Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Âm nhạc trong lễ hội truyền thống của người việt xứ thanh (la)...

Tài liệu Âm nhạc trong lễ hội truyền thống của người việt xứ thanh (la)

.PDF
127
139
127

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thanh Hóa - vùng đất quê hương của nhiều vương triều, là căn cứ địa của nhiều cuộc khởi nghĩa đánh giặc ngoại xâm giải phóng dân tộc. Với bề dày lịch sử của mình, Thanh Hóa được mệnh danh là vùng đất “địa linh nhân kiệt”; không chỉ vậy, nhân dân xứ Thanh, trải qua lịch sử, đã xây dựng được một nền văn hoá bản địa đáng ngưỡng mộ và tự hào. Lễ hội cổ truyền của người Việt xứ Thanh là một phong tục có từ lâu đời, được duy trì qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay. Ở đó, không chỉ duy trì những vấn đề tín ngưỡng mà còn có nhiều những hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc; trong đó có các hình thức vui chơi giải trí liên quan tới tinh thần thượng võ dân tộc, các hoạt động văn hóa văn nghệ dân gian, các trò diễn, diễn xướng,… được trình diễn trong những ngày lễ dâng hương, những ngày hội làng hay những ngày kỷ niệm tưởng nhớ đến công lao của các anh hùng dân tộc. Âm nhạc dân gian xứ Thanh khá phong phú về loại hình và đa dạng về phong cách: vùng thuộc lưu vực sông Mã có hò sông Mã; vùng Thọ Xuân địa bàn hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn có múa hát Xuân Phả mang nhiều dấu ấn nghệ thuật cung đình; Hát Ghẹo và trò diễn phổ biến ở khắp nơi (Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương, Thiệu Hoá, Yên Định,…); vùng Tĩnh Gia (là trung tâm nối liền đồng bằng châu thổ Thanh Hoá với đồng bằng châu thổ Nghệ An) có hát Khúc, hát Lịch trình, hát Trống vả, hò Hái củi,… mang những âm điệu miền Trung rõ rệt. Ngoài ra còn có các làn điệu Trống quân, Cò lả, Sa mạc; các phường Chèo, Tuồng nằm rải rác ở một số nơi. Nhiều nhà nghiên cứu đã sưu tầm, tìm hiểu âm nhạc dân gian xứ Thanh, nhưng chủ yếu là trên phương diện văn hoá dân gian. Riêng lĩnh vực âm nhạc, 2 mới chỉ khai thác lẻ tẻ một số làn điệu dân ca, một số trò diễn hoặc diễn xướng mà chưa đi sâu tìm hiểu - nghiên cứu trên phương diện tổng thể về âm nhạc trong lễ hội truyền thống để tìm ra cái nhìn tổng quát, toàn diện. Là người được sinh ra và lớn lên tại quê hương Thanh Hoá, tác giả luận án luôn tâm huyết với các đề tài nghiên cứu âm nhạc tại quê hương của mình. “Âm nhạc trong lễ hội truyền thống của người Việt xứ Thanh” là đề tài đang còn bỏ ngỏ, chưa được nhiều người quan tâm tìm hiểu, tác giả đã lựa chọn làm công trình nghiên cứu cho luận án này. Luận án nhằm nêu bật những nét đặc trưng qua việc phân tích, đánh giá các giá trị nghệ thuật âm nhạc độc đáo, đa dạng của âm nhạc dân gian qua hệ thống âm nhạc dân gian của người Việt xứ Thanh. Khẳng định những giá trị xã hội và những giá trị nghệ thuật đặc sắc về âm nhạc dân gian người Việt ở Thanh Hoá. 2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành bản luận án này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Dân tộc học, Văn hóa học, Âm nhạc học, Thống kê,…). - Phương pháp khảo sát thực địa (điền dã, sưu tầm, thu thanh, quay phim, chụp ảnh, ghi chép tài liệu trực tiếp qua nghệ nhân,...) - Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, chứng minh, so sánh, để tìm ra những đặc trưng âm nhạc và giá trị nội dung thể loại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Âm nhạc dân gian của người Việt ở tỉnh Thanh Hoá có trong lễ hội cổ truyền. Phạm vi nghiên cứu: 3 Tìm hiểu đặc điểm âm nhạc trong các làn điệu dân ca; trong các trò diễn, diễn xướng; âm nhạc trong nghi thức tế Thành hoàng của người Việt ở Thanh Hoá bằng phương pháp phân tích, so sánh với một số làn điệu thuộc các thể loại dân ca của vùng miền khác để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu để làm nổi bật vai trò, chức năng và đặc trưng âm nhạc dân gian người Việt ở tỉnh Thanh Hóa. 4. Lịch sử nghiên cứu đề tài Đã có một số công trình được công bố liên quan đến âm nhạc dân gian của người Việt ở Thanh Hoá như: sưu tầm một số bài bản dân ca; tập hợp một nhóm trò hay trò diễn dưới góc độ tiếp cận sinh hoạt văn hoá dân gian qua văn bản lời ca; bên cạnh đó cũng có một số công trình nghiên cứu âm nhạc, một số bài bản được sưu tầm và ký âm trong giai đoạn trước đây. 4.1. Các công trình dưới góc độ tiếp cận sinh hoạt văn hoá dân gian qua văn bản lời ca: Tư liệu đề cập tới trò diễn dân gian Thanh Hóa có thể kể đến đầu tiên là cuốn “Thanh Hoá quan phong” xuất bản năm 1903 của Vương Duy Trinh. Trong đó có đưa vào một số văn bản lời ca Múa đèn Đông Anh. Năm 1965 nhóm Lam Sơn do Giáo sư Vũ Ngọc Khánh chủ biên đã sưu tầm và xuất bản cuốn “Dân ca Thanh Hoá”; điều đáng ghi nhận ở công trình là sự trình bày văn bản lời ca; liệt kê và miêu tả các thể loại dân ca bao gồm các trò diễn, hò sông Mã, hát Cửa đình, hát Ghẹo…; chưa đề cập đến một số thể loại mà theo chúng tôi là rất quan trọng, là minh chứng cho sự giao thoa vùng miền giáp danh, giữa đồng bằng châu thổ Thanh Hóa với vùng đồng bằng châu thổ Nghệ An. Đó là các thể loại hò Hái củi, hát Lịch trình, hát Trống vả của dân cư ven biển vùng Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa. Trong hệ thống trò diễn Thanh Hóa, vùng trò Đông Sơn tạo sự thu hút cho các nhà nghiên cứu nhiều hơn cả. Năm 1988 Hoàng Khôi, Kim Lữ cho đăng 4 “Một số tư liệu điều tra về Múa đèn ở Thanh Hoá” trong cuốn Văn hoá dân gian; Vũ Ngọc Khánh phụ trách sưu tập “Trò Ngô”, xuất bản năm 1988 (ty VH - TH cấp giấy phép);... Được sưu tầm và khai thác đầy đủ nhất về phương diện văn hóa dân gian là cuốn “Trò diễn dân gian vùng Đông Sơn”, xuất bản năm 1988 của tác giả Trần Thị Liên. Năm 2001 Lê Huy Trâm, Hoàng Anh Nhân cho ra mắt cuốn “Lễ tục lễ hội truyền thống xứ Thanh” (Tập I), năm 2005 tiếp tục xuất bản tập II (Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc). Đây là công trình được sưu tầm và biên soạn một cách khá đầy đủ những hoạt động diễn ra trong lễ hội, bao gồm cả việc ghi chép văn bản lời ca trong âm nhạc dân gian. Lẻ tẻ cũng có một số bài viết có liên quan đăng trên các tạp chí, đáng lưu ý hơn cả là phát hiện của tác giả Phạm Minh Khang với “Trò hát thờ làng Mưng, dấu vết còn lại của chiếng chèo Thanh” đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian số 3, năm 2004. Những công trình trên là cơ sở tư liệu quan trọng giúp chúng tôi kiểm chứng thực tế trong quá trình điều tra, khảo sát, thực hiện luận án. 4.2. Các công trình sưu tầm và nghiên cứu âm nhạc dân gian Thanh Hóa: Trong khoảng 60 năm, kể từ khi cán bộ Ban Âm nhạc (thuộc vụ Văn hóa dân gian) bắt đầu đi khảo sát thực địa ở Thanh Hóa cho đến nay, đã có những bài bản dân ca được công bố dưới dạng ký âm bải bản, hoặc một công trình nghiên cứu. 4.2.1. Tư liệu ký âm: Một số tư liệu được sưu tầm và ký âm có thể kể đến: - Lê Quang Nghệ sưu tầm và ký âm trò “Múa đèn Đông Anh”, xuất bản năm 1962. - Một số làn điệu Hò sông Mã trong cuốn “Hò trong dân ca người Việt”. 5 - Lẻ tẻ một số bài hát Ghẹo, hát Múa quạt, các bài hát trong một số Trò diễn được in trong các công trình nghiên cứu mang tính tổng hợp về âm nhạc dân gian Việt Nam. 4.2.1. Công trình nghiên cứu: Nối tiếp các thế hệ đi trước, bản thân tác giả là người yêu quý những làn điệu dân ca của quê hương mình, từ năm 1995 tác giả đã trực tiếp đi điều tra, sưu tầm, ký âm bài bản, tìm hiểu âm nhạc trong Múa đèn Đông Anh; trống tế Phú Khê - Hoằng Hóa để làm những tiểu luận Đại học, năm 2002 - 2006 tiếp tục điều tra, khảo sát tìm hiểu âm nhạc trong một số trò diễn để hoàn thành luận văn Thạc sĩ. Năm 1997 nhóm tác giả Phạm Minh Khang, Hoàng Hải, Hoàng Anh Nhân đã cho ra mắt cuốn “Khảo sát trò Xuân Phả”. Đây là công trình có sự đầu tư nghiên cứu sâu, đã minh chứng được những yếu tố đậm đặc mang phong cách nghệ thuật cung đình thể hiện qua phương thức trình diễn cũng như những động tác múa đặc trưng. Công trình cũng đã đề cập tới một số vấn đề âm nhạc, về thang âm điệu thức, tiết tấu, giai điệu,… Năm 1999 tác giả Đào Việt Hưng cũng đề cập tới một số chi tiết về thang âm, điệu thức của trò Tiên Cuội và Múa đèn Đông Anh trong cuốn “Tìm hiểu điệu thức dân ca của người Việt - Bắc Trung Bộ”. Năm 2003, Nguyễn Trung Liên nghiên cứu âm nhạc Múa đèn Đông Anh để làm luận văn Thạc sĩ Văn hoá dân gian. Những công trình trên được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Trên cơ sở đó, một số nhận định về âm nhạc dân gian Thanh Hóa đã được ghi nhận. Đây sẽ là những cơ sở lý luận giúp chúng tôi trong quá tình thực hiện luận án. 5. Mục đích của luận án Tìm hiểu, nghiên cứu để nêu bật những đặc điểm âm nhạc dân gian của người Việt xứ Thanh. 6 Khẳng định những nét độc đáo của âm nhạc dân gian Thanh Hoá qua hệ thống âm nhạc trong lễ hội người Việt xứ Thanh. Bao gồm âm nhạc trong lễ và hội của người Việt ở Thanh Hoá. Chứng minh nghệ thuật âm nhạc dân gian Thanh Hoá trong tổng thể nguyên hợp nhiều khía cạnh văn hóa dân gian mang tính liên ngành. Đóng góp vào việc tìm hiểu và phát huy nền âm nhạc dân gian quý báu của dân tộc Việt Nam. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn chia làm ba chương: Chương 1: Môi trường tự nhiên - Văn hóa xã hội tỉnh Thanh Hóa Chương 2: Lễ hội truyền thống xứ Thanh mang dấu ấn vùng miền Chương 3: Âm nhạc trong lễ hội 7 CHƯƠNG 1 MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN - VĂN HÓA XÃ HỘI TỈNH THANH HÓA 1.1. Đặc điểm địa lý, văn hoá xã hội: Theo địa chí Thanh Hóa, Phủ Thanh Hóa có từ thời Lý (năm Thuận Thiên thứ 1); qua những lần đổi thành trấn Thanh Đô (năm Quang Thái thứ 10 1397), Phủ Thiên Xương (1430) hay còn gọi là Tây Đô, Thừa Tuyên Thanh Hóa (năm Quang Thuận thứ 7 - 1466), Thừa Tuyên Thanh Hoa (năm Quang Thuận thứ 10 - 1469), Trấn Thanh Hóa (năm Gia Long thứ nhất - 1802), tỉnh Thanh Hoa (năm Minh Mệnh thứ 12 - 1831); đến năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) chính thức đổi tên thành Tỉnh Thanh Hóa và tồn tại tới thời nay (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1970). Thanh Hóa nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ thì Thanh Hóa nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến 106°05' Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình; phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Lào) với đường biên giới 192 km; phía đông Thanh Hóa mở ra phần giữa của vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102 km. Diện tích tự nhiên của Thanh Hóa là 11.109 km², chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km². Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, Thanh Hóa có 3.400.239 người; mật độ dân số vào loại trung bình: 305 người/km². Thanh Hóa là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng chủ yếu có 7 dân tộc là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Người Kinh chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp, các dân tộc khác có dân số và địa bạn sống thu hẹp hơn. 8 Thanh Hoá có thể tạm chia thành hai miền: miền núi và miền xuôi. Miền núi gồm các huyện: Thạch Thành, Cẩm Thủy, Lang Chánh, Ngọc Lạc, Thường Xuân, Như Xuân, Quan Hoá, Bá Thước. Diện tích là: 8.118 km2. Miền xuôi gồm: Thành phố Thanh Hoá, thị xã Bỉm Sơn, thị xã Sầm Sơn và các huyện: Thọ Xuân, Triệu Sơn, Nông Cống, Đông Sơn, Thiệu Yên, Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương, Tĩnh Gia với tổng diện tích: 3.050 km2. Thanh Hoá có núi bao bọc ba phía: Tây, Tây Bắc (kết thúc bởi dãy Tam Điệp), Tây Nam (kết thúc bởi dãy núi đá thấp Hoàng Mai) và phía Đông có bờ biển trải dài từ Bắc vào Nam. Từ Bắc vào Thanh Hoá phải vượt qua dãy núi đá vôi Tam Điệp và từ Thanh Hoá vào miền Trung phải vượt qua dãy núi đá thấp và rừng Hoàng Mai. Mạng lưới sông Thanh Hoá quy tụ thành 3 hệ thống là: sông Mã, sông Chu, sông Yên. Sông Mã là con sông lớn nhất Thanh Hoá, dài 242 km chảy từ tỉnh Hoà Bình qua các huyện Quan Hoá, Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Vĩnh Lộc, Thiệu Yên, Hoằng Hoá, Hậu Lộc, Hà Trung; thuộc hệ thống này có sông Bưởi dài 325 km, sông Hoạt dài 55 km, và các sông nhỏ khác như sông Cầu Chày, sông Tào, sông Trà Giang, sông Báo Văn. Sông Chu là sông lớn thứ hai, dài 325 km, chảy từ huyện Thường Xuân, Thọ Xuân, Đông Sơn hoà vào cùng sông Mã ở Ngã Ba Đầu; thuộc hệ thống sông này có sông Khao, sông Đặt, sông Đằng, sông Âm. Sông Yên phát nguồn từ huyện Như Xuân, dài 94 km, chảy qua huyện Nông Cống, Quảng Xương và đổ ra biển ở Hải Ninh (Ghép); thuộc hệ thống sông này có sông Nhơm, sông Hoàng, sông Thị Long. Ngoài ra, ở cực Nam - Thanh Hoá còn có sông Bạng dài 35 km, chảy từ Như Xuân qua Tĩnh Gia, đổ ra cửa biển Lạch Bạng. Sông đào nhà Lê từ Đồng Cổ (Thiệu Yên) chảy qua các huyện miền xuôi đến sông Bà Hoà giáp Nghệ An. 9 Bờ biển Thanh Hoá trải dài từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương vào hết địa phận Tĩnh Gia. Dọc bờ biển có 6 cửa sông chính là cửa sông Hoạt (chảy ra biển ở địa phận Nga Thái), cửa sông Lèn (chảy ra biển ở địa phận xã Nga Bạch), cửa Lạch Trường (chảy qua địa phận xã Hải Lộc và Hoằng Trường), cửa Hới (chảy qua địa phận Hoằng Hoá, Quảng Xương), cửa Lạch Ghép (chảy ra biển ở địa phận xã Quảng Nham và Hải Châu), cửa Lạch Bạng (chảy ra biển ở địa phận xã Hải Thanh và Hải Bình). Do tính chất địa lý bị chia cắt nhiều tiểu vùng bởi các con sông và núi, đồi chạy từ Tây sang Đông tạo ra các vùng tiểu nhiệt đới, có sự chênh lệch lớn giữa các khu vực nên Thanh Hoá có khí hậu tương đối phức tạp, thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa Đông lạnh, có sương giá, sương muối và ít mưa; mùa hè nóng, có gió Tây khô và nhiều mưa. Đặc điểm đó đã có tác động sâu sắc tới đời sống sinh hoạt và lao động của người dân Thanh Hoá. Do đặc điểm Thanh Hoá có bờ biển dài, mạng lưới sông dày,… tạo nên những môi trường sinh thái đa dạng đã tác động sâu sắc đến điều kiện sinh sống, đến đời sống lao động, đến tính cách và khí chất con người trong mỗi vùng Thanh Hoá. Bên cạnh đó, nó cũng có tác động mạnh mẽ tới những cảm hứng sáng tạo về văn hoá - nghệ thuật, tạo nên mầu sắc chung cho văn hoá nghệ thuật Việt Nam và bản sắc riêng của văn hoá - nghệ thuật Thanh Hoá, trong đó có nghệ thuật âm nhạc. “Thanh Hóa không phải chỉ là một Tỉnh, đó là một Xứ” (Pierre Pasquier “Thanh Hóa” - 1931). [69, sđd, tr.270]. “Xứ”, theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “khu vực địa lý có những đặc điểm chung”, theo Từ điển tiếng Việt: “một miền của đất nước”. Giáo sư Trần Quốc Vượng (được biết đến “là người theo chủ thuyết địa - văn hóa, địa - lịch sử), Giáo sư Phan Ngọc trong “Bản sắc văn hóa Việt Nam”, Giáo sư - Viện sĩ Trần Ngọc Thêm trong “Cơ sở văn hóa Việt Nam” đều nói đến Xứ như là “vùng văn hóa”. Kế tục tư tưởng này, 10 trong khuôn khổ công trình nghiên cứu của luận án, chúng tôi sử dụng danh từ “Âm nhạc Xứ Thanh” như là một thuật ngữ văn hóa học với ý đối tượng nghiên cứu là: âm nhạc dân gian trong giới hạn không gian đồng nhất với địa giới của tỉnh Thanh Hóa; nói cách khác, “Xứ Thanh” ở đây được hiểu như là Thanh Hóa ngày nay, việc sử dụng “xứ Thanh” hay “Thanh Hóa” tại mỗi câu, đoạn nhằm mục đích giải quyết vấn đề “cú pháp” trong văn học chứ không nhằm phân biệt địa giới hành chính hay giới hạn của không gian văn hóa được nghiên cứu. 1.2. Những cơ sở hình thành lễ hội: 1.2.1. Khái niệm về lễ hội: Văn hoá dân gian xứ Thanh - nền văn hoá hình thành và phát triển trên nền văn hoá Đông Sơn thời các Vua Hùng - nằm trong cái nôi chung của văn hoá dân gian người Việt, cũng bao gồm những lễ hội truyền thống. Lễ hội truyền thống xứ Thanh thể hiện ý chí tín ngưỡng cũng như đặc điểm nhận thức văn hoá của người Việt cổ xứ Thanh gắn liền với tín ngưỡng và nhận thức chung của cộng đồng người Việt và thể hiện phần nào cái riêng của người dân bản xứ. Nền văn hoá đó, trong quá trình hình thành và phát triển đã hình thành và phát triển các lễ hội và nội dung lễ hội. Trong năm, vào những thời điểm ngoài mùa vụ sản xuất, đặc biệt vào mùa xuân, là dịp mà cộng đồng người Việt thể hiện đời sống văn hoá của mình khá rõ ràng; đây cũng là dịp lễ hội được tổ chức nhiều nhất, là dịp để mọi người có thể tề tựu, tập trung lại để cùng nhau sống cuộc sống văn hoá cộng đồng. Lễ hội dân gian là một loại hình sinh hoạt văn hoá cộng đồng của người Việt xưa, được hình thành bởi ý thức cũng như đặc điểm nhận thức của nhân dân, là một loại hình sinh hoạt văn hoá chủ đạo trong cuộc sống dân gian. Hình thức sinh hoạt cộng đồng này tồn tại trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc và ngày càng phát huy vai trò của mình trong việc đảm bảo đời sống văn hoá 11 cũng như việc truyền tụng cho các thế hệ trong dân cư về văn hoá và lịch sử dân tộc. Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, TSKH Trần Ngọc Thêm nhận xét về lễ hội như sau: - Phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn: Tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình… [52, tr.303] - Phần hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú, phần lớn được xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông nghiệp. [52, tr.306]. Một ý kiến khác của tác giả Ngô Đức Thịnh trong cuốn “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” khẳng định rằng: … Trong ngày hội không chỉ có tế lễ, rước và tục hèm, mà còn có nhiều sinh hoạt văn hóa, các trò diễn mang tính nghi lễ và phong tục [53, tr.24]. Như vậy, các tác giả đều chung quan điểm lễ hội bao gồm: phần lễ và phần hội; Lễ là để cho người dân bày tỏ lòng thành kính của mình với những thần thánh, tổ tông… bằng các hình thức cúng tế; hội là phần vui chơi giải trí, mà ở đó người dân có thể nhảy múa, hát ca,… nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của mình. 1.2.2. Tục thờ thần linh (Thành Hoàng và Phúc Thần), yếu tố tâm linh: Trong các làng xã của cộng đồng người Việt nói chung và Thanh Hoá nói riêng, mỗi làng đều có Đình, Đền, Miếu thờ thần linh. Nghiên cứu về các vị thần được tôn thành Thành Hoàng, Ngô Đức Thịnh trong cuốn “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” có nhận định rằng: Các vị thần linh có nguồn gốc là Nhiên thần, Thiên thần hoặc Nhân thần. Ông cho rằng, các vị Thiên thần có nguồn gốc từ trời, “Thiên” là trời, trong đó có cả các vị chưa được “nhân hóa” hay đã được nhân hóa [53, 12 tr.96]; Nhiên thần là các vị có nguồn gốc từ thiên nhiên như Thần nước (Thủy thần), Thần đất (Thổ thần), Thần núi (Sơn thần), cũng có thể ở dạng các con vật, đồ vật… [53, tr.98]; Nhân thần là các vị thần có công tích và vị thế xã hội [53, tr.102]. Khảo sát thực tế cho thấy, thần được thờ ở Thanh Hóa có thể là Nhân thần, Thiên thần hoặc Nhiên thần, nhưng tập trung nhất vẫn là thờ Nhân thần. Đó là những nhân vật lịch sử có công đánh giặc giữ nước, cùng xây làng lập ấp được dân làng tôn thành thần. Nhân thần ở Thanh Hóa là các bậc vua chúa, tướng lĩnh, khoa bảng,… qua các thời kỳ như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Lê Lai, Trần Khát Chân,… Thần linh là niềm tự hào của dân làng, là linh hồn của cả cộng đồng. Dân làng tin rằng thần linh chi phối mọi hoạt động, sinh hoạt, phong tục tập quán của làng cho nên việc thờ phụng hết sức tôn nghiêm thành kính. Lễ hội được tổ chức hàng năm có ý nghĩa rất quan trọng trong cộng đồng làng. Thứ nhất là để tưởng nhớ đến công lao của các vị Thần, ôn lại những chiến tích hào hùng của ông cha, đồng thời để mong cầu sự che chở phù hộ độ trì để dân làng làm ăn được “an khang thịnh vượng”. Thứ hai là để tổ chức vui chơi giải trí sau một năm lao động vất vả bằng các hình thức biểu diễn, thi thố tài năng, những hoạt động văn hóa nhằm ôn lại chiến tích của các vị anh hùng,... Khi tổ chức lễ hội, tất cả những công việc từ lúc chuẩn bị đến khi thực hiện đều do người làng đứng ra đảm nhiệm…. Trong dịp tế lễ lớn như vậy, không kể những người trong làng mà còn thu hút khách thập phương ở nơi khác cùng về dự hội. Đây là dịp để nhân dân bày tỏ lòng thành kính bằng các hình thức cúng tế, cầu xin sự phù hộ che chở và những ước vọng của mình với các Thần linh. 13 1.2.3. Thời điểm mở hội: Những tục lệ ở mỗi làng quê được phản ánh khá rõ trong lễ hội, đó cũng là bản sắc riêng của từng lễ hội. Nó gợi ra nhiều vấn đề về những tín ngưỡng xa xưa dẫn ta tới cội nguồn lễ hội. Theo khảo sát thì lễ hội của người Việt xứ Thanh thường kéo dài tới vài ngày, có thể từ 1, 2, 3 đến nhiều ngày tùy thuộc vào tục lệ của mỗi làng. Nếu căn cứ theo câu ca dao: “…Tháng giêng ăn tết ở nhà, tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè” thì hầu như thời điểm mở hội của các làng xã Việt Nam tập trung vào tháng ba. Ở xứ Thanh thời điểm mở hội không phải chỉ trong tháng ba mà ngay từ đầu tháng giêng nhiều làng đã bước vào hội và rải đều cho đến tháng ba, một số ít lễ hội còn được tổ chức vào tháng 4 (Đền Đồng Cổ, Đền Đún,…). Trong một năm có nhiều kỳ lệ (khai hạ, đọc hương ước của làng, tục lệ cơm mới, mừng mùa thu hoạch, đấu vật, đua thuyền, nghi lễ trong ba ngày tết Nguyên đán…), mỗi kỳ lệ dân làng đều tổ chức tế lễ nhưng chỉ có một kỳ dân làng tổ chức tế lễ linh đình đó là kỳ tế cầu phúc (hay kỳ phúc) hàng năm vào mùa xuân, còn gọi là hội làng, với mục đích cầu mong sự bình an cho dân làng. Trong những ngày này, ngoài phần tế, dân làng còn tổ chức các hình thức vui chơi làm cho ngày hội thêm vui vẻ, linh đình; các trò diễn có nội dung tái diễn lại chiến tích của các vị thần hoặc miêu tả đời sống lao động; các làn điệu dân ca đặc sắc mang đậm sắc thái vùng miền. Có thể kể đến các lễ hội được tổ chức trong kỳ tế cầu phúc như lễ hội đền Độc Cước - Sầm Sơn; lễ hội làng Triềng - Yên Ninh, Yên Định; lễ hội Thành hoàng làng - Hoằng Bột, Hoằng Lộc, Hoằng Hoá; lễ hội làng Cự Nham Quảng Xương,… Cũng có những làng mở hội vào các dịp làm lễ Đản nhật như lễ hội Đền Bưng; hoặc vào các ngày Chính kỵ như lễ hội Đền Đún;… 14 Theo lệ làng, trước ngày tổ chức lễ hội tất cả công việc cần thiết phải được chuẩn bị rất chu đáo từ lễ đến hội. Ngoài các lễ hội được tổ chức hàng năm còn có những lễ hội 3, 4 năm mới tổ chức một lần hoặc tổ chức lớn hơn vào những năm được mùa. Đó là các lễ hội có quy mô lớn, có tiếng vang khắp cả một vùng. Theo các cụ cao niên ở Đông Anh kể lại thì lễ hội nghè Sâm ở Đông Anh Đông Sơn là một lễ hội có quy mô rất lớn cả ba tổng, chín xã đền tham dự, cứ 3 năm mới tổ chức một lần và được kéo dài từ 5 đến 7 ngày. Các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi mở hội vào tháng riêng ở nghè Sâm. Các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu là tổ chức tập trò, thi trò, lựa chọn những trò hay, đặc sắc để diễn ở nghè Sâm. “Ba năm một khoá trò lề Lấy chồng hàng Tổng thì về mà coi” Lễ hội Đền Độc Cước được tổ chức vào các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu. Cứ 4 năm tổ chức lễ hội lớn cho cả 4 làng là làng Núi, làng Cá Lập, làng Lương Trung, làng Hới. Vào các năm mở hội, tất cả các làng rước kiệu về làng tổ chức đã được quy định: năm Tí tổ chức ở làng Núi, năm Ngọ ở làng Lương Trung, măm Mão ở làng Cá Lập, năm Dậu ở làng Hới. Đây là Lễ hội trong kỳ tế Cầu phúc, tổ chức vào tháng hai, kéo dài 3 ngày (từ ngày 12 đến hết ngày 14 tháng 2) [60, tr.176]. Lễ hội Đền Đún (Vĩnh Thành, Vĩnh Lộc) được tổ chức vào ngày kỵ Trần Khát Chân từ ngày 23 đến hết ngày 25 tháng 4 hàng năm. Ngày 23 là ngày yến tế, ngày 24 Đại tế diễn trò và ngày 25 tế nữ quan và diễn trò [61, tr.113]. Cũng có lễ hội không cố định cụ thể về thời gian. Làng Duy Tinh có lệ trong vòng 14 ngày, từ ngày 1 đến 14 tháng 2 hàng năm, ngày nào là ngày Đinh thì mở hội và chỉ tổ chức trong vòng một ngày [60, tr.204]. 15 Lễ hội làng Duy Tinh có lệ rước thần Độc Cước, Đức Thánh Bà Hoàng Cảm Linh Nhân và Đức Thánh Mẫu. Như vậy, thời điểm mở hội được diễn ra hàng năm hoặc cách nhật 3, 4 năm mới tổ chức một lần. Phần lớn các lễ hội được tổ chức trong dịp tế cầu phúc; các lễ hội trong ngày Đản nhật, ngày Chính kỵ,… xuất hiện ít hơn. 1.2.4. Không gian tổ chức lễ hội: Đình, đền, miếu là dấu tích vật chất của lễ hội, là cảnh quan trong không gian văn hoá tâm linh có lịch sử lâu đời được gìn giữ từ đời này qua đời khác. Đây là nơi linh thiêng mà cả làng phải tôn thờ, là nơi thần ngự và tiến hành của lễ hội. Thanh Hoá có nhiều đình, đền, miếu thờ các vị thần linh. Tuy nhiên, tổ chức lễ hội nhiều hơn cả là ở đình và đền. Đền là nơi Thần ngự, còn đình là nơi thờ vọng Thần. Đình làng thường có vị trí xa làng, là nơi thoáng mát, rộng rãi để có thể vừa thờ cúng, tế lễ vừa là nơi hội họp và tổ chức lễ hội hàng năm. Kiến trúc của đình thường được thiết kế theo hình chữ “Đinh”. Gian trong là hậu cung là nơi linh thiêng nhất của đình, dành để thờ cúng. Trên ban thờ đặt tượng, ngai có phủ tấm lụa màu đỏ hoặc vàng, có mũ và áo của thần, có tráp hoặc hộp sơn son thiếp vàng đựng sắc phong Thành hoàng; trước hậu cung có bày hương án, đồ bát bửu; gian ngoài là tiền tế (đình ngoài), là nơi tiến hành các nghi lễ tế tự, dâng đồ cúng tế, hai bên tả hữu có bục để các vị chức sắc trong làng hội họp. Đền cũng có kiến trúc gần như đình nhưng diện tích nhỏ hơn. Không gian tế (phần lễ) là ở trong hoặc trên sân đình, đền nhằm bày tỏ lòng nhớ ơn tới công đức của các vị thần, bày tỏ tấm lòng thành kính và thể hiện đạo nghĩa “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. 16 Không gian hội (phần hội) ở ngoài sân đình, sân đền hoặc ở bãi đất rộng (nền áng) của làng. Phần hội là để thoả mãn nhu cầu tâm lý giải trí, vui chơi sau một năm lao động vất vả của cả cộng đồng làng. 1.3. Các dạng lễ hội Có thể thấy rằng, tín ngưỡng thờ thần linh, thờ các vị anh hùng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm trong qúa khứ hào hùng của dân tộc là mục đích đầu tiên thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Sau đó là để thỏa mãn nhu cầu giải trí, vui chơi sau một chu kỳ lao động vất vả. Các vị anh hùng được nhân dân tôn thành các bậc Hiển thánh trải qua các thời kỳ lịch sử được nhân dân lập đền thờ, hàng năm tổ chức tế lễ thờ cúng, và đây cũng là không gian tổ chức lễ hội. Bên cạnh quần thể đền thờ các vị anh hùng dân tộc, Thanh Hoá còn ghi nhận các vị tướng là người ngoại bang, mà tiêu biểu là thờ cha con Lê Ngọc (Thánh lưỡng ngũ vị) người Trung Quốc trong giai đoạn cuối thời nhà Tuỳ. Đặc biệt là thờ Đức vua chàng út (con út của Lê Ngọc). Mỗi lễ hội mang một đặc trưng riêng thể hiện phong tục, tập quán của mỗi địa phương, phản ánh văn hoá tín ngưỡng vùng miền, tiêu biểu là ba vùng: miền núi, miền quê và miền biển. Đại diện cho lễ hội miền biển là các lễ hội làng Cự Nham, lễ hội làng Hải Thanh…; thờ thần núi như lễ hội Thần Độc Cước,…; các lễ hội vùng quê có thể kể dến là lễ hội nghè Sâm, lễ hội Cổ Bôn, lễ hội đền Mưng,… Xét về nội dung, hình thức các lễ hội, có thể tạm chia thành hai nhóm chính là lễ hội tín ngưỡng phong tục và lễ hội lịch sử. 1.3.1. Lễ hội tín ngưỡng phong tục: Các lễ hội tín ngưỡng phong tục đọng lại rất nhiều những đặc điểm phồn thực, thể hiện rõ nhất trong hội. 17 Tín ngưỡng phồn thực mong cầu sự sinh sôi nảy nở của con người có thể gặp trong lễ hội làng Thiết Đanh (Yên Định), thể hiện trong nội dung kéo trò Chụt vào lúc trời còn tối (sáng tinh mơ). Đây là một trò diễn thô phác, đơn giản, diễn xướng mang tính tự do. Kéo trò Chụt hàng năm để mong cầu “giải hạn” và thể hiện sự sống phát triển mãi không bao giờ dừng lại. Tập trung hơn cả là những tư duy về cảm xúc đối với nghề nông ở xứ Thanh, thể hiện qua tín ngưỡng phồn thực, đó là mong cầu cho sự sinh sôi nảy nở của cây trồng, mùa màng tươi tốt,… có thể cho rằng đó là văn hóa nông nghiệp của cư dân người Việt cổ trong thời đại Đông Sơn… Do vậy, tín ngưỡng nông nghiệp là đặc điểm chung trong các lễ hội của người Việt xứ Thanh. Tuy nhiên, tín ngưỡng nông nghiệp không đứng riêng lẻ mà kết hợp với các tín ngưỡng khác tạo nên màu sắc đa dạng cho lễ hội. Tiêu biểu cho sự kết hợp đó là tín ngưỡng nông nghiệp kết hợp với tín ngưỡng núi; kết hợp với tín ngưỡng sông, biển; kết hợp với văn hoá nho giáo;… tất cả lại được kết hợp với tín ngưỡng thần linh tạo nên sự phong phú, đa dạng. Các lễ hội vùng quê tập trung nhất, tiêu biểu nhất là ở các nơi thờ Thánh ngưỡng ngũ vị (thờ cha con Lê Ngọc), trải dài từ phía Nam - Đông Sơn đến phía Bắc - Nông Cống. Nơi thờ chính là Đền Sâm (Đông Anh, Đông Sơn); các nơi khác như ở Đền Sòng và các miếu nhỏ ở Thọ Xuân; Như Xuân; Tĩnh Gia. Và Nông Cống là nơi Chàng út Đại vương “hoá” đã được nhân dân lập nhiều Đền thờ như: Đền Mối, Đền Ối, Đền Mưng (thờ Thánh Lưỡng Tham Xung Tá quốc), thờ Vua Bà Tam Giang ở Ngã Ba Vua Bà (xã Trung Thành, huyện Nông Cống);… Dân Thanh Hoá xưa còn truyền tụng Thánh Lưỡng có “Cửu thập lục từ”, nghĩa là có 96 đền thờ ông. Đây là hiện tượng thờ Hạt máu rơi khá phổ biến ở Thanh Hoá [60, tr.379]. 18 Các đền thờ Đức Thánh Lưỡng trải dài từ Vĩnh Lộc, Hà Trung, Thiệu Yên,… đậm đặc nhất là ở Đông Sơn, Triệu Sơn, Nông Cống. Cha con Lê Ngọc là người Trung Quốc nhưng đã hoà nhập được với đời sống cộng đồng người Việt, cụ thể là người Thanh Hoá. Do vậy, nhân dân Thanh Hoá tỏ lòng biết ơn tới công đức của họ. Việc tổ chức thờ cúng họ đã thể hiện sự kính trọng, ngưỡng mộ của người dân Thanh Hoá. Các vị Thành hoàng có công âm phù báo mộng giúp vua dẹp giặc cũng là hiện tượng phổ biến trong các lễ hội vùng quê, tiêu biểu như: Làng Cổ Bôn, Đông Thanh, Đông Sơn có Thành hoàng làng Ngọc Tích (Đế Thích), hiệu là Đức Thánh Cả báo mộng giúp vua nhà Trần thắng giặc Nguyên - Mông, dẫn đường cho Lê Lợi tiến quân tiêu diệt giặc Minh; Thành hoàng làng Phúc Triền là Phúc Khê tướng công Nguyễn Văn Nghi, là một nho thần thời Lê Trung Hưng, được phong Phúc thần; Thành Hoàng làng Kim Bôi là Đặng quận công Nguyễn Khải, con trai của tướng công Nguyễn Văn Nghi - Hặch Bạch Đại Vương;… Bên cạnh các lễ hội vùng quê, các lễ hội đại diện cho tín ngưỡng sông, biển, núi cũng là hiện tượng đặc trưng ở Thanh Hoá. Các lễ hội vùng sông, biển, cửa lạch có tục thờ Tứ vị Hồng nương và thờ thần Núi (Độc Cước, Cao Sơn) là hai hiện tượng tiêu biểu cho tín ngưỡng sông, biển và tín ngưỡng núi thể hiện văn hoá tâm linh của người dân vùng này. Thờ Tứ vị Hồng nương tập trung ở cửa biển lớn, dọc các làng ven biển. ở Quảng Xương có 13 nơi thờ, tiêu biểu là làng Cự Nham - nằm ở cực Đông Nam huyện Quảng Xương. Phía Bắc của làng có cửa sông Lạch Ghép là đoạn sông nối từ biển lên đến Phà Ghép. Trong lễ hội có tục múc nước và cát giữa sông để thờ, tổ chức bơi thuyền trong lễ hội,... Lễ hội làng Cự Nham đại diện cho lễ hội cửa lạch, nằm trong văn hoá cửa lạch; làng chài ở xã Hải Thanh, 19 huyện Tĩnh gia là một làng chuyên nghề đánh bắt cá biển, có cửa lạch lớn, tàu thuyền hàng ngày ra vào tấp nập. Đền thờ Tứ vị Hồng nương ở một vị trí trên gò đất cao nằm sát ven biển, hướng đền quay ra biển lớn, ngày ngày tàu bè tấp nập ra vào nơi cửa lạch đều cầu mong và tạ ơn Thần đã phù hộ độ trì cho đoàn thuyền đánh cá được thuận buồm xuôi gió. Đây cũng là mảnh đất sinh ra thể loại hát Khúc (khúc hát ru), hát Nhật trình, hò Hái củi, hát Trống vả. Thờ thần sông - thần biển, cửa lạch để công cầu thần phù hộ được thuận buồm xuôi gió, đời sống yên lành,… tỏ rõ tâm linh người dân vùng sông nước Thanh Hoá. Đại diện cho tín ngưỡng núi là Thần Độc Cước được thờ ở Hòn Cổ Giải, nằm ở mỏm núi Trường Lệ, Sầm Sơn. Là một vị thần trị tà ma quỷ quái bằng cách xẻ thân mình thành hai nửa, mỗi nửa đứng một chân. Một nửa trên cạn để trừ tà ma trên đất liền, một nửa ở dưới biển trừ bọn quỷ dữ ở biển Đông, đem lại cho dân làng cuộc sống ấm no, yên bình. Dấu vết của tín ngưỡng núi rừng được biểu hiện qua Tục lệ thờ thủ trâu sống trong ngày hội rước kiệu. Thờ thần núi còn gặp ở nhiều nơi khác như thờ Thành hoàng Cao Sơn Độc Cước ở Làng Duy Tinh, Văn Lộc, Hậu Lộc; thờ Cao Sơn Đại Vương ở làng Vạc, Thiệu Đô, Thiệu Hoá;… Nhìn chung lễ hội tín ngưỡng nông nghiệp thể hiện rất rõ bản sắc địa phương. Bên cạnh phần lễ rất uy nghi, nghiêm chỉnh là phần hội với những trò diễn, diễn xướng, những làn điệu dân ca ghi lại nhiều dấu ấn độc đáo của nền văn hóa, văn minh nông nghiệp xứ Thanh. 1.3.2. Lễ hội lịch sử: Lễ hội lịch sử được hình thành trên một sự kiện lịch sử diễn ra tại địa phương, trong các sự kiện đó nổi bật lên một số nhân vật điển hình có ảnh hưởng lớn đến cả cộng đồng, đó là những người anh hùng có công đánh giặc ngoại xâm trong quá khứ hào hùng trên đất Thanh Hoá. Các lễ hội lịch sử 20 được tổ chức để tưởng niệm đến những con người có thực, tiêu biểu cho cả quá trình chiến đấu và xây dựng của cả cộng đồng để hình thành nên cuộc sống tốt đẹp hơn ngay trên quê hương của mình. Đại diện cho lễ hội lịch sử là lễ hội làng Xuân Phả, lễ hội Bà Triệu, lễ hội Đền Đún, lễ hội Trần Khát Chân,… Lễ hội bà Triệu - làng Phú Điền, Triệu Lộc, Hậu Lộc là lễ hội được hình thành trên một sự kiện lịch sử thời kỳ đấu tranh chống phong kiến Trung Hoa thống trị lần thứ hai, làm sống lại tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất và tài năng xuất chúng của bà Triệu. Trong lễ hội có trò Ngô Triệu giao quân diễn tả lại cuộc đánh nhau giữa hai bên, bên nào thắng là quân Bà Triệu, bên thua sẽ là quân Ngô. Đạo cụ diễn trò là gậy, gộc,… khi có hiệu lệnh cả hai bên lao vào đánh nhau, thậm chí có người còn bị chảy máu,… nhưng tất cả đều vui vẻ, hả hê, không trách cứ người đánh vào mình. Diễn tả lại cảnh Bà Triệu đánh nhau với quân Ngô để ôn lại quá khứ hào hùng của Bà Triệu, tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của bà sống mãi trong lòng nhân dân Thanh Hoá. Lễ hội Đền Thánh Tến gắn với sự kiện Lê Phụng Hiểu thời Lý Thái Tổ có công bảo vệ ngai vàng cho thái tử Phật Mã (sau đó lên ngôi là vua Lý Thái Tông), dẹp được “Loạn tam vương” tranh giành ngôi vua, có công đánh thắng quân Chiêm Thành ở phía Nam,… Lễ hội Đền Thánh Tến được tổ chức kéo dài từ tháng 11 đến hết tháng 2, trong đó ngày 8 tháng 2 mới là ngày Đại tế, là ngày vui nhất, nô nức nhất của dân làng. Trong Tế Thánh có hát múa Chèo chải để chầu Thánh. Không gian diễn Chèo chải là sân Đền vừa để cho Thánh ngự lãm vừa để cho dân làng được xem. Lễ hội đền Đún thờ Thánh lưỡng Trần Khát Chân gắn với sự kiện chiến thắng Chế Bồng Nga (vua Chiêm Thành) trên sông Hoàng Giang, ca ngợi sự anh dũng hy sinh của ông khi bị Hồ Quý Ly giết chết,... Trong ba ngày lễ hội
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất