) là một hệ thống khổng lồ gồm vô số những khái quát liên tƣởng, và hệ thống này đƣợc sử dụng trong ẩn dụ văn học. Nhờ những kết quả thực chứng này, chữ ẩn dụ đã đƣợc dùng theo một cách khác trong những nghiên cứu về ẩn dụ lúc này có nghĩa là một khái quát có tính liên tƣởng trong hệ thống khái niệm. Khái niệm sự diễn đạt có tính ẩn dụ đƣợc dùng để chỉ một biểu đạt ngôn ngữ (một chữ, một cụm từ, hoặc một câu) thực hiện đƣợc sự khái quát có tính liên tƣởng đó. [...] Khác với ẩn dụ tu từ và ẩn dụ từ vựng, ẩn dụ ý niệm (hay tri nhận), ngoài chức năng quy ƣớc hóa và từ vựng hóa còn có chức năng ý niệm hóa, thể hiện cách tƣ duy, tri nhận về sự vật của ngƣời bản ngữ theo những phƣơng thức nhất định. Lý Toàn Thắng đã nói đến tầm quan trọng của ẩn dụ tri nhận trong ngôn ngữ đặt trong sự so sánh với ẩn dụ - theo cách hiểu truyền thống và tu Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 từ học. Theo ông: “Ẩn dụ theo truyền thống văn học và tu từ học thường được coi là một trong hai (cùng với hoán dụ) kiểu chính của phép dùng từ theo nghĩa bóng, được xây dựng trên những khái niệm về sự tương tự và so sánh giữa nghĩa đen và nghĩa bóng của từ ngữ; thí dụ chân núi (so với: chân người); ánh sáng chân lý ( so với: ánh sáng mặt trời ) . Tuy nhiên, chúng ta chưa khảo sát và chưa đánh giá hết tầm quan trọng của ẩn dụ trong ngôn ngữ đời thường hàng ngày và nhất là như một công cụ tri nhận mạnh mẽ để ý niệm hoá các phạm trù trừu tượng ”[30, 28]. Nếu nhƣ ẩn dụ theo quan điểm truyền thống bao giờ cũng mang tính quy ƣớc do đƣợc tạo thành trong một cộng đồng văn hoá – ngôn ngữ và đƣợc từ vựng hoá trong các hình thức từ ngữ thì ẩn dụ tri nhận đƣợc xem là “công cụ tri nhận”(Black (1962)). Từ những dẫn giải về ẩn dụ, Lý Toàn Thắng đã đƣa ra cách hiểu mới về ẩn dụ: “ Ẩn dụ ý niệm là một sự chuyển di (transfer) hay một sự đồ hoạ (mapping) cấu trúc và các quan hệ nội tại của một lĩnh vực hay mô hình tri nhận đích” [ 28,30]. Cụ thể hơn, ông viết: “Thông thường các phạm trù ở mô hình nguồn cụ thể hơn, nghĩa là chúng ta thường dựa vào kinh nghiệm của mình về những con người, những sự vật và hiện tượng cụ thể thường nhật để ý niệm hoá các phạm trù trừu tượng”[ 30, 30]. Ông dẫn các ví dụ điển hình nhƣ : thời gian là tiền bạc, tình yêu là một cuộc hành trình... Trong đó, tiền bạc, cuộc hành trình là nguồn; thời gian, tình yêu là đích. Chẳng hạn, chúng ta có thể dùng sắp hết tiền và cũng có thể dùng sắp hết thời gian; hoặc có thể dùng tiêu tốn thời gian và tiêu tốn tiền; giữ gìn tiền bạc, giữ gìn thời gian; mất tiền bạc, mất thời gian; ăn cắp tiền bạc, ăn cắp thời gian... Trần Văn Cơ cũng viết: “Ẩn dụ tri nhận (hay còn gọi là ẩn dụ ý niệm) là một trong những hình thức ý niệm hoá, một quá trình tri nhận có những biểu hiện là hình thành những ý niệm mới và không có nó thì không thể nhận được tri thức mới”[1,180]. “Về nguồn gốc, ẩn dụ tri nhận đáp ứng Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 năng lực của con người nắm bắt và tạo ra sự giống nhau giữa những cá thể và những lớp đối tượng khác nhau” [1, 180]. Để tiện bề hiểu hơn về đồ chiếu trong hệ thống ý niệm, Lakoff và Johnson đã áp dụng một chiến lƣợc đặt tên cho những đồ chiếu nhƣ vậy, dùng trí nhớ đề nghị ra đồ chiếu này, theo hình thức: Target domain is source domain hay có thể là Target domain as source domain. Ví dụ nhƣ khi nói Love is a journey (Tình yêu là một cuộc hành trình), ta sẽ dùng trí nhớ để nêu lên đặc điểm của các đồ chiếu (mapping) gọi là The love-as-journey mapping: - Ngƣời tình nhân tƣơng ứng với ngƣời lữ khách - Mối quan hệ yêu đƣơng tƣơng ứng với một phƣơng tiện đi lại - Mục đích chung của hai ngƣời yêu nhau tƣơng ứng với điểm đến chung trong chuyến hành trình. - Những khó khăn trong quan hệ giữa họ tƣơng ứng với những trở ngại trên đƣờng đi. Điều cần lƣu ý là không nên nhầm lẫn tên đồ chiếu Love is a journey với bản thân đồ chiếu. Đồ chiếu tạo nên các sự tƣơng ứng nên khi nói đến một ẩn dụ, ta nghĩ đến một loạt các tƣơng ứng. Bản thân thuật ngữ ẩn dụ ý niệm đã bao hàm rằng ẩn dụ nằm ngay ở tƣ duy của con ngƣời và biểu hiện lên bề mặt ngôn ngữ. Tƣ duy và sau đó là ngôn ngữ về cơ bản là các quá trình ẩn dụ gắn liền với kinh nghiệm cá nhân và các nền văn hóa. Một số lý thuyết thỏa đáng về hệ thống ý niệm của con ngƣời là phải giải thích đƣợc các ý niệm: (1)căn cứ vào đâu, (2)cấu trúc nhƣ thế nào, (3)có quan hệ với nhau nhƣ thế nào, (4) và đƣợc định nghĩa nhƣ thế nào. Cái tạo nên một mệnh đề ẩn dụ Tình yêu là một cuộc hành trình không phải là các từ hay cụm từ . Đó chính là một đồ chiếu xuyên suốt các Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 phạm vi ý niệm, từ phạm vi nguồn của các cuộc hành trình cho tới phạm vi đích của tình yêu. Ẩn dụ không phải chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là của tƣ duy và lý luận. Ngôn ngữ chỉ là thứ yếu, đồ chiếu mới chính là quan yếu vì nó chi phối việc sử dụng ngôn ngữ source domain và các cấu trúc suy ra về các khái niệm target domain. Đồ chiếu mang tính chất quy ƣớc, là một phần của hệ thống ýniệm của chúng ta. Đồ chiếu cho phép chúng ta nhìn thấy chính xác tình yêu ở đấy đƣợc ý niệm hóa thành một cuộc hành trình.Và các ý niệm hóa ẩn dụ (metaphor) để nói về một đồ chiếu ý niệm, và thuật ngữ biểu đạt ẩn dụ (metaphorical expression) đƣợc dùng nói tới một biểu đạt ngôn ngữ cá nhân, nghĩa là đồ chiếu quy định. Nhƣ vậy, theo Lakoff, ẩn dụ, với tƣ cách là một hiện tƣợng, có liên quan đến các đồ chiếu ý niệm và các biểu đạt ngôn ngữ cá nhân. Một điều hết sức quan trọng là cần phải để cho các đồ chiếu và biểu đạt đó trở nên độc đáo. Vì đồ chiếu đóng vai trò chính yếu và mang nghĩa khái quát hóa, cần giữ thuật ngữ ẩn dụ dùng cho đồ chiếu hơn là dùng cho biểu đạt ngôn ngữ. Về mặt nghĩa văn học, những mệnh đề nhỏ kiểu Love is a journey đƣợc dùng theo kiểu thuật nhớ để đặt tên cho các đồ chiếu. Do vậy, khi chúng ta nói về ẩn dụ Love is a journey, chúng ta nhắc tới những khái niệm tƣơng ứng vừa đề cập. Trong tiếng Anh, mệnh đề Love is a journey là một biểu đạt ẩn dụ đƣợc hiểu thông qua những tập hợp tƣơng ứng (set of correspondence). Ẩn dụ Love is a journey là một đồ chiếu ý niệm có các đặc điểm khái quát hóa thành hai loại : Thứ nhất là khái quát hóa đa nghĩa (polysemy generalization) - một sự khái quát quan hệ với nghĩa của các biểu đạt ngôn ngữ; Thứ hai là khái quát hóa suy luận (inferential generalization): một sự khái quát hóa về các suy luận qua các domain ý niệm khác nhau - sự tồn tại của đồ chiếu mang lại một sự trả lời khái quát cho hai câu hỏi: Tại Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18 sao các từ dùng để nói về hành trình đƣợc dùng để miêu tả mối quan hệ? Tại sao các mẩu suy luận đƣợc dùng để lý giải về hành trình đƣợc dùng để lý giải quan hệ tình ái? Việc đồ chiếu Love is a journey là một phần ấn định của hệ thống ý niệm giải thích tại sao các cách dùng tƣởng tƣợng và mới lạ của đồ chiếu lại có thể đƣợc hiểu nhanh chóng, dựa trên những sự tƣơng thích bản chất và các kiến thức khác về các cuộc hành trình. Vídụ trong lời một bài hát: We’re driving in the fast lane on the freeway of love. Tri thức về hành trình đã gợi ra: Khi chúng ta lái xe trên mặt đường cao tốc, chúng ta sẽ đi rất nhanh nhưng cũng hết sức nguy hiểm và đầy phấn khích. Đồ chiếu ẩn dụ chung đã vạch ra tri thức nền về lái xe với tri thức về mối quan hệ tình yêu. Sự nguy hiểm có thể xảy ra với phƣơng tiện (tình yêu có thể không bền lâu) hay hành khách (những kẻ tình nhân có thể bị thƣơng, về mặt tinh thần). Sự hào hứng phấn khích của tình yêu – cuộc hành trình của sự ái ân. Sự hiểu biết về lời bài hát là kết quả của sự tƣơng thích ẩn dụ đã có từ trƣớc về ẩn dụ Love-as-journey. Lời bài do vậy cũng không làm khó ngƣời nghe tiếng Anh vì những sự tƣơng thích ẩn dụ đã là một phần của hệ thống ý niệm. Ẩn dụ Love as Journey là một ví dụ cho ta thấy đó không phải là một lối nói hình tƣợng (figure of speech), mà là một hình thức tƣ duy (mode of thought), đƣợc quy định bởi một đồ chiếu hệ thống từ phạm vi nguồn cho tới phạm vi đích. Mỗi một ẩn dụ, hay một đồ chiếu là một phần ấn định của những tƣơng thích ý niệm qua các phạm vi ý niệm cụ thể. Do vậy mỗi một đồ chiếu ấn định một loại mở của các tƣơng thích tiềm năng qua các mô thức suy luận và phải đƣợc coi là một mẫu cố định về sự tƣơng thích bản thể qua các miền (domain). Lí thuyết ẩn dụ của ngôn ngữ học tri nhận cũng đã mở ra cách tiếp cận Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất